Kim Lân là một cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Văn phong của ông giản dị mà thấm thía. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và văn học kháng chiến nói chung. Hình ảnh bát cháo cám trong tác phẩm là hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của nhà văn. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 2
Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức ám ảnh lâu bền trong người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo (Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí Phèo biết quay về cuộc sông lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.
Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng cỏ một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ” bưng nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.
Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một nụ cười? Ngay cả đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên gặp người con dâu mới, nước mắt khổ đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia hi vọng về chúng.
Vậy thì vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám” với nụ cười đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải bà vui cho bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh, cho con trai và con dâu trong ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm, “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về tương lai như chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói khủng khiếp nhất của năm 1945.
Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình: “Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng, nhưng Bữa cơm ấy phải tươm tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã hết nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt hẫng sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách “cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện nên vợ nên chồng. Nồi cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ hồn nhiên mộc mạc của bà – những bà mẹ nông dân suốt đời lam lũ nghèo khổ.
Bà nấu nồi cháo cám, giấu con trai và con dâu, để đến cái giờ phút nguy kịch đó mới đem ra “cứu nguy” như khi ta xổ ra con át chủ bài lúc ván bài đã đến nước quyết định. Và như ta thấy, bà đã vui vẻ mời chào,đon đả đón lấy bát của con dâu và con trai để múc cháo. Bà còn “nói trại” đi đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết nghệ thuật này, hai lần Kim Lân miêu tả cái dáng tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con một cách thật chân thành và hồn nhiên. Chính điều này làm ta xúc động, xót thương và cảm phục tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà đang vui (điều này hẳn là có vì con trai bà đã có gia đình bà đã có con dâu) hay bà đang cố tạo ra niềm vui cho hai đứa con tội nghiệp của bà đã nên vợ nên chồng trong lúc đói kém này? (Điều này chắc là nhiều hơn, là điều chủ yêu trong lòng bà lúc bấy giờ).
Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi ,tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… Tội nghiệp cho niềm vui của bà – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám “chát xít, nghẹn bứ trong miệng” anh con trai và làm “tối sầm hai con mắt” người con dâu. Và, tiếng cười của bà tắt hẳn khi “một nỗi tủi hờn dâng lên bao quanh mâm cơm”, họ cắm mặt ăn cho xong bữa, ăn mà không nhìn nhau… Kim Lân viết những dòng này tưởng như khách quan, nhưng ta biết lòng ông đau nhói biết chừng nào, bởi chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói của năm Ất Dậu ấy, cũng đã từng phải ăn cháo cám, ông đã biết mùi vị của cháo cám là thế nào?…
Phải, cái nồi cháo cám ấy có gì là quý giá đâu, nhưng tấm lòng người mẹ nông dân một đời nghèo khổ ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới mà bà đã thương yêu sâu sắc, bà tìm thây ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Cái đức hi sinh, vị tha ấy là của bà, của bao bà mẹ nông dân khác mà ta đã gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân đã dành cho bà ở đây, trong phần kết thúc thiên truyện ngắn này, nó vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại cái hương vị đằm thắm nhân bản của khát khao tổ ấm gia đình dù trong cảnh “Vợ nhặt”; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam – “đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng!”
Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc, sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sởtrường về người nông dân Việt Nam: nhà văn Kim Lân.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 10
Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học thời kỳ trước kỳ cách mạng tháng 8 năm 1945. Những tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh người nông dân trong giai đoạn đất nước ta còn trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu khẳng định tên tuổi của ông. Sự thành công của tác phẩm do nhiều yếu tố một trong những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc tới người đọc bởi giá trị nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả.
Hình ảnh nồi cháo cám vào ngày đầu tiên sau khi nhân vật Tràng nhặt được vợ thể hiện sự nhân văn của tác giả với những nhân vật của mình. Với những mảnh đời người nông dân trong xã hội cũ. Trong tác phẩm “Vợ nhặt” tác giả đã tái hiện lại cuộc sống cơ cực, thê lương của những thân phận nông dân trong nạn đói năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta, khiến cho cho nhiều người dân của đất nước ta phải đối diện với những khốn khổ cùng cực. Trong hoàn cảnh mạng người rẻ rúm, cái ăn cái mặc còn chẳng có thì việc nhân vật Tràng một thanh niên bần hàn, sống cảnh mẹ góa con côi. Tràng có ngoại hình khá thô kệch, thân thể to xác, và đầu óc thì lúc nào cũng toàn chứa những suy nghĩ kỳ quái.
Một con người như Tràng sẽ thật khó khăn trong việc lấy được vợ. Nhưng trong hoàn cảnh nghèo đói, khốn cùng anh ta lại nhặt được vợ vô cùng dễ dàng chỉ với một câu nói bông đùa “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói vu vơ, bông đùa như vậy mà có người con gái theo không hắn về nhà làm vợ. Sau đêm tân hôn bất ngờ tới ngỡ ngàng. Bữa ăn của cả gia đình mừng ngày Tràng có vợ bưng ra chỉ là nồi cháo cám đắng chát. Mẹ chồng sợ con dâu buồn vì cảnh nhà quá nghèo nên phân bua “Kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chẳng ai chấp nhặt gì lúc này”.
Hoàn cảnh của gia đình Tràng khiến nhiều người phải rưng rưng rơi lệ. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với nồi cháo cám, nhưng cả đều ăn rất ngon lành. Một bữa cơm quá khổ cực như vậy thì làm sao ngon lành cho được nhưng có lẽ cả ba người đều cố gắng tỏ ra vui vẻ, hoặc giả họ vui vì biết đâu ngày mai sẽ khác, vì từ nay họ đã có đôi gia đình có thêm người thì có thêm nhân lực lao động. Tuy nhiên bữa cơm của cả gia đình anh Tràng vẫn là một bữa cơm hạnh phúc bởi trong bối cảnh có nước ta lúc bấy giờ có hai triệu người dân chết đói vì không có gì để mà ăn, thì nồi cháo cám vẫn là thứ lương thực quý giá có thể duy trì mạng sống của con người trong cảnh khốn cùng. Trong cảnh nhà neo đơn thêm miệng ăn là thêm một gánh nặng.
Nhưng bà cụ Tứ mẹ của anh Tràng vẫn vui vẻ tiếp nhận một người con dâu vợ với không biết từ đâu dạt về đây rồi vào nhà mình làm dâu, không biết gốc tích cô gái này thế nào đã lập gia đình lần nào chưa? Hay là gái giang hồ, nhiều tai tiếng, rồi nay muốn lánh tạm ở một gia đình kiếm miếng ăn qua ngày. Bà cụ Tứ không suy nghĩ so đo, tiếp nhận cô con dâu của mình bằng cả tấm lòng nhân hậu của một người làm mẹ thương con trai thật lòng mình.
Bà muốn con bà vui vẻ, bà cũng muốn cho cô gái kia một gia đình bởi trong hoàn cảnh đất nước loạn lạc như hiện nay một cô gái sống một mình nay đây mai đó sẽ có rất nhiều nguy hiểm rình rập. Hình ảnh nồi cháo cám gợi cho người đọc rất nhiều suy nghĩ, khiến cho ai cũng cảm thấy nghẹn ngào cảm thương cho những thân phận con người trong thời kỳ khó khăn đã tìm tới nương tựa vào nhau. Họ tìm tới nhau, như thể mong tìm tới niềm hy vọng vào cuộc sống tương lai sẽ tốt đẹp hơn.
Một tương lai được cách mạng soi đường chỉ lối, một tương lai ấm no hạnh phúc hơn. Hình ảnh cuối cùng của câu chuyện chính là lá cờ đỏ sao vàng, phá những kho thóc Nhật cứu đói dân nghèo thể hiện niềm tin tưởng của những người dân nghèo khốn khổ.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 7
Ai đó từng nói rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả đúng là như vậy, Kim Lân đã xây dựng chi tiết nồi cháo cám thật độc đáo, gây được ấn tượng mạnh với độc giả qua truyện ngắn “Vợ nhặt”. Hình ảnh này đã góp phần tạo nên thành công trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Kim Lân là nhà văn viết truyện ngắn chân thật và xúc động về đời sống dân quê, ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí các nhân vật của mình. Năm 1954, Kim Lân đã viết tác tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Những con chó xấu xí”. “Vợ nhặt” đã tái hiện lại một cách chân thật về nạn đói ở nước ta năm 1945 khiến khoảng hai triệu người chết. Hình ảnh nồi cháo cám thật đắt giá khi đã thể hiện được bức tranh hiện thực năm ấy.
Đây là chi tiết xuất hiện ở cuối tác phẩm gắn với nhân vật bà cụ Tứ, anh cu Tràng và thị. Cháo cám là món ăn đầu tiên khi thị về nhà Tràng làm dâu. Bữa cơm ngày đói đã thảm hại khi “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối”, “một đĩa muối ăn với cháo” nay lại càng thảm hại hơn khi có sự xuất hiện của nồi cháo cám. Bà cụ Tứ lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm rồi cầm cái môi vừa khuấy vừa cười: “Chè đây. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Thực chất cám là thứ đã bỏ đi, chỉ dành cho động vật ăn nhưng trong thời buổi đói khát thì “khối nhà chẳng có cám mà ăn”.
Bát cháo cám có vị “đắng chát”, “nghẹn bứ trong cổ” khiến mặt anh cu Tràng “chun ngay lại”, người con dâu thì “điềm nhiên và vào miệng”, hai con mắt tối lại. Hương vị ấy khiến trong bữa ăn không ai nói với nhau câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong và tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí họ. Món ăn này thể hiện tình yêu thương của bà cụ Tứ dành cho người con trai và người con dâu. Người con dâu mà bà thương xót trong hoàn cảnh vì cái đói mà đến với con bà, cũng nhờ thế mà Tràng mới lấy được vợ, nhưng lại là vợ nhặt, thân phận con người còn rẻ rúng hơn cả cỏ rác.
Qua nồi cháo cám, tính cách của các nhân vật cũng được khắc họa một cách rõ nét hơn. Bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nhân từ, có lòng thương con sâu sắc. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán lại vừa xót thương cho số kiếp con mình và người con dâu tội nghiệp. Bà đã dậy quét dọn và chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà, trong bữa ăn bà luôn nói đến những điều tốt đẹp để truyền cho các con niềm tin vào cuộc sống.
Anh cu Tràng là một người con hiểu rõ hoàn cảnh gia đình mình chỉ là dân ngụ cư nhưng anh đã dũng cảm đón nhận hạnh phúc cuộc đời. Anh còn là người chồng có trách nhiệm, có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Trước nồi cháo cám đắng chát, người vợ nhặt điềm nhiên đưa vào miệng để không làm mẹ chồng buồn lòng. Bát cháo cám là điểm cuối của tình yêu và cũng là điểm khởi đầu của hạnh phúc gia đình. Từ nay, ba người họ sẽ gắn kết, yêu thương lẫn nhau, tin vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ qua hình ảnh này. Nó tố cáo tội ác của thực dân, phát xít, phong kiến đẩy nhân dân ta vào nạn diệt chủng. Nồi cháo cám tuy bình dị thậm chí là tầm thường nhưng lại là thứ giúp những con người nghèo khổ vượt qua nạn đói, là tình yêu thương mà bà cụ Tứ dành cho hai con. Đây còn là dụng ý của Kim Lân nhằm thể hiện giá trị hiện thực của truyện ngắn và nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo của nhà văn.
Có thể nói, nồi cháo cám là một chi tiết đắt giá của tác phẩm, thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân. Bên cạnh đó thời điểm xuất hiện nồi cháo cám vào buổi sáng hôm sau cũng gợi ý nghĩ tích cực, lạc quan về cuộc sống của gia đình anh cu Tràng nói riêng và của nhân dân nói chung.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 11
Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ hết các tình tiết trong chuyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá đã là đủ rồi. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi cháo cám để để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây lên sự ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh đói nghèo không lo được cho mình mà anh còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ ấy. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của xã hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào. Tuy nhiên cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì nấy đều muốn thể hiện sự vui vẻ trong hoàn cảnh này.
Nhưng có lẽ đây cũng là niềm vui thực sự khi 3 con người ấy luôn muốn vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt để trân trọng niềm hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, khi trong cảnh nghèo đói vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới. Có lẽ vì điều này nên trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà…. ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những điều tốt đẹp để hy vọng có một tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là mong ước của tất cả mọi người trong thời kỳ khó khăn ấy.
Trong không khí vui vẻ của bữa cơm gia đình, bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!”. Nhưng thực chất đó lại là một nồi cháo cám. Hình ảnh này được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, nhiều người không có nổi cám mà ăn, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món ăn xa xỉ đối với nhiều người khác. Chính vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Cả 3 đều rất vui vẻ tiếp nhận nồi cháo cám. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng dù cảm thấy nghẹn bứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng đã chấp nhận hoàn cảnh, không còn trở nên đỏng đảnh như trước và thị đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Có được những điều này có lẽ là do cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn sẽ đến với họ.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân văn sâu sắc. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy nhiên trong hoàn cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy được tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng trong bờ vực của cái chết lay lắt ấy, người ta chỉ nghĩ đến những đau khổ, bất hạnh, nhưng không, ở hoàn cảnh ấy người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ đối với chồng và trách nhiệm của một người chồng đối với gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
Qua bút pháp tả thực cùng mới việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh dân dã và tượng trưng đã góp phần thể hiện sự thành công của tác phẩm. Những tài hoa trong nghệ thuật viết truyện của nhà văn Kim Lân cũng giúp người đọc hiểu và thông cảm cho những con người ở thời kỳ đó. Đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm chân thành và tác giả đã dành cho những nhân vật của mình.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 8
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo, tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói “bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”, và sau đó là “người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya”…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai. Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: “những khuôn mặt hốc hác u tối trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích.
Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu “áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”…Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn ven. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sông đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy “chợn” khi nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, nhưng Tràng vẫn “Chậc, kệ!” và dẫn vợ về nhà.
Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có “một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy” dâng lên “ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,”; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: “Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quí trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu.
Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là “con”, tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 12
“Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm”, không một tác phẩm nào xuất sắc, nếu không thể tạo được những chi tiết giàu ý nghĩa nhân văn. Trong Chí Phèo ta còn nhớ những chi tiết tiếng chửi, bát cháo hành… còn với tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân, tác giả đã xây dựng thành công một chi tiết vô cùng đắt giá và nổi bật, đó chính là “nồi chè khoán” của gia đình anh Cu Tràng.
Vợ Nhặt của Kim Lân lấy bối cảnh nước ta trong nạn đói năm 1945, thời gian đó người ta sống trong hoàn cảnh “ngụ cư” và phải chịu rất nhiều tấn khổ cực. Bi kịch của kiếp người là những cái chết ngả rạ, chết vì đói, mà cũng có thể là chết vì…no. Vì vậy, Kim Lân đã đặc biệt xây dựng thành công một hình ảnh “nồi chè khoán” vô cùng đặc biệt. Liệu đó có phải nồi chè khoán thật hay không? Tại sao trong một gia đình có mối nghèo truyền kiếp và hai miệng ăn còn không đủ no, lại có được một thức ăn đặc sản như thế trong những ngày đói cùng cực như vậy?
Hình ảnh nồi chè khoán của bà cụ Tứ hiện lên trong hoàn cảnh vô cùng ý nghĩa. Đó là nồi chè bà đã cất công làm ra để thiết đãi cô con dâu mới – Thị vừa mới về làm dâu với anh Cu Tràng, con trai bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ bưng bát cháo ra với tâm trạng vui phơi phới, và cố kiềm đi nỗi tủi cực của một hoàn cảnh nghèo khó, mà vui vẻ nói: “chúng mày đợi nhá. Tao có cái này hay lắm cơ” rồi bà bưng ra một cái nồi bốc khói lên nghi ngút, và lại vui vẻ nói tiếp: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ” nhưng thực ra đây đâu có phải chè khoán? Bà cố tình vui vẻ thế thôi, vui vẻ trước mặt cô con dâu mới, vui vẻ để truyền niềm vui, lạc quan hi vọng vào các con.
Thể hiện tâm trạng của một người mẹ nghèo trong nạn đói Ất Dậu 1945. Hơn thế, đó còn là sự biểu hiện một tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày hạnh phúc của con trai mình. “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để” lời nói trong vui mà có buồn, nỗi xót xa như ứ đọng nhưng buộc phải vui để mà sống. Vì vậy ta càng cảm nhận hơn một trái tim ấm áp, tấm lòng nhân hậu và vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách, và tâm lí hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng lại mang sức gợi rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con người dành cho nhau.
Kim Lân đã vô cùng tài hoa khi xây dựng được một chi tiết có nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung đến như vậy. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo của ông dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta, về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như một hời ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 9
Nhắc tới kho tàng văn học phong phú Việt Nam, chúng ta không thể không tự hào bởi sự góp mặt của muôn vàn nhà văn, nhà thơ và các tác phẩm nổi tiếng. Với mỗi đứa con tinh thần, họ luôn cố gắng tạo nên những chi tiết nghệ thuật đắt giá khiến cho muôn đời nhớ tới những lời thơ, áng văn ấy. Trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh “ nồi cháo cám” là một trong những điểm sáng nổi bật lên chủ đề tác phẩm.
“Vợ nhặt” được ra đời trong bối cảnh toàn dân chìm ngập trong sự đói kém, mất mùa năm 1945. Sau những tình tiết cao trào của anh cu Tràng khi anh cu nhặt của vợ khiến cho bao người ở cái xóm ngụ cư đói nghèo ấy hết mực khác nhiên. Bởi giữa cảnh thiếu ăn cận kề với cái chết, nuôi thân còn chưa xong còn đeo thêm miệng ăn. Và trong bữa cơm đón nàng dâu mới, thiếu vắng “ mâm cao cỗ đầy”, đến miếng trầu còn không có thì hình ảnh “ nồi cháo cám” lại càng khiến người đọc không khỏi thương xót, ám ảnh.
Tác giả đã rất khéo léo lựa chọn “ nồi cháo cám” vào câu chuyện, thay vì phải dài dòng kể lể về cái nghèo cái khổ. Chỉ cần hình ảnh ấy, người ta đã mường tượng cái nạn đói năm ất dậu năm xưa khiến người ta cùng cực đến nhường nào. Thế nhưng, gạt qua khung cảnh u ám đói nghèo, câu chuyện ấy vẫn ánh lên tình thương của người mẹ già cho các con vẫn không hề bị mai một.
“Nồi cháo cám” xuất hiện ngay trong buổi sáng ngày hôm sau của cô dâu mới, như mong muốn của bà cụ tứ thì “ kể làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chắp nhặt gì lúc này”. Hoàn cảnh khốn khổ giữa năm 1945 thật khiến người ta phải buông một tiếng thở dài nghẹn ngào. Tình huống này xảy ra ở khắp muôn nhà chòm xóm, ba con người, ba suy nghĩ nhưng bó chung lại một hoàn cảnh số phận, anh tràng, Thị và bà cụ Tứ ai cũng hiểu bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ngon lành, cũng chẳng dám ước tới một bữa thịnh soạn hơn.
“Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Giua bao bộn bề suy nghĩ, mù mịt về tương lai, cụ Tứ vẫn cố gắng vui vẻ, niềm nở mà khích lệ các con. Cụ không thể cho con những xa hoa vật chất, hay một đám cưới đúng nghĩa nhưng nồi cháo cám đong đầy tình mẹ, tình thương và lòng vị ta vẫn có giá trị xiết bao. Có biết bao nhiêu người ngoài kia đang chết đói từng ngày, cụ vẫn mở lòng đón chào cô vợ mới của con trai cụ. Cụ động viên các con rằng “ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Có thể trong mai, ngày kia cái chết do đói ăn có thể tìm đến gia đình cụ bất kì lúc nào, nhưng cụ vẫn mong ước cho tương lai tốt đẹp hơn.
Cụ không gọi là cháo cám mà cụ bảo các con “ chè khoán, chè khoán đây!”.Hương vị của Chè nó ngọt mát, tốt đẹp hơn biết bao, nhưng chè của cụ nấu khiến cho cả ba cảm thấy bựa chát nơi cổ họng. Thế nhưng không khí gia đình vẫn vui vẻ, đầm ấm. Nó khiến cho mọi người cùng tin vào một cuộc sống tươi sáng hơn.
“Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Hình ảnh “ nồi cháo cám” vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo to lớn. Trong bộn bề khó khăn, túng quẫn, phải ăn “’ cám” hay “ cơm” của thời kì năm 1945, ý chí con người vẫn khôn hề bị lấm bùn, chôn vùi trong đói nghèo. Xã hội phong kiến khiến cho cuộc sống bao người phải chịu cảnh lầm than, bế tắc nhưng sẽ vẫn có một lối thoát cho tương lai ngày mai. Trên tất cả, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến luôn tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tình mẹ, tình nghĩa vợ chồng sẽ dẹp tan mọi nỗi thống kể trên cuộc đời.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 6
Nhà văn Kim Lân là một tác giả có phong cách giản dị, mộc mạc, khiến cho người đọc cảm động ám ảnh bởi trong mỗi tác phẩm ông đều gửi gắm nhiều tình cảm chất chứa. Hình ảnh nồi cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt là liều thuốc có sức rung động sâu xa, thể hiện sức sống mãnh liệt vượt qua bao thời gian.
Truyện ngắn Vợ nhặt lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 khi mà cả nước ta rơi cảnh lầm than, cơ cực, người chết như ngả rạ, trong bối cảnh lịch sử đó nhiều người dân đã thiệt mạng, những người sống thì sống cuộc đời cơ cực lay lắt. Hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc cảm thấy ám ảnh, về cuộc sống lay lắt, khổ cực của người nông dân dưới chế độ áp bức bóc lột một cổ nhiều tròng.
Trong bối cảnh nạn đói hoành hành, Tràng một người con trai nghèo khó sống cảnh mẹ góa con côi, nhà nghèo, thân hình bên ngoài thô kệch, quai hàm bạnh ra, hai con mắt ti hí hấp háy, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười một mình. Nếu bình thường thì một người con trai như anh cu Tràng sẽ không bao giờ lấy được vợ, nhưng trong hoàn cảnh cả nước đói kém người chết đầy đường thì anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt một thứ gì đó rơi ngoài đường mang về nhà.
Hoàn cảnh khốn khó cũng đã xô đẩy một người con lấy chồng mà không có sự chứng kiến của hai bên họ hàng, không có nổi mâm cơm cúng ông bà tổ tiên…Mọi thứ đều quá đơn giản. Hai con người nghèo khó gắn kết lại với nhau, họ nương tựa vào nhau để tìm một hy vọng mới. Bà cụ Tứ mẹ anh cu Tràng được tác giả Kim Lân phác họa lên là một người phụ nữ hiền lành, nhân hậu bà sẵn sàng chấp nhận người con gái xa lạ làm con dâu mình “Có gặp thời buổi này thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ” đó là những suy nghĩ chân thực cảm động của một người phụ nữ thương con.
Sau đêm tân hôn, buổi sáng thức dậy anh cu Tràng thấy nhà cửa đã được quét dọn sạch sẽ, vợ anh ngồi đó là thật mà cứ ngỡ như là mơ. Bà cụ Tứ đon đả bưng bữa ăn sáng ra “Chè khoán đấy”. Nồi cháo cám hiện ra khiến cho mọi người đều cảm thấy đau xót nhưng tất cả đều điềm nhiên chấp nhận cái đói nghèo, mỗi người đều ăn uống vui vẻ như thể ngon lắm. Một bữa ăn toàn những sơn hào hải vị.
Trong bữa ăn những con người đó mơ về một tương lai tốt đẹp hơn về chuyện làm vườn rồi mua đôi gà về nuôi, chuyện làng Sùng người ta không cần phải thu thuế, rồi người dân lao động phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Hình ảnh nồi cháo cám là thực tế phũ phàng mà đôi trẻ phải đối diện sau khi cưới nhau chưa được bao lâu. Nhưng bằng tấm lòng người mẹ thương con bà cụ Tứ đã gợi ra những hy vọng mới cho con trai và con dâu của mình, để họ có thêm động lực hướng tới tương lai, niềm tin vào những chặng đường sắp tới.
Người mẹ nghèo khổ xót xa khi phải giấu các con nấu một nồi cháo cám tới gần bữa ăn mới đem ra, bà còn nói tránh đi “Chè khoán đây, ngon đáo để” làm sao có thể ngon với một loại thức ăn đắng ngắt. Trong bữa cơm bà vui vẻ kể nhiều chuyện vui để cho các con vui vẻ theo. Một người mẹ nhất mực thương con, quặn thắt lòng khi con trai cưới vợ trong hoàn cảnh khốn khó này.
Hình ảnh nồi cháo cám mà Kim Lân đã miêu tả có sức sống vô cùng mãnh liệt ám ảnh người đọc, gợi lên những âm hưởng tha thiết thể hiện sự khát khao hạnh phúc của những con người trong bối cảnh lịch sử. Hình ảnh này thể hiện sự tài tình của Kim Lân trong ngòi bút của mình, thể hiện sự sâu sắc của tác giả, khi phác họa chi tiết, tình huống truyện.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 5
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn thành công, mang danh tiếng đến cho nhà văn Kim Lân. Truyện tái hiện cuộc sống cùng cực dần đi vào ngõ cụt nhưng không bao giờ bế tắc của người dân sống trong nạn đói 1945. Nhà văn đã khắc họa nên hình ảnh “nồi cháo cám” chống đói của bà cụ Tứ, Tràng và cô vợ nhặt. Chính hình ảnh đắt giá này đã thổi bùng lên nội dung tác phẩm, khiến người đọc hình dung được nạn đói hoành hành. Đồng thời, lột tả hết được tình thương, vị tha của người mẹ đối với những đứa con của mình.
Hình ảnh “nồi cháo cám” không xuất hiện trong một bữa ăn giữa đời thường mà xuất hiện trong chính ngày lễ trọng đại – ngày ra mắt con dâu. Đặc biệt hơn, với tình thương con mãnh liệt, bà cụ Tứ đã rằng “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Hình ảnh bùng lên giữa nạn đói năm 1945 khiến người ta không tránh khỏi sự nghẹn ngào. Vậy nhưng, có ăn đã là may, ai cũng nén sự xót thương trong lòng cố ăn để chống chọi với nạn đói.
“Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Điều đáng ngạc nhiên hơn rằng bà cụ Tứ không nói về những chuyện buồn xưa cũ, thay vào đó bà kể những câu chuyện vui, những ngày còn lo ấm. Điều này giúp người đọc phần nào thấy được tâm lý của bà cụ, dù đói nhưng biết cách an ủi con. Đồng thời, những câu nói quanh bữa ăn như một khát khao về tương lai tươi sáng của con người.
“Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói: Chè khoán đấy, ngon đáo để. Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Câu nói vừa dứt, sống mũi người đọc ắt hẳn sẽ cay cáy nhưng tại hoàn cảnh này, ba nhân vật trong câu chuyện không một câu chê trách nào. Bởi nồi cháo không chỉ chống đói, mà còn thể hiện sự yêu thương.
“Nồi cháo cám” không chỉ mang ý nghĩa hiện thực khi tái hiện những hình ảnh nghèo khổ đến cùng cực tưởng như không còn lối thoát. Bên cạnh đó, còn mang giá trị nhân văn sâu sắc khi thể hiện được tình thương yêu của người mẹ. Hình ảnh nồi cháo bốc khói trong buổi lễ ra mắt con dâu còn mang đến giá trị nghệ thuật to lớn, kiến câu chuyện thêm phần thú vị.
Bài văn phân tích hình ảnh nồi cháo cám số 1
Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim người đọc không phải là những trang viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những “chi tiết đắt”, là điểm sáng thổi bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết “bát cháo hành” đầy tính nhân văn trong truyện ngắn “Chí Phèo”, và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “Nồi cháo cám” vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết “Nồi cháo cám” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ “Nồi cháo cám” ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945 dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một, nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người. “Nồi cháo cám” không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của “lễ ra mắt con dâu”, đáng nhẽ ra như bà cụ Tứ đã nói “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm 1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ. Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh “nồi cháo cám” khiến người đọc không kìm nổi xúc động “bà lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói”. Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính “nồi cháo cám” ấy:
“Chè khoái đấy, ngon đáo để” và “Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết “nồi cháo cám” vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực “nồi cháo cám” tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
Bên cạnh đó, “nồi cháo cám” còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con. Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết “nồi cháo cám” còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây là một chi tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình, khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
Gấp lại trang sách, hình ảnh “nồi cháo cám” của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm 1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.
Có thể bạn thích: