Ẩm thực Việt Nam là một trong những nền ẩm thực đặc sắc của khu vực Đông Á, ngày càng được quốc tế đánh giá cao. Bún chả được nhiều nhà phê bình ẩm thực danh tiếng lựa chọn, phở được yêu thích tại Nhật Bản, bánh mì mở cửa hàng ở Hàn Quốc, món ăn đường phố Việt Nam góp mặt trong chương trình Street Food của Netflix… Điều này cho thấy nền ẩm thực Việt Nam rất đa dạng, mới lạ, thu hút những người “sành ăn” trên toàn thế giới. Hãy cùng TopChuan.Com đón đọc Top 10 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất nhé.
Nem rán/chả giò
Nem rán (người miền Trung gọi là “ram nướng” còn người miền Nam gọi là “chả giò”) là một món ăn truyền thống của người Việt, thường hay được làm vào các dịp cổ, hoặc cúng bái gia tiên, đặc biệt là dịp Tết. Nguồn gốc của nem rán có lẽ bắt nguồn tử ẩm thực Trung Hoa, đặc biệt là ẩm thực Hong Kong nhưng món nem rán ở Việt Nam đã có nhiều khác biệt. Nem rán truyền thống là món cuốn, với nhân là thịt lợn băm nhuyễn, trộn chung với miến, nấm, mộc nhĩ… rồi cuộn trong bánh đa nem làm từ bột, rồi chiên giòn. Ngày nay, có nhiều món nem rán được biến tấu khác đi, trong đó có nem hải sản với nhân hải sản (tôm, cua, cá) với vỏ tẩm bột chiên giòn.
Nem rán được xem là món ăn gia đình phổ biến, hầu như mọi nhà đều ăn nem rán tương đối thường xuyên. Nem rán có thể ăn cùng với cơm hoặc bún, người miền Nam có món “bún chả giò”, ăn bún kèm với chả giò.
Bánh xèo
Bánh xèo là món ăn vặt phổ biến ở khu vực Trung bộ, từ Nghệ An vào đến Huế. Đây là món bánh bột, cuộn bọc nhân gồm có tôm, thịt, giá đỗ… và nướng chín trong chảo ngập dầu. Vỏ bánh xèo là bột mì trộn với nghệ để tạo màu vàng bắt mắt, cùng đó là nước cốt dừa để tạo hương vị cho món ăn. Bánh xèo ở mỗi vùng lại khác nhau, nhân có thể có thêm trứng, rau sống hoặc những thứ khác. Khác với phở, bún, bánh chưng, bánh mì có thể ăn thay bữa chính, bánh xèo thường để ăn chơi, chấm với nước chấm hoặc nước tương. Ngày nay, bánh xèo khá phổ biến ở mọi tỉnh thành Việt Nam như một món ẩm thực đường phố đặc trưng.
Bánh cuốn
Và cái tên cuối cùng không thể thiếu trong Top 10 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất, đó là bánh cuốn. Đây cũng là một trong những món ăn lâu đời nhất trong các món ăn dân gian Việt Nam.
Theo sử sách ghi lại, vua Trần Nhân Tông khi tặng quà cho sứ Trương Hiển Khanh có nói: “Hôm nay đúng ngày mồng 3 tháng 3, trên chiếc mâm chạm hình mây đỏ bày bánh xuân thái, là phong tục cũ của An Nam xưa nay”. Bánh xuân thái chính là tên gọi khác của bánh cuốn. Trong sách An Nam chí lược cũng có ghi chú “Vào tết Hàn thực, đem bánh cuốn tặng nhau”. Như vậy, bánh cuốn là một món ăn phổ biến chốn cung đình từ thời Trần và nếu như theo vua Trần Nhân Tông thì món ăn này là phong tục cũ từ tận thời An Nam truyền lại.
Bánh cuốn được làm bằng cách tráng bột gạo mỏng thành vỏ bánh, khi vỏ bánh bắt đầu kết dính lại thì đổ nhân gồm thịt băm, mộc nhĩ, nấm hương, hành khô. Sau đó cuộn bánh lại, tạo thành chiếc bánh cuốn thơm ngon, đẹp mắt. Khi tráng xong, bánh cuốn sẽ được bày ra đĩa, rắc hành khô, ăn cùng rau sống, chả lợn và chấm nước mắm. Nước mắm chấm bánh cuốn thường được pha nhạt hơn và pha thêm dưa góp, tỏi, ớt, tiêu…
Ngày nay, bánh cuốn vẫn là món ăn đặc trưng ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, trong đó, món bánh cuốn Thanh Trì là nổi tiếng nhất.
Cao lầu
Cao lầu là một món ăn đặc trưng của Hội An và Quảng Nam, được CNN xếp thứ 4 trong 40 món ăn ngon nhất của ẩm thực Việt.
Cao lầu là một món mì có sợi to, tương tự mì udon, nhưng là mì trộn, với nhân gồm có rau sống, thịt lợn nướng và đặc biệt là bì rán giòn tan.
Lịch sử ra đời của món cao lầu thì không ai rõ, nhưng điều kỳ lạ là người ta nói cao lầu bắt nguồn từ người Tàu, còn người Tàu lại không nhận món này bắt nguồn từ họ. Theo truyền thuyết, tinh tế của cao lầu ở sợi mì, được làm từ bột gạo ngâm trong nước tro củi lấy từ Cù Lao Chàm, còn nước xay gạo thì phải lấy từ giếng Bá Lễ của người Chăm. Nhưng có lẽ đó cũng chỉ là một lời truyền miệng để món ăn thêm phần hấp dẫn bởi cách thức quá cầu kỳ, phức tạp.
Bánh chưng/bánh tét
Bánh chưng (người miền Nam gọi là bánh tét) là món ăn truyền thống, có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam, được xem là từ thời đại Vua Hùng, với truyền thuyết “bánh chưng bánh dày”.
Theo truyền thuyết, Vua Hùng tổ chức cuộc thi dành cho các hoàng tử để chọn người con nối dõi. Các hoàng tử sẽ phải đi khắp nơi, đem về những món ăn ngon nhất, vua cha sẽ chọn người con có món ngon nhất để kế vị. Lang Liêu là con út của vua, sau khi đi khắp nơi, chàng được quý nhân báo mộng cách làm bánh chưng, bánh giày từ gạo – thức ăn nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán; làm theo hình vuông và tròn tượng trưng cho đất và trời; với nhân thật ngon biểu chưng cho lòng hiếu thảo. Trong khi các anh mang về đủ món sơn hào hải vị, món bánh chưng bánh giày lại được vua cha cảm nhận được vị mặn vừa, dẻo quánh, đậm đà tình thân nên đã chọn chàng làm người kế nghiệp. Từ đó, bánh chưng bánh giày trở thành món ăn truyền thống, biểu tượng báo hiếu cha mẹ.
Cách làm bánh chưng biểu trưng cho văn hóa ẩm thực dân gian Việt Nam: Sử dụng nguyên liệu dân dã, chế biến với gia vị, hầm trên lửa và bảo quản để được lâu. Nguyên liệu bánh chưng gồm vỏ bánh là gạo nếp giã nhỏ; nhân gồm thịt lợn, đậu xanh. Bánh chưng được gói thành hình vuông, bên trong lá dong hoặc lá chuối để có màu xanh. Sau khi gói, bánh chưng được luộc cách thủy rất lâu, thông thường phải ngồi trông vừa chín tới để không bị nát, cháy mà cũng không bị sống. Đây là sự tinh tế nhất của món bánh chưng, thường gắn liền với hình ảnh đám trẻ con ngồi trông bánh chưng xuyên đêm, vừa trông vừa đánh bài tam cúc dịp Tết. Sau khi chín, bánh chưng chỉ cần bóc ra là ăn được, có thể ăn luôn hoặc ăn với dưa, hành, củ kiệu.
Bánh tét ở miền Nam có cách làm tương tự nhưng thay vì hình vuông là hình trụ. Nhiều người cho rằng đây mới là hình dạng nguyên sơ của bánh chưng, và bánh chưng bánh giày thực ra được làm theo tín ngưỡng sinh thực khí.
Chả cá
Không thực sự quá nổi tiếng như những món ăn trên, thế nhưng chả cá lại được báo CNN nổi tiếng xếp thứ 2 trong danh sách 40 món ăn ngon nhất trong ẩm thực Việt Nam. Ngày nay, chả cá không còn phổ biến nhưng chả cá đã từng là món ăn phố phường, dành cho những gia đình khá rả tại những thành phố lớn.
Chả cá là món chả làm từ cá, tương tự chả lợn nhưng thay thịt lợn bằng cá. Món chả cá nổi tiếng nhất là chả cá Lã Vọng. Nguồn gốc chả cá Lã Vọng bắt nguồn từ Hà Nội thời Đông Dương. Khi đó, có gia đình họ Đoàn ở số 14 Hàng Sơn lấy nhà mình cưu mang nghĩa quân Đề Thám, thường hay làm một món chả từ cá rất ngon đãi nghĩa quân. Sau đó, Đề Thám cùng nghĩa quân giúp chủ nhà mở một hàng chả cá vừa để chủ nhà kiếm sống, vừa để làm nơi họp quân. Trong nhà hàng luôn bày tượng ông Lã Vọng – Khương Tử Nha bó gối câu cá, ám chỉ người tài giỏi chờ đợi thời cơ. Món ăn của nhà hàng trở nên nổi tiếng, được gọi là chả cá Lã Vọng.
Chả cá Lã Vọng có cách làm tương đối cầu kỳ. Cá sử dụng thường là cá lăng tươi, thịt ngọt, thơm, ít xương. Cá được lọc bằng cách lạng từ hai bên sườn, sau đó ướp gia vị bí truyền với riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, mắm… Cá phải ngâm trong hai giờ, rồi nướng trên lửa hồng, lật giở đều tay để các mặt chín vàng như nhau. Sau khi nường, lại cho chả vào chảo mỡ, đảo qua trong mỡ sôi lăn tăn, khi đã vàng thơm thì cắt thì là, rau thơm vào đảo đều, trộn lẫn. Vì cách làm cầu kỳ nên chả cá Lã Vọng đã từng là món quà cho những nhà khá rả. Đến nay, chả cá Lã Vọng vẫn là một món ăn nổi tiếng ở Hà Nội.
Bún
Bún là một món ăn đặc trưng khác trong ẩm thực Việt Nam, mà nếu sử dụng tên tiếng Anh cũng sẽ gọi là “noodle”. Bún ở Việt Nam cũng có cách làm gần giống với phở, đó là làm từ gạo, nhưng sợi bún tròn hơn và nhanh chua hơn. Về nguồn gốc, bún còn ra đời trước phở rất lâu, được xem là ra đời từ thời Lý-Trần. Bún ở Việt Nam có phần giống với hủ tiếu ở Trung Quốc, mì Udon của Nhật, Khanom chin của Thái, nên có thể xem như là những món “noodle” ở Đông Á đều có chung nguồn gốc và ảnh hưởng lẫn nhau, về mỗi quốc gia lại tự biến tấu thành những món riêng của quốc gia mình.
Món bún ở Việt Nam rất đa dạng. Sợi bún thì có bún rối, bún vắt, bún nắm. Các loại món bún có bún nước, bún trộn, bún chấm. Các món bún phổ biến ở Việt Nam là bún chả, bún bò, bún thang, bún đậu, bún ngan, bún mọc, bún cá, bún thịt nướng… Trong đó, nổi tiếng và ngon nhất là bún chả và bún bò Huế
- Bún chả: Đây là món ăn đặc sản của Hà Nội và miền Bắc Việt Nam, có độ nổi tiếng không thua kém gì phở. Nếu như phở được chọn làm món ăn đại diện cho ẩm thực Việt, thì bún chả lại là món ăn được nhiều tạp chí và chuyên gia ẩm thực đánh giá cao nhất, cho là món ăn ngon nhất Việt Nam. Bún chả là món bún ăn kèm với chả lợn nướng (thường là chả băm hoặc chả thịt miếng), chả được nướng trên vỉ than hồng dậy mùi thơm, ăn kèm với nước chấm và các loại rau sống. Mới đây, cựu tổng thống Mỹ Obama cùng chuyên gia ẩm thực người Mỹ đã đến ăn bún chả ở Hà Nội, càng khiến món bún chả trở nên nổi tiếng hơn nữa.
- Bún bò Huế: Là món ăn đặc trưng của “cố đô” Huế. Bún bò Huế là món bún chan, khác với bún bò ở miền Bắc, thường có nước dùng ngọt hơn, và không chỉ có thịt bò mà còn có chân giò heo, mọc, tiết… Một món bún bò khác cũng nổi tiếng, đó là bún bò Nam Bộ.
Phở
Nguồn gốc của món phở bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ 20, tại Hà Nội và Nam Định. Đây cũng là hai địa điểm có loại phở truyền thống ngon nhất và nổi tiếng nhất: phở Hà Nội và phở bò Nam Định.
Đặc điểm chung của phở đó là một món ăn làm từ sợi phở, có nước súp, ăn cùng thịt bò hoặc gà cùng các gia vị như hành.
- Sợi phở: là một loại noodle được làm từ gạo, có màu trắng, dẹt, to bản
- Nước dùng: Đây được xem là tinh hoa của món phở, với công đoạn chế biến cầu kỳ, tỉ mỉ. Đặc trưng của nước dùng là xương ống ninh nhừ, kết hợp cùng nhiều loại gia vị như gừng, củ hành nước; một số nơi kết hợp thêm cả thảo quả, hoa hồi, đinh hương, địa sâm. Theo món phở truyền thống thì nước dùng không thể thiếu đuôi bò.
- Thịt: Phở có hai loại phở chính là phở bò và phở gà, trong đó phở bò là loại phở truyền thống đầu tiên. Với phở bò, có một số phương pháp làm thịt bò phổ biến là bò tái, bò chín, bò tái chín với các loại thịt là nạm, gàu, gân.
- Gia vị: Gia vị đi kèm phở phổ biến là hành, chanh, giấm, tiêu, mắm, ớt…
Bắt nguồn từ miền Bắc, phở đã trở thành món ăn phổ biến của người Việt thời Đông Dương tới tận bây giờ. Đây là món ăn vô cùng đặc sắc của Việt Nam và hiện nay vẫn phổ biến ở Việt Nam. Chúng ta có thể tìm thấy những cửa hàng phở gia truyền nổi tiếng, chuỗi nhà hàng phở hiện đại hoặc các cửa hàng ăn bún-phở bình dân ở mọi miền đất nước. Chính vì thế, phở được xem là món ăn “quốc hồn quốc túy”, đại diện cho ẩm thực Việt Nam và đứng đầu trong Top 10 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất.
Gỏi cuốn
Gỏi cuốn là món ăn phổ biến ở ca ba miền Bắc, Trung, Nam, nhưng phổ biến nhất là ở Nam Bộ. Gần như không có công thức cố định cho gỏi cuốn bởi mỗi vùng miền lại chế biến khác nhau, nhưng các thành phần chung bao gồm bánh tráng và nhân. Trong dó, nhân thường là rau sống, bún, thịt (bò, heo), chả, giò, trứng và đặc biệt, gỏi cuốn ngon nhất là có nguyên một con tôm bên trong nhân. Món gỏi cuốn ăn chấm với nước tương, nước mắm hoặc nước sốt, thường để ăn khai vị hoặc nhậu rượu bia.
Gỏi cuốn được CNN xếp thứ 7 trong 40 món ăn ngon nhất của ẩm thực Việt Nam và cũng xếp thứ 7 trong Top 10 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất.
Bánh mì
Được mệnh danh là “loại bánh sandwich ngon nhất thế giới”, bánh mì cũng được vinh dự xếp trong Top 10 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất.
Có nguồn gốc từ bánh mì của Pháp mang sang, người Việt Nam đã rạch bụng ổ bánh mì và nhồi vào đó nhiều loại nhân khác nhau, tạo nên một loại bánh mì Việt Nam đặc trưng, khác biệt so với bánh mì Pháp, vốn dùng để cắt lát ăn với bơ sữa. Nhân bánh mì rất đa dạng: chả lợn, giò lợn, thịt lợn nướng, trứng tráng, xúc xích, lạp xưởng… tuy nhiên, nổi tiếng nhất chính là bánh mì nhân patê. Patê là một món ăn xay nguyễn từ gan lợn đun nóng, khi kẹp bánh mì thường được đi kèm với rau sống. Bánh mì ở Việt Nam rất đa dạng, có thể được kẹp với nhiều loại nhân khác nhau, bởi vậy mỗi hàng bánh mì có thể sẽ có công thức và vị khác nhau. Bánh mì thâp cẩm là bánh có nhân tổng hợp nhiều loại nhân khác nhau. Do giá thành không cao, bánh mì thường được bán ở đường phố hoặc một số cửa tiệm, thích hợp với mọi tầng lớp.
Có thể bạn thích: