Vậy là năm Canh Tý sắp khép và lại sắp đến Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 sắp tới. Đây cũng chính là khoảng thời gian để mọi người trong gia đình đoàn tụ sau một năm vất vả làm việc. Do đó mâm cỗ các ngày Tết cũng bắt buộc cần được chuẩn bị vô cùng thịnh soạn, đầy đủ. Không chỉ thể hiện cho sự no ấm, hạnh phúc mà còn mong ước có một năm mới đầy đủ và phát đạt. Trong bài viết hôm nay TopChuan.com xin gửi tới quý độc giả các món ăn truyền thống đặc sắc nhất xuất hiện trên mâm cơm ngày Tết của một số dân tộc trên khắp mọi miền tổ quốc VN) mình nhé.
Dân tộc Cơ Tu
Ăn Tết, người Cơ tu Nam Giang gọi là Cha Pổiq hay Cha Pling, còn người Cơ tu ở Đông Giang và một số ở Nam Giang thì gọi là Cha Pruôt. Thực ra “Pling” hay “Pruôt” đều có nghĩa là Tết (“Cha” trong tiếng Cơ tu nghĩa là ăn), và cũng có nghĩa là tổng kết một năm bội thu hay thất bát, khỏe mạnh hay ốm đau.
Trước đây, người Cơ Tu thường ăn Tết riêng là Tết ăn cơm mới sau mỗi vụ mùa. Vài năm trở lại đây, người Cơ Tu Quảng Nam cũng ăn Tết cổ truyền như người Kinh nhưng vẫn giữ được nét văn hóa ngày Tết riêng biệt. Với người Cơ tu, ẩm thực ngày tết thì không thể không có rượu.
Hai loại rượu truyền thống đặc sắc của người Cơ tu là rượu Tà vạt và rượu cần. Cùng với việc chuẩn bị các loại rượu, một loại bánh không thể thiếu được trong mâm lễ cúng dâng lên Giàng của người Cơ Tu là bánh Avị cuốt – bánh sừng trâu. Trên mâm tết đãi khách của người Cơ Tu bao giờ cũng được dọn rất nhiều món ẩm thực truyền thống, từ bánh sừng trâu, thịt nướng ống, thịt xông khói… cho đến cơm lam, thịt cá, thịt đông và các loại rượu cho chính đồng bào tự làm. Tất cả được chế biến theo hương vị truyền thống rất đặc trưng, cùng hương thơm của tiêu rừng, lá rau rừng tự nhiên. Họ cùng ăn, cùng uống, cùng vui chơi suốt 3 ngày tết, như một dịp tự thưởng cho mình sau một năm làm lụng vất vả công việc nương rẫy.
Dân tộc Thái
Khi các ngày Tết cổ truyền của dân tộc cận kề cũng là thời điểm khắp các bản làng đồng bào dân tộc Thái Mai Châu “dậy mùi” thơm cay nồng của thịt, cá ướp các loại gia vị rừng được đồ chín hoặc sấy khô trên bếp than hồng. Cùng với đó là xôi ngũ sắc được nấu từ loại nếp nương dẻo thơm, béo bùi tạo buộc cần mùi vị “không lẫn vào đâu được”. Những món ăn truyền thống ấy đã trở thành một phần hương vị Tết của đồng bào địa điểm đây.
Người Thái thường sống ở các vùng ven sông, ven suối buộc cần cá là món ăn phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Thái, nhất là trong các ngày tết Nguyên đán. Người ta chọn con cá to nhất làm con cá đầu mâm cỗ nên được nướng nguyên con. Số cá còn lại được chế biến theo phương pháp riêng của vùng này như: cá đồ, cá sấy, cá nướng, cá sả, cá độn cơm, cá mọc, cá gói vùi tro bếp, lạp cá “pa lạp”…
Dân tộc Kinh
Người Kinh chiếm 85,3% dân số của cả nước, sinh sống và làm việc trải dài khắp các tỉnh từ miền Bắc ra đến miền Nam. Tết của người Kinh được xem là nét đẹp văn hóa đặc trưng của cả dân tộc Việt Nam, có nhiều phong tục truyền thống mang ý nghĩa sâu sắc nhằm mong một năm mới bình an, thịnh vượng và gặp nhiều may mắn.
Dân tộc Kinh là dân tộc có rất nhiều các món ăn ngon, dân số chiếm đại đa số trong 54 dân tộc anh em, mâm cỗ ngày Tết truyền thống của người Kinh không thể thiếu được các món ngon quen thuộc như: bánh tét, bánh chưng, dưa hành, củ kiệu, thịt đông, nem, giò, xôi, gà luộc hay canh măng,… Đó là các món ăn truyền thống việt nam dễ làm.
Ẩm thực của người Kinh tuy có khác nhau về món ăn từng vùng miền nhưng vẫn có các điểm tương đồng, hài hòa, tạo buộc cần phong phương pháp ẩm thực thống nhất, độc đáo. Những nét đẹp trong văn hóa ẩm thực ấy luôn bắt buộc được lưu giữ và phát huy mãi mãi để góp phần làm phong phú thêm cho bức tranh muôn màu của các dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Mường
Người Mường vốn nổi tiếng với các món ăn vô cùng độc đáo, lạ mắt và thơm ngon. Mâm cơm của bữa ăn ngày thường hay mâm cỗ ngày lễ tết đều được người Mường chế biến, bầy biện vô cùng khéo léo, đúng với cổ truyền.
Giống như người Kinh, bánh chưng là món ăn đặc trưng không thể thiếu trong chiếc Tết của người Mường. Trước Tết từ 2 đến 3 ngày, mọi người trong bản, trong họ tộc hẹn lịch nhau, tập trung gói bánh từ nhà này sang nhà khác. Thời gian này như là ngày hội đối với dân bản, tuy bận rộn nhưng rất vui.
Người Mường cho rằng: Các món thịt cần được bày trên lá chuối mới giữ được vị thơm đặc trưng của thịt; Mâm cỗ cần đủ giá trị dinh dưỡng, các món ăn với các chất liệu phù hợp, có lợi cho sức khoẻ; Mâm cỗ ngon cần có đủ vị chua, cay, ngọt, mặn, chát và cần ngồi ăn ở không gian thoáng, mát, có bạn hiền, có khách quý cùng ăn. Như vậy mới thật ngon, thật ý nghĩa. Các món ăn đặc trưng dịp Tết ở đây như: Pẻng năng (bánh nẳng), Cá ướp chua, Chả rau đáu…
Dân tộc Ê Đê
Trong chiếc không khí ấm cúng, sum vầy ngày Tết, canh bột lá yao – một món ăn truyền thống của người Ê Đê lại làm nức lòng các người con xa xứ trở về và gắn kết các thành viên trong gia đình.
Một điểm bắt buộc chú ý là khi nấu canh bột lá yao, người nấu cần khuấy đều tay và canh lửa để tránh món canh bị đặc và khét. Khi ăn, canh bột lá yao thường được ăn kèm với cơm, cùng với các món truyền thống khác của người Ê Đê như cà đắng giã muối ớt, đu đủ giã kiến vàng, lá mì (sắn) xào, xôi nếp hấp,… Ăn món canh bột lá yao sẽ cảm nhận chút vị đắng của cà, vị cay của ớt, vị sệt sệt của nước canh, vị béo béo của thịt bở và cả mùi thơm dịu của lá yao. Có lẽ bởi thế mà càng ăn canh bột lá yao càng hao cơm, càng muốn ăn và sau đó là nhớ mãi.
Bên ché rượu cần cạnh bếp than hồng vẫn còn ửng lửa, người Ê Đê sum vầy bên nhau, cùng thưởng thức bữa ăn ngày Tết, thưởng thức món canh bột lá yao và trò chuyện rôm rả mong một năm mới ấm cúng, đoàn kết, suôn sẻ. Còn đối với các vị khách – các người ngẫu hứng có chút vô tình được lạc vào bữa ăn ấy, được thưởng thức món canh bột lá yao thì như say theo hương men rượu cần, say theo mùi hương lá yao và càng thích thú với văn hóa ẩm thực của người Ê Đê.
Dân tộc Tày
Những thửa lúa nếp được người dân chăm chút tỉ mỉ; các chú gà thiến được gia chủ vỗ béo bằng hạt thóc, hạt ngô; con lợn đen được chọn riêng trong đàn để nuôi chỉ dành riêng cho ngày Tết… Cứ như vậy, người Tày ở Cao Bằng có khi mất cả năm để chuẩn bị một mâm cỗ Tết sao cho đủ đầy. Cái ngon, sự tinh túy của món ăn không chỉ ở hương vị mà còn ở sự cầu kỳ và trên hết là sự hội tụ văn hóa của dân tộc.
Chính vì thế, ngày gói bánh, mổ lợn được người Tày quan niệm là ngày tất niên, ngày sum họp của đại gia đình, ngày của niềm vui, sự gắn kết tình cảm gia đình. Dù ở bất kỳ địa điểm đâu, xa hay gần, đến ngày tất niên, các thành viên trong mỗi gia đình đều cố gắng về chung vui, cùng gói bánh và chuẩn bị mâm cỗ dâng lên tổ tiên để sang năm mới được bình an, gặp nhiều may mắn.
Trên mâm cúng đều được đặt bằng lá chuối gồm có rượu, xôi trắng đồ trứng kiến gói lá dong, thịt lợn, thịt gà và cá suối đồ nõn chuối; ngoại trừ ra, còn có món bánh đặc trưng không thể thiếu trong mâm cỗ cúng là bánh trưng và bánh gio (còn gọi là bánh chì).
Trong không khí ngập tràn sắc xuân, các chiếc nắm tay thật chặt trong điệu xòe cùng với tiếng chiêng, tiếng trống rộn rã mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào người Tày. Tất cả như muốn gửi gắm các điều tốt đẹp trong năm mới.
Dân tộc Chăm
Ngoài lễ hội Ramadam cùng các lễ hội truyền thống khác, ngày nay, người Chăm ở các địa phương như Ninh Thuận, An Giang…cũng tổ chức vui xuân, đón Tết Nguyên đán với người Kinh.
Cũng như Tết truyền thống Royah Haji, Tết Nguyên đán trong mâm cỗ của người Chăm bao giờ cũng có các món ngon đặc sản truyền thống như cà ri, cà púa, phú ku hay còn gọi là tung lò mò và cơm nị… Với người Chăm, đây cũng là dịp để giáo dục con cháu, ôn lại một năm đã đi qua với các việc làm được, chưa được để năm tới phấn đấu hơn nữa.
Tết Nguyên đán cũng đã là một trong các sự kiện quan trọng trong năm của người Chăm. Tết không chỉ đơn thuần là không khí sum họp gia đình mà còn là chiếc Tết chung của tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc anh em chung sống thuận hòa, nghĩa tình trên dải đất VN) thân yêu.
Dân Tộc Nùng
Dân tộc Nùng thường ở vùng núi cao, đời sống gắn bó với thiên nhiên và có tập quán canh tác tự cung, tự cấp. Người Nùng trước đây hái lượm, săn bắt chim thú, tự trồng trọt, chăn nuôi để chế biến thức ăn. Qua quá trình phát triển, người Nùng đã sáng tạo ra nhiều món ăn độc đáo, tạo buộc cần nét khác biệt. Một số món ăn của người Nùng hiện nay đã trở thành “thương hiệu” đặc sản chuyến du lịch cho vùng đất Lạng Sơn, địa điểm có nhiều người Nùng sinh sống.
Người Nùng không cúng tiễn ông Công, ông Táo về trời nhiều như người Kinh, nhưng chiếc Tết của họ vô cùng đầy đủ và nhộn nhịp. Thường một số bộ phận người Nùng sống xen kẽ với người Tày. Mỗi khi tết đến thì món bánh chưng là món bánh không thể thiếu.
Ngoài ra còn có món bánh khảo hay có tên gọi khác là bánh cao, gói trong giấy màu. Bánh này là các nhà tự chuẩn bị và mời khách của mình thưởng thức, đồng thời họ cũng đánh giá tài nghệ của gia chủ thông qua món bánh này. Thêm một món ăn nữa không thể thiếu, cũng đặc sắc không kém có trong ngày Tết của người Nùng là xôi ngũ sắc, các mâm xôi đủ màu: xanh, vàng, đỏ, tím, trắng… làm cho ngày tết đầy màu sắc sặc sỡ, tươi vui. Hứa hẹn một năm mới đến may mắn và hạnh phúc cho gia đình, người thân.
Có thể bạn thích: