Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ưu đãi có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Ở mỗi nơi đều có những danh lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng. Một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm. Bất kì ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ Gươm. Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật, mặt nước hồ màu xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm. Đó là một danh lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội. Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngoài vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng mà Hồ Gươm còn là di tích lịch sử gắn liền với lịch sử đấu tranh anh hùng bất khuất của đất nước ta. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn thuyết minh về Hồ Gươm hay nhất mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 3
Nói đến Thủ đô Hà Nội thân yêu của chúng ta, có thể nhắc đến Chùa Một Cột – dáng sen vươn lên từ bùn lầy nghìn năm Bắc thuộc – tiêu biểu cho ý thức tự cường của dân tộc. Hay Khuê Văn Các – viên ngọc minh châu kết tinh của một nền khoa học ngàn đời. Nhưng chúng ta vẫn nghe nhắc đến Hồ Gươm nhiều hơn cả. Nằm trong lòng Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, thành phố vì hòa bình, nơi đây có Tháp Rùa tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Đài Nghiên, Tháp Bút nhắc đến nền văn vật lâu đời. Chỉ với ba biểu tượng đó, hồ Hoàn Kiếm đã xứng đáng là trái tim của Thủ đô rồi!
Hồ Gươm không chỉ là thắng cảnh tô điểm thêm vẻ xinh tươi, duyên dáng cho Thủ đô, mà còn là một trong những dấu ấn tiêu biểu của lịch sử ngàn năm văn hiến đất kinh kì Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Để đến tham quan Hồ Gươm, chúng ta có thể đi từ nhiều con đường khác nhau như Hàng Bài, Tràng Thi, Hàng Khay hay các khu phố cổ. Hồ Gươm nằm ở trung tâm quận Hoàn Kiếm, là nơi kết nối giữa các phố cổ với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch lại cách đây hơn một thế kỉ. Chắc hẳn chúng ta đều biết Hồ Gươm chính là một dòng chảy còn sót lại của sông Hồng.
Cách đây hàng trăm năm về trước, Hồ Gươm ăn thông với sông Hồng, là một nhánh nhận nước của sông Hồng, chạy dài qua các phố Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lí Thường Kiệt, Hàng Chuối,.. Từ thế kỉ XIX, khi nước ta đang bị thực dân Pháp cai trị, do sông Hồng đổi dâng nên Hồ Gươm chỉ còn là một sông nhỏ chạy qua Hàm Cá Mập (bến tàu điện một thời). Vì thế, để qua sông, người Pháp đã bắc một chiếc cầu bằng gỗ và dần dần san đất. Và ngày nay, nơi đó chính là phố cầu Gỗ mà ai cũng biết.
Từ xưa đến nay, Hồ Gươm đã trải qua lịch sử với bao nhiêu tên gọi khác nhau. Cách đây khoảng sáu thế kỉ, Hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, rồi tới phố Hàng Chuối. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên trước kia Hồ Gươm được gọi là Hồ Lục Thủy. Sau đó là cái tên Tả Vọng để phân biệt với Hữu Vọng. Sau khi các triều đại chọn Thăng Long làm kinh đô, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thủy quân. Tương truyền vào thế kỉ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu chống giặc Minh xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi (1427).
Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) có một người đánh cá là Lê Thận (sau khi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn) đã kéo được một lưỡi gươm, sau đó Lê Lợi lại nhặt được chuôi gươm ở trên cây, khi ghép chuôi gươm và lưỡi gươm lại thành thanh gươm, đặt tên là “Thuận Thiên” có nghĩa là “thuận theo ý trời”. Gươm báu đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền ở hồ Lục Thủy, bỗng một con rùa xuất hiện, nổi lên khỏi mặt nước. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ. Chắc hẳn ai cũng biết hồi tháng 5 âm lịch 2010, khi Hà Nội kỉ niệm 583 năm vua Lê chiến thắng giặc Minh, chúng ta đã được chứng kiến hình ảnh Cụ Rùa bò lên mặt nước… Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng và càng tin hơn vào sự linh thiêng của Hồ Gươm – viên ngọc xanh giữa lòng Thủ đô này…
Hồ Gươm rất đặc biệt. Nó có một màu sắc riêng, khác hẳn các hồ khác. Hồ Gươm xưa kia trong lắm, đẹp lắm, có màu nước xanh biêng biếc… Các bạn có biết màu xanh ấy là do đâu không? Trong lớp bùn của Hồ Gươm, có sự sinh sống của một loài tảo. Nhờ sự quang hợp của loài tảo đó mà Hồ Gươm có màu xanh như vậy! Đã có lần, các nhà khoa học đã thử lấy thứ tảo ấy đem đi nơi khác trồng nhưng chúng không sống được! Phải chăng Hồ Gươm có một điều đặc biệt khác?…
Nhưng bây giờ, màu xanh trong trẻo ấy đã bị ô nhiễm mà nguyên nhân chính là do con người gây ra. Chính những người dân không ý thức, vứt rác bừa bãi xuống hồ và Nhà nước không có biện pháp làm sạch hồ thường xuyên nên đã làm cho nước hồ đục hơn và bên bờ hồ vương vãi những túi rác mà người dân đã vứt xuống. Điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gì? Trước hết, Hồ Gươm đã không còn đẹp như trước nữa mà đã mất đi vẻ tự nhiên của nó. Và hậu quả thứ hai là Cụ Rùa đã bị tổn thương vì môi trường quá bẩn. Ngày trước, Cụ Rùa chỉ nổi lên vào những dịp lễ, còn thời gian gần đây, Cụ Rùa nổi lên rất thường xuyên và mọi người đã nhìn thấy những vết thương trên thân Cụ Rùa.
Có lẽ nào những người vứt rác xuống hồ không thể hiểu được những điều này? Và vài ba năm trước, việc làm sạch Hồ Gươm đã bắt đầu được chú trọng. Tất cả chúng ta đều đã nhận thấy một điều rằng, mặc dù Nhà nước và Chính phủ đã đưa ra những biện pháp để giải quyết vấn đề này nhưng thực sự là nước hồ ngày càng bẩn thêm. Vì vậy, điều quan trọng vẫn là ý thức của người dân, chúng ta phải giữ gìn hồ sạch sẽ để không làm mất đi vẻ đẹp của Hồ Gươm nói riêng và vẻ đẹp của Thủ đô Hà Nội và hình ảnh tốt đẹp của con người Việt Nam nói chung.
Ở Hồ Gươm, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy Đài Nghiên và Tháp Bút được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1864. Thân tháp có khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” nghĩa là “Viết lên trời xanh”, ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn được gọi là Đài Nghiên, trên đó có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, ba chân kê nghiên là hình tượng ba con ếch. Sở dĩ có ba con ếch đội là bởi vì nhà thơ Nguyễn Văn Siêu muốn nhắc chúng ta đừng kiêu căng rồi dẫn đến hậu quả khó lường như trong truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng và Nguyễn Văn Siêu cũng muốn viết lên trời xanh khát vọng hòa bình, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Có 1 điều đặc biệt giữa Tháp Bút và Đài Nghiên. Đó là vào những buổi trưa hè, nhìn từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường đứng hai bên, cả hai bức tường cao quý ấy đều khắc tên những người đỗ đạt, khiến cho các sĩ tử đi qua đều cố gắng học hành. Đi tiếp vào trong ta sẽ thấy cầu Thê Húc. Cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và được sơn màu đỏ. Cầu được thiết kế cong cong và uốn lượn như hình con tôm. Cầu Thê Húc hướng về phía Đông, phía mặt trời mọc để đón được toàn vẹn nguồn dưỡng khí và những tia nắng đầu tiên. Với ý nghĩa ấy, cây cầu mang màu đỏ – màu của sự sống, màu của hạnh phúc, của sự cao quý, của ước vọng truyền đời từ thời cổ đại đến ngày nay – cây cầu Thê Húc – đó chính là biểu tượng của thần Mặt Trời! Tên của cây cầu có nghĩa là “nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm”.
Đi sâu vào trong, chúng ta sẽ đến với đền Ngọc Sơn linh thiêng. Ngôi đền được xây dựng trên đảo Ngọc. Cả khu đền được lợp ngói đỏ trông tươi tắn với hình ảnh cong cong trạm trổ tinh tế. Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Văn Xương Đế Xuân – vị thánh trụ trì việc văn chương khoa cử. Ngoài hiên có tủ kính với Cụ Rùa được đặt bên trong khi các nhà khoa học vớt lên vào những thập niên sáu mươi của thế kỉ XX. Cụ Rùa có tuổi thọ khoảng 500 – 600 tuổi. Không chỉ có một Cụ Rùa mà dưới Hồ Gươm còn có vài Cụ Rùa khác.
Hồ Gươm được du khách coi là một danh lam thắng cảnh. Quanh hồ là những loài cây trông lộng lẫy như: cây phượng, cây bằng lăng, cây liễu sư. Ngoài ra còn có nhiều loài hoa được trồng và được ghép thành hình chữ ở bên bờ hồ. Ngày nay, chúng ta đều thấy rất nhiều du khách nước ngoài cũng như trong nước và người dân Hà Nội đi dạo quanh hồ. Họ chụp ảnh, họ bàn tán và họ cũng cảm thấy thanh thản… Chắc chắn là như vậy!…
Bên Hồ Gươm không chỉ có du khách đi dạo, chúng ta còn thấy cả các cụ già ngồi chơi cờ, còn các bác, các cô thì tập thể dục cho cơ thể săn chắc, khỏe mạnh. Những đứa trẻ cũng thường ra bờ hồ đùa nghịch, vui chơi tận hưởng không khí thoáng mát. Từ Hồ Gươm, chúng ta cũng có thể nhìn được những địa điểm nổi tiếng của Hà Nội như Tượng đài Lý Thái Tể, Bưu điện Hà Nội với đồng hồ cổ kính được đặt ở trên nóc hay những khu phố cổ,… Như vậy, chúng ta có thể thấy được Hồ Gươm đẹp thế nào, phong phú về màu sắc thế nào…
Rủ nhau xem cảnh Kiêm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 8
Đẹp như một lãng hoa giữa lòng thành phố, Hồ Hoàn Kiếm được bao quanh bởi các đường phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay dài khoảng 1800m. Mặt nước là tấm gương lớn soi bóng la đà những cây cổ thụ, những rặng liễu thướt tha tóc rủ, những mái đền, chùa cổ kính, tháp cù rêu phong, các tòa nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh.
Nước hồ xanh ngắt quanh năm nên xưa hồ có tên là hồ Lục Thủy. Truyển thuyết kể rằng : Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn có tìm được lưỡi kiếm báu. Kiếm theo ông suốt 10 năm dài chống quân Minh xâm lược (thế kỉ XV). Sau khi giành lại được thành Thăng Long, vua Lê có một buổi dạo thuyền chơi trên hồ, gặp rùa vàng nổi lên mặt nước. Vua rút kiếm chỉ cho quân sĩ thấy, thì con rùa đã nhảy lên đớp lấy thanh kiếm rồi lặn mất tăm. Vua cho là điẻm lành, đất nước có giặc, rùa thần cho mượn kiếm, nay đã thanh bình nên lấy lại. Bởi vậy đặt tên hồ là Hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là Hồ Gươm.
Rùa là một trong bốn vật linh (long, lân, quy, phượng) trong tâm thức văn hóa dân gian. Giống rùa quý này vẫn còn sinh sống trong lòng hồ, hằng năm, có đòi lần nhô lên mặt nước, thật hạnh phúc cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi lên mặt hồ. Trong mặt hồ có hai đảo nổi. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc hồ, gần bờ đông, có cây cầu Thê Húc sắc đỏ uốn cong nối ra đảo. Đảo Rùa nhỏ hơn, trên có ngọn tháp cổ ở phía nam hồ, giữa bốn bể long lanh bóng nước.
Hồ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ, điểm hẹn của du khách bốn mùa. Mùa xuân đâm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa đào. Mùa hạ ùa ra từng cơn gió lồng lộng, quạt đi cái oi bức của phô phường râm ran tiếng ve. Mùa thu với màn sương huyển ảo, dáng liễu mơ hồ như thực, như hư đã làm say đắm bao nhà nhiếp ảnh tài hoa. Mùa đông, đi giữa những cơn mưa lá vàng, chân nhẹ bước lên thảm lá vừa rụng, xuýt xoa với cái rét vùng Đông Nam Á và những giọt mưa phùn lất phất bay.
Mùa nào tình nấy, Hồ Gươm mãi mãi là dấu ấn vẻ vang thời giữ nước và khát vọng hòa bình của tổ tiên ta xưa.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 14
Hồ Gươm nước biếc mây trôi
Lá reo đón gió, hoa cười ngậm trăng
Trấn Ba Đình đứng ngàn năm
Tháp rùa cổ kính rêu phong nét mờ
Bốn mùa như một bài thơ
Cúc Thu, gió Hạ, nụ tơ Xuân hồng
Người đi lòng vẫn như lòng
Hẹn nhau mai mốt về cùng Hồ Gươm”.
Hồ Gươm đối với người dân đất Việt mà nói là một nơi vô cùng gần gũi , không chỉ chứa đựng linh hồn dân tộc mà còn là địa điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng bậc nhất Hà Thành bởi vẻ đẹp thanh thoát và sự cổ kính, phong trần .
Hồ gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội với diện tích rộng khoảng 12ha , khá nông, độ sâu trung bình khoảng từ 1 đến 1,4 mét, chiều dài bờ hồ ước tính khoảng 1750 mét. Cùng với chiều dài của lịch sử, Hồ Gươm cũng nhiều lần “thay tên đổi họ “. Từ hồ Lục Thủy ( vì hồ có màu xanh trong quanh năm ), Hồ Thủy Quân ( dùng để diệt thủy binh), trong thời Lê Mạt đổi thành Hồ Tả Vọng , Hữu Vọng , đến nay qua thuyết Vua Lê trả gươm, hồ đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm hay còn gọi là Hồ Gươm.
Thuyết kể rằng một người chài lưới ở Thanh Hóa tên Lê Thận kéo lưới được một chuôi kiếm dâng lên Lê Lợi, cùng thời gian ấy, Lê Lợi trên đường đi tuần trên rừng, nhặt được lưỡi kiếm lắp vào chuôi kiếm được dâng lên thì vừa như in. Nhờ kiếm ấy Lê Lợi đưa Khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng giặc Minh, lên ngôi hoàng đế. Ít lâu sau, trên thuyền du ngoạn, ở dưới đáy hồ trong vắt hiện lên một luồng ánh sáng , theo đó là rùa vàng ngoi lên và nói với nhà vua rằng “. Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long quân “. Từ đó hồ lấy tên là Hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm.
Cách đây khoảng 6 thế kỉ dựa theo bản đồ thời Hồng Đức thì phần lớn xung quanh kinh thành khi ấy là nước. Hồ Hoàn Kiếm là một phân lưu sông Hồng chảy qua vị trí của các phố ngày nay như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối. Tiếp đó đổ ra nhánh chính của sông Hồng. Hiện nay, Hồ Hoàn Kiếm có vị trí kết nối giữa khu phố cổ gồm các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Lương Văn Can… với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỷ là Nhà thờ, Bảo Khánh, Tràng Tiền, Hàng Khay,.. Vị trí ở trung tâm thủ đô này càng làm cho con người yêu thích đến chơi hồ.
Ở trung tâm hồ là Tháp rùa, được coi là biểu tượng đặc sắc nhất của Hồ Gươm, không một du khách nào có thể bỏ lỡ nơi đây được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 thì hoàn thiện, trên gò Rùa chịu ảnh hưởng kiến trúc Pháp rất đặc sắc. Tháp hình chữ nhật, có bốn tầng, tầng một và hai đều xây các cửa cuốn hình thuôn nhọn, duy chỉ có tầng ba mở một của hình tròn mặt phía đông và tầng đỉnh giống như một vọng lâu vuông vức. Tháp ở giữa hồ nên cổ kính rêu phong , mang hơi thở của sự cô tịch, trống vắng. Tháp Rùa cũng là nơi để rùa phơi nắng đẻ trứng, rùa trong tháp còn được ghi vào sách đỏ Việt Nam, nhân dân thường gọi là Cụ Rùa . Mỗi khi Cụ rùa nổi lên là có việc quốc gia đại sự, nhưng mấy năm gần đây do nguồn nước ô nhiễm nặng, Cụ Rùa thường xuyên được trục vớt và chữa trị các vết thương.
Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc hồ xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng Long và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra đền Ngọc Sơn trên nền cung Thuỵ Khánh cũ Đền thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo. Đền là nơi linh thiêng, mỗi khi người dân có mong ước hay đến những ngày lễ tết đều đến đây cầu phúc cầu may cho gia đình người thân.
Cầu Thê Húc cong cong như con tôm dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là “nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm ” . Cầu Thê Húc duyên dáng nhịp nhàng là nơi se duyên cho những đôi trai gái đến nơi đây tụ hội.
trên bờ hướng Đông Bắc hồ là Đài Nghiên được xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút đối lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên (viết lên trời xanh), thân tầng thứ ba của tháp có khắc một bài Bút Tháp Chí. Với nhiều người sĩ tử Đài Nghiên quả là một nơi thiêng liêng mang đậm hơi thở tri thức , nhiều sĩ tử đi thi còn hay đến đây để thắp nén nhang cầu may mắn.
Ở bờ Tây hồ, áp với đình Nam Hương làđeenf thờ vua Lê. Đền có tượng vua Lê Thái Tổ đứng trên trụ cao, tay cầm thanh kiếm như phóng xuống mặt hồ. Bức tượng oai phong lẫm liệt với khí thế của bậc đế vương gợi nhắc một thời huy hoàng những chiến thắng oai hùng đã qua của nhà Lê xưa. Bờ hồ tổ chức những trò chơi ghú vị cho du khách, những món quà lưu niệm in dấu vẻ đẹp của hồ với giá cả phải chăng . Con người nơi đây vô cùng thân thiện hiếu khách.
Tuy không phải là hồ lớn nhất của thủ đo Hà Nội nhưng hồ Gươm không chỉ đẹp về phong cảnh cổ kính phong trần hoài niệm mà còn là ấn tích một thời vàng son của dân tộcvaf là cảm hứng lãng mạn không dứt cho nhưg người nghệ sỹ . Như Nghuyễn Khuyến đã từng viết :
Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao….
Hồ Gươm quả là một danh lam thắng cảnh đáng chiêm ngưỡng của đất Bắc. Khách đến rồi đi nhưng tâm hồn họ vẫn sẽ vấn vương nét phong trần nơi đây.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 7
Có lẽ trong mỗi chúng ta không ai là không biết đến Hồ Gươm. Hồ Gươm là một di tích lịch sử, một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Nếu ai đã từng đến đây chắc hẳn phải ghé thăm hồ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính độc đáo của nó.
Hồ Gươm nằm tại trung tâm của thủ đô. Hồ hình bầu dục, bao quanh đó là những vườn hoa.Nhìn từ xa, hồ như lẵng hoa xinh xắn. Hồ Gươm còn có tên gọi là hồ Lục Thuỷ vì nước rất trong và xanh. Ngoài ra nó còn được gọi là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Tả Vọng. Hai tên gọi này có từ thời Lê. Truyền thuyết kể rằng : năm đó, sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, vua Lê Lợi ngự trên thuyền rồng thì bỗng Rùa Vàng từ dưới hồ hiện lên để đòi lại gươm. Nhà vua trả lại gươm. Tên hồ Hoàn Kiếm,hay Hoàn Gươm cũng được gọi từ đó thay cho tên hồ Tả Vọng.
Xung quanh hồ có rất nhiều cây như si, phượng, đa,… và những vườn hoa lớn. Phía bắc hồ là nhà hàng Thuỷ Tạ. Sau mỗi giờ mệt mỏi, du khách có thể tới đây vừa ăn kem vừa ngắm cảnh hồ. Giữa hồ là Tháp Rùa, với hình dáng uy nghi cổ kính, bao gồm ba tầng, xung quanh là thảm cỏ. Tháp Rùa đã tạo nên cho hồ một vẻ đẹp khó tả. Phía bắc hồ là đền Ngọc Sơn. Cứ mỗi dịp Tết đến, rất nhiều người tới đây để thắp hương cầu trời. Đi sâu vào đền là khu bán hàng lưu niệm. Đó là nơi trưng bày một con rùa rất lớn. Đền Ngọc Sơn được nối với bờ bởi cầu Thê Húc cong cong, được quét sơn đổ tươi. Đi ra một quãng là Đài Nghiên, Tháp Bút. Trên thân Tháp Bút có ba chữ : “tả thanh thiên” của Nguyễn Siêu, nghĩa là”viết lên trời xanh”. Gần hồ có nhiều tượng đá nhằm nói lên sự tôn nghiêm của một di tích lịch sử.
Hồ Gươm đẹp một cách cổ kính và linh thiêng. Quanh hồ là một khu dân cư đông đúc với nhiều nhà cao tầng. Bắt đầu từ phố Đinh Tiên Hoàng là Bưu điện Hà Nội. Bên cạnh là vườn hoa Chí Linh, nơi đây có tượng đài Vua Lí Thái Tổ rất uy nghi. Đối diện với cầu Thê Húc là đền Bà Kiệu có từ thế kỉ XVIII, cạnh nó là tượng đài cảm tử gồm ba chiến sĩ cầm bom ba càng với tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Đi tiếp độ hai mươi mét nữa là Nhà hát múa rối Thăng Long. Ở đó biểu diễn những tiết mục đặc sắc của dân tộc ta. Đi nữa về tay phải là dãy phố Hàng Ngang- Hàng Đào là nơi bao trùm tấp nập người đi lại như trẩy hội.
Quanh hồ cũng có rất nhiều hoạt động thi vị dành cho mọi lứa tuổi. Các cụ già thường ngồi đánh cờ, bàn luận tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không chỉ vậy đây còn là nơi lí tưởng để nghỉ ngơi thư giãn sau những giờ làm việc mệt mỏi. Mỗi buổi sáng sớm mọi người thường đi tập thể dục tại đây. Gần đây, ở tuyến xe buýt Hà Nội – Hà Đông gần hồ khai trương phố đi bộ vào ban đêm. cả dãy phố sáng lên bởi ánh đèn rực rỡ muôn màu.
Em rất tự hào vì được sinh ra tại đây. Hồ Gươm không to đẹp, lộng lẫy như nhiều cảnh quan khác nhưng nó là biểu tượng của Thủ đô Hà Nội, là sự sống ngàn năm văn vật của đất nước chúng ta.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 10
Hồ Hoàn Kiếm, hay còn thường được gọi là Hồ Gươm từ lâu đã đi cùng lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam và gắn liền với cuộc sống tinh thần của nhiều người. Mặt hồ xanh biếc, bình lặng và trầm tư nằm giữa những khu phố cổ, những con đường tấp nập, mở ra một khoảng không thoáng đãng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Để rồi, bùng mình ngay giữa trung tâm phồn hoa, nhộn nhịp, Hồ Gươm trở thành một thắng cảnh tự hào của người Hà Nội – một lẵng hoa giữa lòng thủ đô.
Hồ đã có từ rất lâu, từ cái thuở song Cái còn nằm sâu trong lòng đất vài nghìn năm trước. Vào thời gian đó, hiện tượng song lệch dòng rất thường hay xảy ra. Sông Hồng cũng chuyển hướng chảy qua các phố mà ngày nay thường thấy như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt…rồi hình thành các phân lưu. Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên Hồ Hoàn Kiếm ngày nay. Ban đầu, hồ chưa có tên là Hồ Hoàn Kiếm mà được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Thuở xa xưa, do nước hồ quanh năm xanh ngát nên có tên là hồ Lục Thủy. Còn tên Hồ Hoàn Kiếm bắt đầu được gọi vào khoảng thế kỉ 15 gắn với truyền thuyết rùa thần đòi gươm.
Tương truyền lại rằng, trong cuộc chiến chống quân Minh (1417 – 1427), khi Lê Lợi đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa, ông tình cờ bắt được thanh gươm có niên hiệu là Thuận Thiên. Gươm này đã theo ông suốt mười năm trinh chiến, giành lại nền độc lập. Lên ngôi vua đầu năm 1428, Lê Lợi – bấy giờ là vua Lê Thái Tổ trong một lần đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy thì có rùa vàng nổi lên. Khi vua tuốt gươm chỉ vào thì rùa liền ngậm gươm mà lăn xuống. Nghĩ rằng đó là trời cho mượn gươm dẹp giặc, nay giặc tan thì sai rùa đến đòi gươm nên hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Có thời gian vào khoảng cuối thể kỉ 16, chúa Trịnh cho ngăn hồ thành hai phần tả – hữu, lấy tên là Vọng. Hồ Hữu Vọng sau này bị Tây lấp mất còn hồ Tả Vọng chính là hồ Hoàn Kiếm mà giờ được phổ biến với tên gọi Hồ Gươm.
Cách đây 6 thế kỉ, dựa vào bản đồ thời Hồng Đức, Hồ Hoàn Kiếm gồm hai phần chạu từ phố nơi song Hồng chảy qua tới phố Hàng Chuối nối tiếp với nhánh chính của sông Hồng. Ngày nay, Hồ Gươm có vị trí giữa các khu phố cổ Hàng Ngang, Hàng Đào, Lương Văn Can… và các khi phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỉ như Tràng Thi, Tràng Tiền, Hàng Bài, Hàng Khay,…
Hồ có tổng diện tích 12ha, là hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố. Hồ Gươm kéo dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m hướng Đông Tây. Nhờ vị trí thuận lợi, lại nằm chính giữa trung tâm thành phố nên dù không phải là hồ lớn nhất song Hồ Gươm vẫn đóng một vai trò quan trọng trong du lịch, đời sống và sinh hoạt văn hóa thủ đô. Ngoài ra, hồ còn gắn liền với các công trình kiến trúc nổi tiếng khác như: Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc,…
Tháp Rùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ 19, từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886. Nằm ở trung tâm hồ, trên gò Rùa (Quy Sơn), tháp chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Có thể thấy tháp có ba tầng và một đỉnh có nét như một vọng lâu vuông vức. Hai tầng đầu có kiến trúc giống nhau, gồm nhiều ô cửa hình vòm. Chiều dài có ba cửa, chiều rộng hai cửa. Tầng ba chỉ có một cửa hình vòm. Tháp Rùa ngoài giá trị là một công trình thẩm mỹ còn là nơi cho rùa phơi nắng và đẻ trứng. Đặc biệt hơn, đây là loài rùa lớn sống trong Hồ Gươm, hiếm khi nổi lên mặt nước. Tương truyền rằng hễ thấy rùa nổi lên thì tức là liên quan đến việc quốc gia đại sự. Năm 2011, loài rùa này được biết chỉ còn một cá thể sống sót, được gọi là Cụ Rùa đã được trục vớt và chữa trị vết thương. Rùa Hồ Gươm thuộc diện động vật quý hiếm đang được Nhà nước bảo vệ.
Hồ Gươm có hai đảo nhỏ, ngoài Quy Sơn thì đảo còn lại là đảo Ngọc – nơi được biết là vị trí tọa lạc của đền Ngọc Sơn. Đền nằm ở phía Bắc hồ, xưa kia có tên là Tượng Nhĩ, nghĩa tức tai voi. Sau này, đền được Lý Thái Tổ đổi là Ngọc Tượng khi rời đô ra Thăng Long và đến đời Trần mới được gọi là đền Ngọc Sơn. Dẫn vào đền là một công trình kiến trúc độc đáo khác của cây cầu cong màu đỏ rực. Đó là Cầu Thê Húc, nghĩa là nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sớm. Cầu do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng năm 1865.
Ngoài những công trình trên, hồ còn có nhiều công trình đặc biệt khác như: Tháp Bút, Đài Nghiên,… Vì vậy cũng có thể hiểu được lý do Hồ Hoàn Kiếm trở thành điểm du lịch ấn tượng, thu hút, là nơi những người Hà Nội xa quê nhớ về và là nguồn cảm hứng nghệ thuật bất tận của những thi nhân, nhạc sĩ và văn nghệ sĩ. Trên tất cả, hồ gắn liền với huyền sử một thời, là biểu tượng khát vọng hòa bình và đức văn tài võ trị của toàn dân tộc.
Trên đà phát triển ngày nay, người ta có thể xây dựng nên vô vàn những kiệt tác kì vĩ. Nhưng người ta vẫn cảm nhận được đâu đây cái hồn cốt thủ đô, tâm hồn người Hà Nội giữa cái hồn nước mênh mang, mơ màng ấy. Dạo quanh hồ là những thảm cỏ cắt tỉa công phu, những kè đá quanh hồ, hàng cây bố trí, chăm sóc khéo léo cho ta thấy được vị trí của Hồ Gươm trong lòng nhân dân thủ đô. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần bảo tồn những di tích ấy để giá trị của chúng còn mãi với thời gian.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 11
Hồ Hoàn Kiếm là một trong nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội và nằm ngay ở phần trung tâm của thành phố. Bất cứ người nào từ xa đến Hà Nội cũng muốn tới thăm cảnh hồ. Đứng dưới bóng liễu thướt tha ngắm mặt hồ trải ra như một tấm gương bầu dục mà ở giữa nổi lên Tháp Rùa cổ kính và lệnh về một phía ven hồ là đền Ngọc Sơn với nhịp cầu Thê Húc sơn đỏ uốn cong. Phía ngoài đầu cầu là Đài Nghiên, là Tháp Bút tượng trưng cho thủ đô ngàn năm văn hiến.
Hồ Hoàn Kiếm có thể được tạo lập do sông Hồng đã chuyển dòng. Nước trong hồ quanh năm có màu xanh lục nên từ xa xưa hồ đã có tên là Lục Thủy. Một số nhà nghiên cứu đã cho biết có một loại rong tảo đặc biệt sinh sôi nảy nở trong hồ và đã tạo ra màu xanh ấy. Đến thế kỉ XV nhân có chuyện vua Lê Thái Tổ trả gươm thần cho Kim Quy ở trên hồ mà hồ được đổi tên là hồ Hoàn Kiếm hay còn được gọi là Hồ Gươm. Sau có thủy quân luyện tập trên hồ mà mang thêm tên là Thủy Quân hồ.
Dải đất viền xung quanh hồ có nhiều cây cho bóng mát, cây cảnh, bồn hoa và được coi như một công viên bao bọc mặt hồ. Hằng ngày có nhiều người tới đây để dạo mát, gặp gỡ bạn bè hoặc ngồi nghỉ ngơi trên các ghế đá để ngắm cảnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng, ngắm những cây phương vĩ nở đỏ hoa hoặc những cành liễu xanh mềm thướt tha soi bóng và tìm thấy sự thư giãn, thảnh thơi giữa nơi phố phường sầm uất, náo nhiệt.
Ở giữa hồ có một gò đất nổi lên. Ngày trước vua thường ra đó câu cá nên gọi là Điếu Đài. Đến cuối thế kỉ XIX, Tháp Rùa mới được xây dựng và đã trở thành biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Về mùa đông, sau nhiều ngày giá rét bỗng lại có những ngày khí hậu ấm áp hơn, nắng cũng hửng lên. Vào những ngày này, nhiều con rùa lớn ngoi lên quanh chân tháp, nhô đầu lên hóng nắng và có khi còn chìa cả những cái mai lớn đường kính chừng một mét lên khỏi mặt nước. Vì thế, tháp này được gọi là Tháp Rùa. Người viết lại bài này đã có nhiều lần đứng trên bờ hồ nhìn ra Tháp Rùa và xem rùa hóng nắng. Khi xa Hà Nội thấy rất nhớ cảnh tượng này nên đã viết mấy câu thơ.
Nhớ về Hà Nội
Đã lâu, không dịp về Hà Nội
Rất nhớ Hồ Gươm buổi dậy hanh
Rùa lên hóng nắng quanh chân tháp
Ngắm liễu lơ thơ đứng rủ mành.
Về ngôi đền Ngọc SƠn thì ta có thể lần theo sử sách để biết rằng đời Vĩnh Hữu, chúa Trịnh Giang cho lập cung Khánh Thụy trên đảo Ngọc nằm gần ven hồ để làm nơi hóng gió ngày hè. Sau đó chúa Trinh Doanh cho đắp gò Ngọc Bội trên bờ hồ gần đảo Ngọc để ghi nhớ một chiến công. Đến thế kỉ XIX chùa Ngọc Sơn mới được xây trên nền cung Khánh Thụy. Một thời gian sau, chùa không còn thờ phật mà chuyển sang thờ Thánh Văn Xương và anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn nên chùa được gọi là đền Ngọc Sơn. Năm 1864, nhà văn hóa lớn Nguyễn Văn Siêu đã cho Đài Nghiên và Tháp Bút ở ngoài phía cổng đền. Ca dap của nhân dân ta đã có những câu chứa chan cảm xúc thể hiện lòng tự hào dân tộc:
“Đài Nghiên, Tháp Bút chưa sờn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”
Ngày nay, vẫn còn đó Đài Nghiên và Tháp Bút “viết thơ trên trời cao”. Muốn vào đền, ta phải đi qua một cây cầu gỗ uốn cong, sơn màu đỏ chói: cầu Thê Húc. Một cây đa lớn cành lá sum suê đã được trồng từ lâu đời tỏa bóng mát che rợp cả mái đền. Đèn có ba nếp: nếp ngoài là bái đường, nếp giữa là nơi thờ Thần Văn Xương và nếp sau thờ Đức Thánh Trần. Trấn Ba Đình nằm ở trước mặt bái đường nhìn thẳng về hướng Nam là Tháp Rùa.
Ngày nay Hồ Gươm vẫn được coi như di tích lịch sử của đất nước ta. Chính năm nay, những tháng đầu năm 2004 này, Hồ Gươm đang bị cạn nước. Để bảo vệ vùa và nhiều sinh vật khác sống trong hồ, người ta phải dùng xe chở nước sạch từ xa về xả xuống hồ. Nhân dân Thủ đô cũng như nhân dân cả nước luôn mong muốn hồ Hoàn Kiếm, một thắng cảnh của Hà Nội còn lưu nhiều dấu tích của lao động dân tộc luôn được giữ gìn và tôn tạo cho ngày càng sạch đẹp hơn, xứng đáng là “chiếc lẵng hoa xinh đẹp giữa lòng Hà Nội” như một nhà thơ nước ngoài đã viết.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 12
Việt Nam ta là một đất nước với nền văn hóa lâu đời, hơn 1000 năm Thăng Long còn in dấu mãi trong lòng người dân cả nước. Trong những danh lam thắng cảnh của Đại Việt, không thể không kể đến Hồ Gươm.
Hồ Gươm thuộc quận Hoàn Kiếm, nằm giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Trước đây, hồ có thông với sông Hồng. Hồ Gươm trong suốt chiều dài lịch sử đã mang nhiều tên gọi: Hồ Tả Vọng, Hồ Lục Thủy. Vào thế kỷ XV, hồ bắt đầu được lấy tên gọi là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm. Tương truyền, tên gọi này gắn liền với truyền thuyết vua Lê Lợi hoàn lại thanh gươm cho thần Kim Quy sau khi đánh đuổi quân Minh xâm lược, xã tắc đã thái bình. Hồ Gươm rộng khoảng 20ha, kết nối giữa khu phố cổ với khu phố Tây. Hồ Gươm nước quanh năm đều xanh biếc, cây bên hồ tỏa bóng xuống mặt nước vô cùng thơ mộng. Sinh vật trong hồ khá đa dạng, vài năm trước đây, trong hồ có cụ Rùa sinh sống đã rất lâu.
Quần thể di tích Hồ Gươm vô cùng độc đáo, thu hút nhiều du khách. Giữa hồ là tháp Rùa được xây khoảng những năm 1884-1886, mang kiến trúc Pháp , tháp có hình chữ nhật, ba tầng và mỗi mặt đều có ba cửa. Tháp rùa cổ kính, lớp rêu bán lên tòa tháp trắng tạo một nét đẹp lạ lùng giữa hồ nước xanh ngọc. Đài Nghiên, tháp Bút nằm ở phía Đông Bắc hồ, được xây dựng vào năm 1865, tháp Bút có năm tầng, nhìn tổng thể như một cây bút đối lên trời xanh nên mới mang tên gọi như vậy. Thân tháp được khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” có nghĩa là “Viết lên trời xanh”. Đài Nghiên là nghiên mực được làm bằng đá, có ba chân kê nghiên hình con cóc, bên trên thân nghiêng có khắc một bài Minh.
Nhắc đến Hồ Gươm, không thể không nhắc đến cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc được Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865, cái tên Thê Húc được đặt với ý nghĩa rất đẹp “Nơi mặt trời đậu xuống buổi sáng sớm”, cầu Thê Húc dẫn vào đền Ngọc Sơn. Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc của hồ. Nơi đây thờ Trần Hưng Đạo và thờ Văn Xương- ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử xưa. Ngoài ra còn có tháp Hòa Phong ở phía Đông hồ, tháp Hòa Phong là di vật còn lại của chùa Báo Ân xưa, tháp gồm hai tầng, tầng một lớn, tầng hai bốn mặt đều là bát quái; đền thờ vua Lê, ở đây có tượng vua lê cầm kiếm như một biểu tượng đẹp cho truyền thuyết xưa. Để ngắm cảnh đẹp Hồ Gươm, hiện nay Thủy Tạ là một sự lựa chọn hoàn hảo.
Toàn bộ khu di tích Hồ Gươm không quá rộng nhưng lại mang những kiến trúc vô cùng độc đáo và kì công, là biểu tượng đẹp của Hà Nội, của Việt Nam, ghi dấu lại những nét văn hóa đang trân trọng. Trải qua nhiều năm, hồ Gươm như chứng nhân, theo dân tộc ta suốt chặng đường dài lịch sử với bao thăng trầm. Ngày nay, hồ Gươm trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm, khu phố đi bộ ngay sát hồ Gươm mỗi cuối tuần đều vô cùng nhộn nhịp. Tuy nhiên, hiện nay hồ Gươm đang dần bị ô nhiễm do ý thức của con người, rác thải được thải xuống hồ khiến hệ sinh thái hồ Gươm bị ảnh hưởng không nhỏ. Mỗi chúng ta, là người dân Việt Nam, cần nâng cao ý thức trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc, vừa là dáng hình của non sông, ông cha ta ngày trước, vừa là danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, biểu tượng đặc trưng của dân tộc Việt.
Nước ta, từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng núi non hùng vĩ, rừng vàng biển bác, có rất nhiều danh lam thắng cảnh hằng năm thu hút hàng ngàn khách du lịch. Dẫu vậy, hồ Gươm, yên bình, giản dị mà đẹp đẽ, vẫn là một trong những điểm đến tuyệt vời cho những ai dành tình yêu cho đất nước, văn hóa, con người Việt.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 2
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, ở mỗi vùng miền mỗi tỉnh đều có những danh lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng, một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm, bất kì ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ Gươm, Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật, có mực nước hồ xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm còn gắn liền lịch sử đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta, là một danh lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội.
Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngoài là danh lam thắng cảnh đẹp Hồ Gươm còn là di tích lịch sử của đất nước ta, truyền thuyết kể rằng thời giặc Minh đô hộ nước ta, chúng rất hung ác, gây ra nhiều tội ác với nhân dân ta, làm cho nhân dân sống trong cảnh khổ cực, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa ban đầu lực lượng mỏng, yếu thế nên thường bị thua, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để đánh giặc, và từ lúc có gươm thần, Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đánh đâu thắng tới đó, đánh tan quân xâm lược, giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh, một năm sau Lê Lợi trả lại gươm thần cho Thần Kim Quy, từ đó hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Có hai hòn đảo trên hồ là đảo Ngọc và đảo Rùa, đầu thế kỷ 19 người ta đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc, và gọi là Chùa Ngọc Sơn, không lâu sau đó Chùa Ngọc Sơn không thờ Phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo nên đổi tên là Đền Ngọc Sơn, năm 1864 Tháp Bút được xây dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với Đảo Ngọc. Chúng ta sẽ được tận hưởng những không gian cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp, trong Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn, cầu có một đoạn ngắn, cong cong trông rất đẹp và là lối duy nhất để du khách có thể vào đền Ngọc Sơn.
Quanh hồ Hoàn Kiếm những cảnh vật xung quanh cũng rất đẹp, rặng liễu màu xanh rủ xuống hồ, quanh hồ có những ghế đá để du khách ngồi nghĩ ngơi, tiếng chim hót líu lo, mặt hồ xanh biếc, cảnh vật thật đẹp, không chỉ đắm chìm trong không khí hơi thở của lịch sử mà thiên nhiên quanh hồ cũng rất đẹp.
Đến Hồ Gươm ta thấy còn thấy những bà lão đứa trẻ ngồi ghế đá nghỉ ngơi, những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo phố, những cô bật nhạc tập thể dục… họ đều tận hưởng cảnh đẹp của Gươm theo cách riêng của họ, những hoạt động đó làm cho Hồ Gươm trở lên tấp nập sinh động hơn.
Hồ Gươm không chỉ mang những nét đẹp cổ kính mà còn mang nét đẹp hiện đại, là danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước ta, trải qua bao chặng đường phát triển của đất nước Hồ Gươm vẫn đẹp và trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 5
Mỗi lần về thăm thủ đô Hà Nội, tôi lại muốn đến ngắm nhìn hồ Gươm trước tiên, nó đã “lưu trú” ở đây hàng mấy trăm năm, nhuốm đủ bụi của thời gian và dòng chảy lịch sử với biết bao đổi dời. Nhưng mặt hồ ấy vẫn thế, sáng trong như một chiếc gương ngọc, nằm tĩnh lặng với vẻ đẹp cổ kính, ngay giữa lòng thủ đô ồn ào, náo nhiệt.
Hồ Gươm là hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm là một hồ nước ngọt tự nhiên, thuộc địa phận quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hồ có diện tích khoảng 12 héc ta, khá nông, độ sâu trung bình khoảng từ 1 đến 1,4 mét, chiều dài bờ hồ ước tính khoảng 1750 mét. Về địa lý, hồ Gươm có nguồn gốc từ một phân lưu của dòng sông Hồng, sau phình to ra và đọng lại ở khu vực trũng của thủ đô và hình thành nên hồ như ngày nay. Đây là điểm liên kết giữa các khu phố cổ bao gồm các phố Hang Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ,… với các khu phố Bảo Khánh, Nhà Thờ, Hàng Bài, Tràng Tiền, do thực dân Pháp quy hoạch từ hàng trăm năm trước.
Hồ Gươm có rất nhiều tên gọi khác nhau, trước kia hồ có tên gọi là hồ Lục Thủy, bởi màu nước xanh như ngọc, tuyệt đẹp. Vào thời vua Lê – chúa Trịnh thì hồ dùng để duyệt quân, luyện binh nên còn có tên gọi là hồ Thủy Quân, hồ Tả Vọng, Hữu Vọng. Tên gọi Hoàn Kiếm bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 15, gắn liền với truyền thuyết vua Lê Lợi trả gươm báu cho Rùa Thần. Chuyện xưa kể rằng, trong một lần dạo chơi trên thuyền rồng ở giữa hồ Gươm, bỗng từ đâu xuất hiện một con Rùa lớn, đòi nhà vua hoàn trả lại thanh gươm mà Long Vương đã cho mượn để dẹp tan giặc Minh thuở trước. Lê Lợi bèn rút gươm ra trả, rùa ngậm lấy gươm rồi lặn mất, từ đó hồ còn có tên gọi khác là Hồ Hoàn Kiếm.
Trên hồ còn có rất nhiều các di tích lịch sử, đầu tiên phải kể đến Tháp Rùa, là biểu tượng của hồ Gươm, mà ai đến tham quan cũng muốn ghé chân một lần. Tháp Rùa nằm trên một mỏm đất nổi lên giữa hồ, được xây dựng theo phong cách kiến trúc Pháp, khởi công vào khoảng năm 1884, đến năm 1886 thì hoàn thành. Với lối thiết kế độc đáo, tòa tháp cao bốn tầng tạo nên một cảnh quan đặc sắc ngay giữa lòng hồ, cô tịch, lặng lẽ lại phủ kín rêu phong, chứng minh sự “lưu trú” vững bền của nó qua bao năm tháng, là nhân chứng lịch sử đắt giá.
Hướng mắt sang phía Bắc là đền Ngọc Sơn, trước đây vốn có tên gọi là Tượng Nhĩ nhưng sang đến thời Trần thì được đổi lại. Đền chủ thờ vị thần Văn Xương chuyên cai quản việc khoa cử và Trần Hưng Đạo. Ngay phía trước đền là cây cầu Thê Húc uốn cong, với lớp sơn son đỏ rực rỡ dưới ánh mặt trời, được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1886, tên cầu có ý nghĩa là “nơi đậu ánh sáng mặt trời vào buổi sáng sớm”. Sự kết hợp độc đáo của đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã đem lại vẻ đẹp chan hòa, đậm chất cổ kính, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên tươi đẹp.
Quay sang nhìn về hướng Đông Bắc ta thấy Tháp Bút đang sừng sững đứng, như muốn vẽ vài nét bút lên nền trời xanh thẳm. Tháp gồm có 5 tầng, đỉnh tháp là hình ngọn bút đang chỉ lên trời, phần thân bút được chạm khắc ba chữ lớn “Tả Thanh Thiên”. Đi liền với Tháp Bút chính là Đài Nghiên, hai công trình kiến trúc độc đáo này đều được xây dựng vào năm 1865, tạo nên một vẻ đẹp hài hòa lại đậm chất nhân văn, thể hiện tinh thần hiếu học của nhân dân Việt Nam ta.
Ngoài những công trình kiến trúc lịch sử đã kể trên hồ Gươm còn gắn với các công trình kiến trúc khác như: Tháp Hòa Phong ở hướng Đông, hay đền Bà Kiệu ở hướng Đông Bắc (thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc nữ), Thủy Tạ và đền thờ vua Lê,…
Hệ sinh thái của hồ không có gì đặc biệt, nhưng đáng nhắc đến nhất là Rùa Hồ Gươm, ban đầu có tất cả bốn con, tuy nhiên đều đã qua đời hết, con rùa cuối cùng vào năm 2011, được đưa lên để chạy chữa những vết thương lở loét khắp người, nhưng đến đầu năm 2016 thì “cụ Rùa” cuối cùng cũng lìa đời. Đây đều là hệ quả của việc 1 số bộ phận người dân vô ý thức, xả rác xuống lòng hồ làm ô nhiễm nguồn nước, cộng với nạn săn bắt trộm Rùa.
Hồ Gươm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng với người dân thủ đô, nơi đây không chỉ là nơi thưởng thức phong cảnh hữu tình mà còn là di tích đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử đổi dời vận mệnh của dân tộc. Hồ mang một giá trị văn hóa tinh thần vô cùng to lớn, in hằn trong ký ức của người dân Hà Nội, nhắc đến Hà Nội ai cũng nhớ đến Hồ Gươm yên bình với Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn đậm nét cổ kính. Chẳng thế mà người ta lại ví rằng hồ Gươm là trái tim xinh đẹp của thủ đô Hà Nội. Hiện nay hồ Gươm đã trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn ngay giữa lòng Hà Nội, thu hút rất nhiều khách du lịch đến tham quan, xung quanh bờ hồ cũng là nơi dạo mát lý tưởng cho các thế hệ từ già đến trẻ.
Tuy không phải là hồ lớn duy nhất ở thủ đô nhưng với những nét đặc trưng về lịch sử và vẻ đẹp cổ điển nhuốm màu thời gian, hồ Hoàn Kiếm đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca và nhạc họa. Hồ Gươm vừa là di tích lịch sử vừa là danh lam thắng cảnh có giá trị và ý nghĩa tinh thần to lớn đối với mỗi một người dân Hà Nội, là điểm nhấn bình lặng giữa thủ đô ồn ào, vội vã. Nếu bạn có cơ hội hãy một lần đến với Hà Nội, đến với hồ Gươm để được tự mình cảm nhận hết vẻ đẹp độc đáo, nhiều dấu ấn xưa cũ này nhé.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 9
Đất nước ta có rất nhiều địa danh đẹp thế nhưng về đến Hà Nội thì không ai không đến với Hồ Gươm. Có thể nói Hồ Gươm không những đẹp mà còn có cả những huyền tích nói về lịch sử đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta. Từ xưa cho đến tận bây giờ Hồ Gươm vẫn ở đó đẹp rạng ngời nét đẹp quê hương. Và không biết bao nhiêu du khách nước ngoài đã đến đây để tận hưởng cái đẹp ấy.
Hồ Gươm đặc biệt ở chỗ là địa danh này gắn liền với những truyền thuyết, những câu chuyện trong lịch sử. Đặc biệt trong Hồ Gươm có một cụ rùa mà truyền thuyết để lại gọi là thần kim quy. Giặc Minh đô hộ nước ta, chúng gây ra nhiều bạo ngược, Lê Lợi dựng cờ tụ nghĩa tại Lam Sơn nhưng ban đầu yếu thế, lực mỏng nên thường bị thua. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để giết giặc.
Một người đánh cá tên là Lê Thận ba lần kéo lưới đều gặp một thanh sắt, nhìn kỹ hóa ra một lưỡi gươm. Sau đó ít lâu, Lê Lợi bị giặc đuổi, chạy vào rừng bắt được chuôi gươm nạm ngọc trên cây đa, đem tra vào lưỡi gươm ở nhà Lê Thận thì vừa như in, mới biết đó là gươm thần. Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đánh tan quân xâm lược.Một năm sau khi thắng giặc, Lê Lợi đi thuyền chơi hồ Tả Vọng : Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm hoặc là Hồ gươm.
Đến với Hồ Gươm thì chúng ta có thể tận hưởng dược không gian cảnh vật thiên nhiên nơi đây. Nó mang một vẻ đẹp tuyệt vời và còn kèm theo cả dư ba của lịch sử nữa. Có lẽ ai khi đến đây cũng đều cảm thấy trong lòng mình nhớ đến sự tích Hồ Gươm năm xưa với người anh hùng Lê Lợi và chiếc gươm báu ấy. Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn. Cầu chỉ có một đoạn ngắn nhưng lại là lối đi duy nhất để mỗi du khách đi vào đền Ngọc Sơn. Một chiếc cầu cong cong trông thật đẹp.
Ở giữa hồ Gươm có tháp Rùa đứng một mình ở đó. được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886, trên gò Rùa và chịu ảnh hưởng kiến trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật. Tầng một: chiều dài 6,28 mét (của 2 mặt hướng Đông và Tây), mỗi mặt có 3 cửa. Chiều rộng 4,54 mét, mỗi mặt có 2 cửa. Các cửa đều được xây cuốn, đỉnh thuôn nhọn. Tầng hai: chiều dài 4,8 mét, rộng 3,64 mét và có kiến trúc giống như tầng một. Tầng ba: chiều dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét. Tầng này chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68 mét, phía trên cửa có 3 chữ Quy Sơn tháp (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét.
Đền Ngọc Sơn thì nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ . Ngày xưa vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng. Đến thời nàh Trần thì lại đổi tên thành Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra đền Ngọc Sơn trên nền cung Thụy Khánh cũ (bị Lê Chiêu Thống cho người đốt năm 1787 để trả thù các chúa Trịnh). Đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo. Ngoài ra còn những những di tích lịch sử khác cũng được đặt quanh hồ. Đó là Tháp Bút, Đài Nghiên, Tháp Hoà Phong, đền Bà Kiệu, nhà thủy Tạ, đền thờ vua Lê. Những di tích nhà thơ tháp bút ấy cho đến ngày nay đã được tu sửa khang trang vè đẹp đẽ hơn.
Đến với Hồ Gươm chúng ta không chỉ được ngập chìm trong những di tích, đắm mình vào không khí hơi thở của lịch sử cha ông mà chúng ta còn được chứng kiến những cảnh đẹp thiên nhiên cây cối quanh hồ. Đó là hình ảnh, màu xanh của những rặng liễu. Những chiếc ghế đá cũng được thiết kế đặt nơi đây để cho những du khách có thể nghỉ ngơi. Hồ Gươm ngập tràn trong sắc nước, trong màu xanh của cây cối nơi đây. Không những thế còn là âm thanh của những tiếng chim hót nghe vui tai nữa.
Cả con người nơi đây cũng đẹp. Nếu ai một lần đã đến đây thì không thể nào quên được những con người nhiệt tình, những cô bán hàng ngồi trên vỉa hè kiếm từng đồng một để trang trải cuộc sống, những bà lão, những đứa trẻ con ngồi trên ghế đá hóng mát và ngắm cảnh đẹp thiên nhiên Hồ Gươm lúc về đêm. Không những thế nơi đây còn có những cặp tình nhân cầm tay nhau đi dạo quanh hồ, những nhóm người mở nhạc tập thể dục. Tất cả những con người ấy đều cùng nhau tận hưởng cảnh đẹp Hồ Gươm theo cách của mình. Và Hồ Gươm dang tay ra che chở cho những con người ấy dù là mưu sinh hay ngắm cảnh, dạo chơi hay tập thể dục. Những hoạt động ấy làm cho Hồ Gươm trở nên tấp nập sinh động hơn.
Cho dù đã trải qua biết bao nhiêu thời gian, bao nhiêu chặng đường phát triển của đất nước thế nhưng Hồ Gươm vẫn đẹp và trở thành những điểm du lịch hấp dẫn của con người trong và ngoài nước. Hồ Gươm không những mang nét đẹp cổ kính với Tháp Rùa mà còn mang nét đẹp hiện đại nữa.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 15
Nhắc đến Thủ đô thân yêu của chúng ta có thể nhắc đến Chùa Một Cột- dáng sen vươn lên từ bùn lầy nghìn năm Bắc thuộc- tiêu biểu cho ý thức tự cường của dân tộc, hay Khuê Văn Các- viên ngọc Minh châu kết tinh của một nền khoa bảng ngàn đời… Nhưng chúng ta nhắc đến Hồ Gươm nhiều hơn cả, nằm trong lòng Hà Nội, thành phố nhân văn, thành phố vì hòa bình, thành phố ngàn năm văn hiến.
Tháp Rùa tượng trưng cho khát vọng hòa bình, Nghiên Bút nhắc đến nền văn vật. Chỉ với hai biểu tượng đó, Kiếm Hồ đã xứng đáng là trái tim của Thủ đô rồi! Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi chọn nơi đây là điểm đầu tiên cho chương trình vô cùng ý nghĩa này. Hồ Gươm không chỉ là thắng cảnh tô điểm thêm vẻ xinh tươi, duyên dáng của Thủ đô, mà còn là một trong những dấu ấn tiêu biểu của lịch sử ngàn năm văn hiến đất kinh kỳ Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội! Thưa quý khách, chúng ta đang ở hồ Gươm, nơi chúng ta đang đứng đây có thể nhìn bao quát hồ, ngắm tháp Rùa, đền Ngọc Sơn và những điểm nổi bật quanh bờ hồ.
Trước khi giới thiệu về hồ Gươm, xin mời quý khách hướng ra mặt hồ ngay sau mình và tôi xin tặng quý khách một đoạn thơ trong bài “Lại về” của cố thi sĩ Tố Hữu: Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ, Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay. Bây giờ đây lại là đây, Quốc kỳ đỉnh tháp, sao bay mặt hồ. Hồn Nước – là tâm hồn đất nước, là linh hồn của đất nước cũng có nghĩa là cái truyền thống, cốt cách của dân tộc Việt Nam.
Và hồ Gươm – theo tác giả – chính là cái hình hài vật chất của cái hồn Nước từ nghìn thu xưa lưu lại, để chúng ta tự hào về lịch sử của dân tộc mình. Hồ Gươm có thể nói là một không gian thiêng của Hà Nội và của cả nước ta. Toàn bộ diện tích của hồ Gươm là 12 ha, dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m theo hướng Đông Tây. Theo con mắt của những nhà địa chất, Hồ Gươn là nón quà của sông Hồng từ xa xưa, thủa sông Cái còn lượn sâu vào đất này từ vài ngàn năm trước. Hiện tượng sông bỏ dòng như vậy rất thường xảy ra. Thực ra tên gọi Hồ Gươm mới có khoảng một thế kỷ nay.
Trước đó tên phổ biến là hồ Hoàn Kiếm. Còn trước đó nữa Hồ còn có nhiều tên gọi khác nhau. Thủa xa xưa do hồ có màu nước quanh năm xanh nên còn có tên là hồ Lục Thủy (nghĩa là Nước Xanh). Chuyện kể rằng khi vua Lê Thái Tổ khởi binh chống quân Minh xâm lược, Vua có bắt được một thanh gươm, vũ khí đó theo vua suốt cuộc trường trinh mười năm và cuối cùng Vua đánh đuổi được giặc, giành lại nền độc lập. Đóng đô ở Hà Nội khi đó gọi là Thăng Long, một hôm vua dong thuyền đi chơi trên hồ Lục Thủy thì có rùa vàng nổi lên, vua tuốt gươm chỉ vào rùa thì rùa liền ngậm cây gươm mà lặn xuống nước.
Nghĩ rằng đó là khi trước Trời cho mượn gươm để dẹp giặc, nay giặc tan thì sai rùa thần đến đòi lại gươm trả lại cho Trời. Từ đó vua đổi tên hồ thành hồ Hoàn Kiếm tức hồ Trả Gươm mà ngày nay chúng ta gọi tắt là hồ Gươm. Phải chăng truyền thuyết trả gươm đó muốn nói lên khát vọng hòa bình của cả dân tộc Việt Nam. Khi dẹp xong giặc thì gác vũ khí lại để lo sản xuất làm ăn, vì một nên hòa bình lâu dài. Như đứng trên trụ cao, tượng đài vua Lê đội mũ bình thiên chỉ gươm xuống tuyên bố: “Dân tộc ta sẽ không đúc, rèn vũ khí nữa, chỉ dành công sức tạo nên cuộc sống, nhân danh trăm họ, Trẫm xin hoàn lại thanh gươm chiến thắng”.
Truyền thuyết còn có một ý nghĩa sâu xa nữa, theo dân gian, thanh gươm là biểu tượng của Lửa. nhúng gươm xuống nước là biểu thị của nghi lễ hòa hợp nước lửa. Vâng thưa quý khách, có lẽ chưa ở nơi đâu như mảnh đất này lại được xây dựng trên huyền thoại và truyền thuyết hòa quện suốt chiều dài lịch sử. Từ lúc vua Lý Thái Tổ thấy rồng bay lên khi đậu thuyền ở chân thành Đại La, và đến khi Lê Thái Tổ giữ nước thành công, chuyện trả gươm như gạch nối xứng đáng nhất để tạo nên nét đối xứng tuyệt diệu – Dương: Rồng bay. Âm: Rùa lặn! theo giáo sư Trần Quốc Vượng, bản sắc của Thăng Long – Đại Việt là tổng hòa những giá trị hư và thực, thực mà hư. Huyền mà thực, thực mà huyền!
Hồ Gươm được gọi phổ biến với cái tên Hoàn Kiếm từ đó, nhưng cũng có lúc hồ có tên là Vọng, chia hai phần tả-hữu. Theo sử sách, hồ Gươm xa xưa rộng mênh mông, truyền thuyết hồ Gươm có kể tiếp rằng dù sao Vua cũng muốn tìm ra rùa Vàng nên sai quân lính đắp đập ngăn hồ Lục Thủy thành hai nửa, ban đầu cho tát nước từ bên này sang bên kia không tìm thấy rùa, lại tát ngược lại, vẫn không thấy rùa bèn cho là rùa Thần.
Sau đó cái đập được giữ lại, nửa hồ phía bắc được gọi là hồ Tả Vọng, phần còn lại phía nam gọi là Hữu Vọng, sau này phần hồ Hữu Vọng bị Tây lấp, hồ Gươm giờ là một trong những phần Tả Vọng. Hồ sau này thời chúa Trịnh còn được dùng làm chỗ tập luyện thủy quân nên còn gọi là hồ Thủy Quân. Ngày nay hồ Gươm xanh tươi quanh năm với hàng cây được trồng quanh bờ hồ, đã có thi sỹ ví hồ Gươm như sóng mắt biếc và hàng cây xanh như hàng mi của hồ Gươm- hàng mi của đôi mắt người thiếu nữ? Chắc quý khách đang ngắm nhìn tháp rùa ở phía xa giữa hồ.
Tháp rùa đã từ lâu trở thành biểu tượng thân thiết của thủ đô Hà Nội, mặc dù tháp chỉ được xây vào nửa cuối thế kỷ 19. Gọi là tháp Rùa vì tháp được xây trên đảo rùa, là gò đất nhỏ nổi lên giữa hồ làm nơi rùa hồ Gươm thường lên phơi nắng hay đẻ trứng, gò đất này các cụ vẫn gọi nó là Quy Sơn tuy chỉ cao hơn mặt nước hồ 60cm (vì theo thuật phong thủy “ cao một tấc thì cũng là một ngọn núi”). Về sự tích xuất hiện tháp Rùa cũng rất lý thú, truyền thuyết kể lại rằng, trên đảo rùa có huyệt quý, nếu đem hài cốt song thân tang vào đó thì con cái đời đời vinh hiển. Năm 1884, Pháp đã làm chủ Hà Nội.
Một tên tay sai của thực dân là Bá Kim xin được xây tháp trên gò rùa và lén đặt hài cốt cha mẹ mình vào đó, nhưng sự việc không thành nhưng đã hứa với mọi người là xây tháp nên hắn đành ngậm bò hòn làm ngọt xây nốt tháp rùa. Để thưởng công cho Bá Kim, thực dân Pháp đặt tên tháp là tháp Bá Kim, nhưng nhân dân Thủ đô vẫn gọi là tháp Rùa.
Tuy truyền thuyết Bá Kim xây tháp rùa để tang hài cốt cha mẹ chỉ là truyền thuyết dân gian, được lưu truyền và phần nào đó tạo nên tính thiêng liêng, ly kì của tháp Rùa! Hơi xa một chút nhưng chắc quý khách cũng có thể thấy, tháp rùa được xây theo hình chữ nhật, có ba tầng và một đỉnh. Tầng một xây trên móng cao 80cm, tầng này hình chữ nhật, mỗi mặt tháp đều có những ô cửa hình vòm, mặt chiều dài có 3 cửa, mặt chiểu rộng có 2 cửa, tổng cộng bên ngoài có 10 cửa. Bên trong tháp tầng 1 còn được phân ra làm ba gian và có 4 cửa thông với nhau. Vậy tổng cộng tầng một có 14 cửa. Tầng hai cũng tương tự nhưng diện tích nhỏ hơn. Tầng ba nhỏ hơn nữa, chỉ có 1 cửa hình tròn ở mặt phía Đông. Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu, vuông vức. trên tường mặt phía Đông có ba chữ Quy Sơn Tháp tức Tháp Núi Rùa. Như vậy, Tháp Rùa tuổi đã dư một thế kỷ, dù lịch sử không có gì đáng kể, cũng đã là một bộ phận hữu cơ cảu hồ Gươm, là một trong những phần của tâm hồn Hà Nội. Thưa quý khách, ngoài Quy Sơn có Tháp Rùa, hồ Gươm còn có một núi nữa đó là Ngọc Sơn, nói đến Hồ Gươm, nói đến Tháp Rùa thì không thể không nhắc đến Đền Ngọc Sơn.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rất gần bên trái trước mặt là hai chữ Ngọc Sơn được viết sơn màu đỏ trên tấm bình phong của Đền quay mặt phía chúng ta. Cũng thật khó khi đứng xa mà miêu tả quần thể kiến trúc vừa có ý nghĩa sâu xa, vừa có cấu tạo đẹp đẽ này! Tôi xin được giới thiệu đôi nét nổi bật nhất về quần thể đền Ngọc Sơn Đền Ngọc Sơn tọa lạc trên đảo Ngọc, giữa sóng hồ. đảo có tên là Ngọc vì theo truyền thuyết có tiên xuống tắm. sau này được gọi là Ngọc Sơn vào thời Trần. Ở đây vốn có ngôi đền thờ những liệt sỹ hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đền lâu ngày tự đổ.
Đến thời Lê Chiêu Thống, có nhà nho tên là Tín Trai xây ngôi chùa đặt tên là chùa Ngọc Sơn. Sau này thời Nguyễn, năm vua Thiệu Trị thứ ba chùa được nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền Tam Thánh thờ Văn Xương Đế Quân và gọi là Đền Ngọc Sơn như bây giờ. Năm Tự Đức, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền, kiến trúc ngày nay còn lại chủ yếu là từ lần trùng tu lớn này!
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, một nơi dùng để chơi thuyền mà còn gắn liền với đời sống về nhiều phương diện: đêm giao thừa, người người nô nức du xuân quanh hồ. Các đôi vợ chồng trong ngày cưới tìm đến bên hồ Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng. Ai đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ xen giữa những phượng cháy đỏ rực, những cành cây ngả xuống, vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc.
Ngày nay, Hồ Gươm vẫn đang thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích cho nước nhà, chúng ta cần ra sức bảo vệ và giữ gìn để hồ ngày càng xanh tươi hơn, mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Bài văn thuyết minh về Hồ Gươm số 13
Trong bài “Lại về” của cố thi sĩ Tố Hữu có viết:
“Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ
Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay
Bây giờ đây lại là đây
Quốc kỳ đỉnh tháp, sao bay mặt hồ.”
Hồn Nước – là tâm hồn đất nước, là linh hồn của đất nước cũng có nghĩa là cái truyền thống, cốt cách của dân tộc Việt Nam.Và hồ Gươm – theo tác giả – chính là cái hình hài vật chất của cái hồn Nước từ nghìn thu xưa lưu lại, để chúng ta tự hào về lịch sử của dân tộc mình. Hồ Gươm có thể nói là một không gian thiêng của Hà Nội và của cả nước ta. Toàn bộ diện tích của hồ Gươm là 12 ha, dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m theo hướng Đông Tây. Theo con mắt của những nhà địa chất, Hồ Gươn là nón quà của sông Hồng từ xa xưa, thủa sông Cái còn lượn sâu vào đất này từ vài ngàn năm trước. Hiện tượng sông bỏ dòng như vậy rất thường xảy ra.
Thực ra tên gọi Hồ Gươm mới có khoảng một thế kỷ nay.Trước đó tên phổ biến là hồ Hoàn Kiếm. Còn trước đó nữa Hồ còn có nhiều tên gọi khác nhau. Thủa xa xưa do hồ có màu nước quanh năm xanh nên còn có tên là hồ Lục Thủy (nghĩa là Nước Xanh). Chuyện kể rằng khi vua Lê Thái Tổ khởi binh chống quân Minh xâm lược, Vua có bắt được một thanh gươm, vũ khí đó theo vua suốt cuộc trường trinh mười năm và cuối cùng Vua đánh đuổi được giặc, giành lại nền độc lập. Đóng đô ở Hà Nội khi đó gọi là Thăng Long, một hôm vua dong thuyền đi chơi trên hồ Lục Thủy thì có rùa vàng nổi lên, vua tuốt gươm chỉ vào rùa thì rùa liền ngậm cây gươm mà lặn xuống nước.
Nghĩ rằng đó là khi trước Trời cho mượn gươm để dẹp giặc, nay giặc tan thì sai rùa thần đến đòi lại gươm trả lại cho Trời. Từ đó vua đổi tên hồ thành hồ Hoàn Kiếm tức hồ Trả Gươm mà ngày nay chúng ta gọi tắt là hồ Gươm. Từ lúc vua Lý Thái Tổ thấy rồng bay lên khi đậu thuyền ở chân thành Đại La, và đến khi Lê Thái Tổ giữ nước thành công, chuyện trả gươm như gạch nối xứng đáng nhất để tạo nên nét đối xứng tuyệt diệu – Dương: Rồng bay. Âm: Rùa lặn! theo giáo sư Trần Quốc Vượng, bản sắc của Thăng Long – Đại Việt là tổng hòa những giá trị hư và thực, thực mà hư. Huyền mà thực, thực mà huyền! Hồ Gươm được gọi phổ biến với cái tên Hoàn Kiếm từ đó, nhưng cũng có lúc hồ có tên là Vọng, chia hai phần tả-hữu. Theo sử sách, hồ Gươm xa xưa rộng mênh mông, truyền thuyết hồ Gươm có kể tiếp rằng dù sao Vua cũng muốn tìm ra rùa Vàng nên sai quân lính đắp đập ngăn hồ Lục Thủy thành hai nửa, ban đầu cho tát nước từ bên này sang bên kia không tìm thấy rùa, lại tát ngược lại, vẫn không thấy rùa bèn cho là rùa Thần.
Sau đó cái đập được giữ lại, nửa hồ phía bắc được gọi là hồ Tả Vọng, phần còn lại phía nam gọi là Hữu Vọng, sau này phần hồ Hữu Vọng bị Tây lấp, hồ Gươm giờ là một trong những phần Tả Vọng. Hồ sau này thời chúa Trịnh còn được dùng làm chỗ tập luyện thủy quân nên còn gọi là hồ Thủy Quân. Ngày nay hồ Gươm xanh tươi quanh năm với hàng cây được trồng quanh bờ hồ, đã có thi sỹ ví hồ Gươm như sóng mắt biếc và hàng cây xanh như hàng mi của hồ Gươm- hàng mi của đôi mắt người thiếu nữ.
Tháp Rùa nằm ở trung tâm hồ, được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 trên gò Rùa. Đây là công trình kiến trúc độc đáo mang đậm kiến trúc Pháp. Tháp có hình chữ nhật, gồm 3 tầng, mỗi mặt có 3 cửa. Tầng 1 và 2 có kiến trúc giống nhau, gồm nhiều ô của hình vòm. Tầng 3 chỉ có một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, phía trên cửa có 3 chữ Quy Sơn tháp (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi).Khi dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho đổi tên là Ngọc Tượng và đền có chính thức là Ngọc Sơn từ thời Trần.
Đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, do Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là “nơi đậu ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm”. Tháp Bút trên bờ hướng đông bắc hồ, được xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút đối lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên nghĩa là viết lên trời xanh, thân tầng thứ ba của tháp có khắc một bài Bút Tháp Chí. Đài Nghiên là phần không thể thiếu của tháp Bút, ba chân kê nghiên là hình tượng ba con cóc.
Trên thân nghiên khắc một bài Minh, gồm 64 chữ hán. Tháp Hòa Phong là phần còn sót lại của chùa Báo n. Tháp có 3 tầng, tầng 1 to và cao hơn 2 tầng trên cùng. Đền Bà Kiệu thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc Nữ. Thủy Tạ được xây dựng thời chúa Trịnh Sâm, là đại diện tiêu biểu cho lối kiến trúc cổ của Việt Nam, vua thường thưởng ngoạn cảnh trí hồ ở đây. Đền thờ vua Lê có tượng vua Lê Thái Tổ đứng trên trụ cao, tay cầm thanh kiếm như phóng xuống mặt hồ.
Hồ Gươm với những giá trị vĩnh hằng đã trở thành hồn cốt của thủ đô Hà Nội. Hồ Gươm luôn sống mãi trong trái tim những người dân thủ đô, đặc biệt là những người con xa xứ.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài nghiên, tháp bút chưa mòn
,Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Có thể bạn thích: