Bài học “Các phương châm hội thoại” giúp các em hiểu phương châm về lượng và phương châm về chất trong quan hệ giao tiếp. Giúp quá trình giao tiếp đạt mục đích cao và giải các bài tập dễ dàng hơn. Để giúp các em chuẩn bị kiến thức thật tốt, và tiếp thu bài học hiệu quả hơn, thì hôm nay TopChuan.com xin giới thiệu đến các em top các bài soạn: “Các phương châm hội thoại” hay nhất để các em có thể tham khảo nhé.
Các phương châm hội thoại – Bài 2
I. Phương châm về lượng:
Câu 1.
– Câu trả lời của Ba “ở dưới nước” chỉ đáp ứng lô-gic hình thức chứ không đáp ứng nội dung mà An muốn biết
– Khi nói, câu nói phải có nội dung đúng với yêu cầu của giao tiếp, không nên nói ít hơn những gì mà giao tiếp đòi hỏi.
Câu 2.
– Truyện này gây cười vì các nhân vật nói nhiều hơn những gì cần nói.
– Trong giao tiếp, không nên nói nhiều hơn những gì cần nói.
II. Phương châm về chất:
– Truyện cười phê phán tính nói khoác.
– Trong giao tiếp, không nên nói những điều mà mình không tin là đúng sự thật.
III. Luyện tập:
Câu 1:
a. “Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà”: Câu này thừa cụm từ “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã hàm chứa nghĩa là thú nuôi trong nhà.
b. “Én là một loài chim có hai cánh”: Tất cả các loài chim đều có hai cánh. Vì thế “có hai cánh” là một cụm từ thừa.
Câu 2:
a. Nói có căn cứ chắc chắn là nói có sách, mách có chứng.
b. Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là nói dối.
c. Nói một cách hú họa, không có căn cứ là nói mò.
d. Nói nhảm nhí, vu vơ là nói nhăng nói cuội.
e. Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác lác cho vui là nói trạng.
Các từ ngữ này đều chỉ những cách nói tuân thủ hoặc vi phạm phương châm hội thoại về chất.
Câu 3.
Với câu hỏi “Rồi có nuôi được không?”, người nói đã không tuân thủ phương châm về lượng (hỏi một điều rất thừa)
Câu 4.
a. như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ, hình như là…
Như đã học trong phần phương châm về chất, khi giao tiếp đừng nói những điều mà mình tin là không đúng hay không có bằng chứng xác thực. Trong nhiều trường hợp, vì một lí do nào đó, người nói muốn (hoặc phải) đưa ra một nhận định hay truyền đạt một thông tin, nhưng chưa có bằng chứng chắc chắn. Để đảm bảo tuân thủ phương châm về chất, người nói phải dùng những cách nói trên nhằm báo cho người nghe biết là tính xác thực của nhận định hay thông tin mà mình đưa ra chưa được kiểm chứng.
b. như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết.
Phương châm về lượng đòi hỏi khi giao tiếp cần nói cho có nội dung, nội dung của lời nói phải đúng như yêu cầu của giao tiếp, không thiếu, không thừa. Khi nói một điều mà người nói nghĩ là người nghe biết rồi thì người nói đã không tuân thủ phương châm về lượng. Trong giao tiếp, đôi khi để nhấn mạnh hay để chuyển ý, dẫn ý, người nói cần nhắc lại một nội dung nào đó đã nói hay giả định là mọi người đều biết. Khi đó, để đảm bảo phương châm về lượng, người nói phải dùng những cách nói trên nhằm báo cho người nghe biết là việc nhắc lại nội dung đã cũ là do chủ ý của người nói.
Câu 5.
– Ăn đơm nói đặt: vu khống, đặt điều, bịa chuyện cho người khác.
– Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ.
– Ăn không nói có: vu khống, bịa đặt.
– Cãi chày cãi cối: cố tranh cãi, nhưng không có lí lẽ gì cả.
– Khua môi múa mép: nói năng ba hoa, khoác lác, phô trương.
– Nói dơi nói chuột: nói lăng nhăng, linh tinh, không xác thực.
– Hứa hươu hứa vượn: hứa để được lòng rồi không thực hiện lời hứa.
Tất cả những thành ngữ trên đều chỉ những cách nói, nội dung nói không tuân thủ phương châm về chất. Các thành ngữ này chỉ những điều tối kị trong giao tiếp, học sinh cần tránh.
Các phương châm hội thoại – Bài 5
Phương châm về lượng.
1 (Trang 8 SGK): Đọc đoạn đối thoại và trả lời câu hỏi.
Trả lời:
Câu trả lời của Ba: …Dĩ nhiên là ở dưới nước… không mang đầy đủ nội dung mà An cần biết. Vì từ “bơi” hàm nghĩa “bơi ở dưới nước”. Điều mà An cần biết là địa điểm học bơi của Ba.
Nói mà không có nội dung là một hiện tượng không bình thường trong giao tiếp vì câu nói trong giao tiếp bao giờ cũng truyền tải một nội dung nhất định.
Như vậy câu nói phải có nội dung đúng như yêu cầu của giao tiếp, không nói thiếu những gì mà giao tiếp yêu cầu.
2 (Trang 9 SGK): Đọc truyện cười (Lợn cưới áo mới) và trả lời câu hỏi
Truyện này gây cười vì hai nhân vật nói thừa những gì mà giao tiếp yêu cầu. Lẽ ra anh tìm lợn cưới chỉ cần hỏi: “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?” và anh mặc áo mới chỉ cần đáp: “(Nãy giờ) tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả” là đủ. Như vậy, không nên nói nhiều hơn những gì cần nói.
-> Phương châm về chất.
Yêu cầu: Đọc truyện cười (Quả bí khổng lồ – Trang 9 SGK) và trả lời câu hỏi.
Truyện cười này phê phán điều gì? Như vậy trong giao tiếp có điều gì cần tránh?
Trả lời:
– Truyện cười này phê phán tính nói khoác.
– Trong giao tiếp, đừng nói những điều mình tin là không đúng hay không có bằng chứng xác thực. Đó là phương châm về chất, cần giữ nguyên tắc chân thực trong nội dung nói.
Luyện tập:
Câu 1 (Trang 10 SGK). Các câu sau mắc lỗi phương châm về lượng như thế nào?
a) Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà.
b) Én là một loài chim có hai cánh.
Trả lời: Lỗi câu
a) Thừa nuôi ở nhà, vì gia súc đã có nghĩa là thủ nuôi trong nhà.
b) Thừa có hai cánh, vì tất cả loài chim đều có hai cánh (không riêng gì chim én).
2 (Trang 10 SGK). Chọn từ ngữ thích hợp điều vào chỗng trống
Trả lời:
a) Nói có căn cứ chắc chắn là nói có sách, mách có chứng.
b) Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì là nói dối.
c) Nói một cách hú họa, không căn cứ là nói mò.
d) Nói nhảm nhí, vu vơ là nói nhăng nói cuội.
e) Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa khoác lác cho vui là nói trạng.
Các từ ngữ in nghiêng đều chỉ những cách nói liên quan đến những phương. châm hội thoại về chất:
• Nói điều mà mình tin là đúng: (a)
• Nói điều mình tin là không đúng hay không có bằng chứng xác thực: (b), (c), (d), (e).
3 (Trang 11 SGK). Đọc truyện cười sau và cho biết phương châm hội thoại nào đã không được tuân thủ…
Trả lời:
Câu hỏi “Rồi có nuôi được không?”; thừa nội dung.
Người nói không tuân thủ phương châm hội thoại về lượng.
4 (Trang 11 SGK). Vận dụng những phương châm hội thoại đã học để giải thích vì sao người nói đôi khi phải dùng những cách diễn đạt như: […].
Trả lời:
a) Trường hợp phải đưa ra một nhận định hoặc một thông tin nhưng chưa có bằng chứng, đôi khi người nói phải dùng những cách diễn đạt sau, nhằm báo rằng những nhận định hoặc thông tin đó chưa được kiểm chứng: như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không làm thì, theo tôi nghĩ, hình như là.
b) Trường hợp người nói muốn nhắc lại cho người nghe thấy điều mình đã nói, điều mọi người đã biết mà không vi phạm phương châm về lượng: như tôi đã trình bày, như tôi được biết.
Câu 5 (Trang 11 SGK). Giải thích nghĩa các thành ngữ và các thành ngữ này liên quan đến phương châm hội thoại nào? […]
Trả lời:
Ăn đơm nói đặt: đặt điều vu khống.
Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ.
Ăn không nói có: bịa đặt, vu khống.
Cãi chày, cãi cối: có tranh cãi dù không có lí lẽ.
Khua môi mùa mép: khoác lác, ba hoa.
Nói dời nói chuột: nói linh tinh, không có mục đích nghiêm chỉnh.
Hứa hươu hứa vượn: hứa nhưng không thực hiện.
Tất cả thành ngữ trên đều chỉ cách nói, nội dung nói không tuân thủ phương châm về chất.
Các phương châm hội thoại – Bài 4
I. Phương Châm Về Lượng:
Câu 1:
a. Bản thân từ “bơi” đã cho người ta biết: ở dưới nước. Điều mà An cần biết là một địa điểm học bơi cụ thể (Bể bơi nào? Sông, hồ,… nào?)
b. Câu trả lời của Ba chỉ có nội dung mặc nhiên đã được biết, không có lượng thông tin cần thiết đáp ứng nhu cầu của người đối thoại.
c. Như vậy, khi giao tiếp ta cần chú ý lời nói thiếu nội dung sẽ không đảm bảo tiêu chuẩn giao tiếp.
Câu 2:
a. Đọc truyện “Lợn cưới, áo mới” ta thấy vì muốn khoe khoang nên cả hai anh chàng trong truyện trên đều đưa vào lời nói những nội dung không cần thiết. Đây cũng chính là yếu tố gây cười của truyện. Lẽ ra anh “lợn cưới” chỉ cần hỏi: “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?” và anh “áo mới” chỉ cần trả lời “tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả”. Truyện cười này phê phán tính nói khoác.
b. Như vậy, khi giao tiếp ta cần phải tuân thủ yêu cầu:
– Lời nói phải có thông tin; thông tin ấy phải phù hợp với mục đích giao tiếp.
– Nội dung của lời nói phải đủ (không thiếu, không thừa).
II. Phương Châm Về Chất:
Câu 1: Tiếng cười trong truyện cười có tác dụng lên án, phê phán những cái xấu. Ở mẩu chuyện trên, tình tiết gây cười nằm ở lời đối đáp giữa hai nhân vật, đặc biệt là ở lời thoại cuối. Cái xấu bị phê phán ở đây là tính nói khoác, nói không đúng sự thật.
Câu 2: Câu chuyện trên nhắc nhở chúng ta: khi nói, nội dung lời nói phải đúng sự thật. Không nói những gì mà mình không tin là đúng, không có căn cứ chính xác. Đây cũng chính là phương châm về lượng mà người giao tiếp phải tuân thủ.
III. Luyện Tập:
Câu 1: Các câu sau vi phạm phương châm về lượng như thế nào?
a. Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà. Câu này thừa “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã hàm chứa “thú nuôi trong nhà”.
b. Én là một loài chim có hai cánh. Câu này thừa tổ hợp từ “có hai cánh” vì tất cả các loài chim đều có hai cánh.
Câu 2: Hãy chọn các từ ngữ cho bên dưới để điền vào chỗ trống – (…) – trong các câu sau cho thích hợp:
a. Nói có căn cứ chắc chắn là: nói có sách, mách có chứng.
b. Nói sai sự thật một cách cố ý nhằm che giấu điều gì đó là: nói dối.
c. Nói một cách hú họa, không có căn cứ là: nói mò.
d. Nói nhảm nhí, vu vơ là: nói nhăng nói cuội.
e. Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi… là: nói trạng.
Câu 3:
Câu hỏi “Rồi có nuôi được không?” của người nói đã không tuân thủ phương châm hội thoại về lượng. Bởi vì nội dung câu hỏi đối với cuộc đối thoại là thừa, không cần thiết. Trong câu trả lời của người bạn: “Bà tôi sinh ra bố tôi cũng đẻ non trước hai tháng đấy!”, thì dĩ nhiên là nuôi được thì sau này mới sinh ra anh bạn này. Đây cũng chính là chỗ gây ra tiếng cười của truyện.
Câu 4:
a. Đôi khi người nói phải đùng những cách diễn đạt như: như tôi được biết tôi tin rằng; nếu tôi không lầm thì; tôi nghe nói; theo tôi nghĩ; hình như là …Để đảm bảo tuân thủ phương châm hội thoại về chất. Người nói phải dùng những cách nói trên nhằm bào cho người nghe biết tính xác thực của nhận định hay thông tin mà mình đưa ra chưa được kiểm chứng.
b. Đôi khi người nói dùng: như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết. Những cách nói này nhằm để đảm bảo phương châm về lượng. Mục đích có thể để nhấn mạnh ý, hay chuyển ý, dẫn ý, người nói cần nhắc lại một nội dung nào đó đã nói hay giả định là mọi người đã biết .
Câu 5: Giải thích thành ngữ:
– Ăn đơm nói đặt: nói theo cách vu khống, đặt điều, bịa chuyện cho người khác
– Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ.
– Ăn không nói có: nói theo cách vu khống, bịa đặt.
– Cãi chày cãi cối: cố tranh cãi, nhưng không có lý lẽ thuyết phục, đúng đắn.
– Khua môi múa mép: nói ba hoa, khoác lác.
– Nói dơi nói chuột: nói lăng nhăng linh tinh, không xác thực.
– Hứa hươu hứa vượn: hứa hẹn lấy lòng nhưng không thực hiện.
Các thành ngữ trên đều chỉ những trường hợp vi phạm phương châm về chất. Phải tránh những cách nói, nội dung nói được chỉ ra trong các thành ngữ trên.
Các phương châm hội thoại – Bài 3
I. Phương châm về lượng:
Câu 1 (trang 8 sgk Văn 9 Tập 1):
Câu trả lời của Ba không đáp ứng yêu cầu mà An muốn biết vì nó mơ hồ về ý nghĩa.
Điều mà An muốn biết là địa điểm học bơi của Ba ở đâu.
Bài học về giao tiếp:Trong giao tiếp, muốn đạt được hiệu quả, cần phải nói có nội dung giao tiếp, không nói ít ơn những gì mà giao tiếp đòi hỏi.
Câu 2 (trang 9 sgk Văn 9 Tập 1):
Truyện gây cười vì hai nhân vật nói nhiều hơn những gì cần nói.
Anh “lợn cưới” chỉ cần hỏi: “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?” và anh “áo mới” chỉ cần trả lời: “tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả”.
Khi giao tiếp không nói nhiều hơn những gì cần nói.
II. Phương châm về chất:
Truyện phê phán những người nói không có sự thật. Đây là tính xấu nói khoác lác.
Bài học: Khi giao tiếp, cần nói những thông tin có bằng chứng xác thực.
III. Luyện tập:
Câu 1 (trang 10 sgk Văn 9 Tập 1):
a, Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà.
Thừa cụm từ “nuôi ở nhà” vì gia súc là vật nuôi ở nhà.
b, Én là một loài chim có hai cánh.
Thừa cụm từ “có hai cánh” vì tất cả loài chim đều có hai cánh.
Câu 2 (trang 10 sgk Văn 9 Tập 1):
a, Nói có căn cứ chắc chắn là nói có sách mách có chứng.
b, Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là nói dối.
c, Nói một cách hú họa, không có căn cứ là nói mò.
d, Nói nhảm nhí, vu vơ là nói nhăng nói cuội.
e, Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác lác cho vui là nói trạng.
Câu 3 (trang 11 sgk Văn 9 Tập 1):
Phương châm hội thoại về lượng không được tuân thủ vì thừa câu “rồi có nuôi được không. Câu nói này không cần thiết và không phù hợp với cuộc hội thoại.
Câu 4 (trang 11 sgk Văn 9 Tập 1):
a, như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ, hình như là,… người nói cho biết thông tin họ nói chưa chắc chắn: tôn trọng phương châm về chất.
b, như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết,… người nói nhằm báo cho người nghe biết nói về nội dung cũ là có chủ ý: tôn trọng phương châm về lượng.
Câu 5 (trang 12 sgk Văn 9 Tập 1):
– Ăn đơm nói đặt: nói vu khống, đặt điều cho người khác.
– Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ.
– Ăn không nói có: nói vu khống, bịa đặt.
– Cãi chày cãi cối: cố tranh cãi nhưng không có lí lẽ.
– Khua môi múa mép: nói phô trương, nói ba hoa, khoác lác.
– Nói dơi nói chuột: nói lăng nhăng, không có bằng chứng.
– Hứa hươu hứa vượn: hứa hẹn nhưng chỉ để đấy không thực hiện.
Những thành ngữ trên đều không tuân thủ phương châm hội thoại về chất.
Các phương châm hội thoại – Bài 1
Soạn bài: Các phương châm hội thoại:
I. Phương châm về lượng:
Câu 1:
a. Bản thân từ “bơi” đã cho người ta biết: ở dưới nước. Điều mà An cần biết là một địa điểm học bơi cụ thể (Bể bơi nào? Sông, hồ,… nào?)
b. Câu trả lời của Ba chỉ có nội dung mặc nhiên đã được biết, không có lượng thông tin cần thiết đáp ứng nhu cầu của người đối thoại.
c. Như vậy, khi giao tiếp ta cần chú ý lời nói thiếu nội dung sẽ không đảm bảo tiêu chuẩn giao tiếp.
Câu 2:
a. Đọc truyện “Lợn cưới, áo mới” ta thấy vì muốn khoe khoang nên cả hai anh chàng trong truyện trên đều đưa vào lời nói những nội dung không cần thiết. Đây cũng chính là yếu tố gây cười của truyện. Lẽ ra anh “lợn cưới” chỉ cần hỏi: “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không?” và anh “áo mới” chỉ cần trả lời “tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả”. Truyện cười này phê phán tính nói khoác.
b. Như vậy, khi giao tiếp ta cần phải tuân thủ yêu cầu:
– Lời nói phải có thông tin; thông tin ấy phải phù hợp với mục đích giao tiếp.
– Nội dung của lời nói phải đủ (không thiếu, không thừa).
II. Phương châm về chất:
Câu 1:
Tiếng cười trong truyện cười có tác dụng lên án, phê phán những cái xấu. Ở mẩu chuyện trên, tình tiết gây cười nằm ở lời đối đáp giữa hai nhân vật, đặc biệt là ở lời thoại cuối. Cái xấu bị phê phán ở đây là tính nói khoác, nói không đúng sự thật.
Câu 2:
Câu chuyện trên nhắc nhở chúng ta: khi nói, nội dung lời nói phải đúng sự thật. Không nói những gì mà mình không tin là đúng, không có căn cứ chính xác. Đây cũng chính là phương châm về lượng mà người giao tiếp phải tuân thủ.
III. Luyện tập:
Câu 1: Các câu sau vi phạm phương châm về lượng như thế nào?
a. Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà. Câu này thừa “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã hàm chứa “thú nuôi trong nhà”.
b. Én là một loài chim có hai cánh. Câu này thừa tổ hợp từ “có hai cánh” vì tất cả các loài chim đều có hai cánh.
Câu 2: Hãy chọn các từ ngữ cho bên dưới để điền vào chỗ trống – (…) – trong các câu sau cho thích hợp:
a. Nói có căn cứ chắc chắn là: nói có sách, mách có chứng.
b. Nói sai sự thật một cách cố ý nhằm che giấu điều gì đó là: nói dối.
c. Nói một cách hú họa, không có căn cứ là: nói mò.
d. Nói nhảm nhí, vu vơ là: nói nhăng nói cuội.
e. Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi… là: nói trạng.
Câu 3:
Câu hỏi “Rồi có nuôi được không?” của người nói đã không tuân thủ phương châm hội thoại về lượng. Bởi vì nội dung câu hỏi đối với cuộc đối thoại là thừa, không cần thiết. Trong câu trả lời của người bạn: “Bà tôi sinh ra bố tôi cũng đẻ non trước hai tháng đấy!”, thì dĩ nhiên là nuôi được thì sau này mới sinh ra anh bạn này. Đây cũng chính là chỗ gây ra tiếng cười của truyện.
Câu 4:
a. Đôi khi người nói phải đùng những cách diễn đạt như: như tôi được biết tôi tin rằng ; nếu tôi không lầm thì ; tôi nghe nói ; theo tôi nghĩ ; hình như là …
Để đảm bảo tuân thủ phương châm hội thoại về chất. Người nói phải dùng những cách nói trên nhằm bào cho người nghe biết tính xác thực của nhận định hay thông tin mà mình đưa ra chưa được kiểm chứng.
b. Đôi khi người nói dùng: như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết. Những cách nói này nhằm để đảm bảo phương châm về lượng. Mục đích có thể để nhấn mạnh ý, hay chuyển ý, dẫn ý, người nói cần nhắc lại một nội dung nào đó đã nói hay giả định là mọi người đã biết.
Câu 5: Giải thích thành ngữ:
– Ăn đơm nói đặt: nói theo cách vu khống, đặt điều, bịa chuyện cho người khác
– Ăn ốc nói mò: nói không có căn cứ.
– Ăn không nói có: nói theo cách vu khống, bịa đặt.
– Cãi chày cãi cối: cố tranh cãi, nhưng không có lý lẽ thuyết phục, đúng đắn.
– Khua môi múa mép: nói ba hoa, khoác lác.
– Nói dơi nói chuột: nói lăng nhăng linh tinh, không xác thực.
– Hứa hươu hứa vượn: hứa hẹn lấy lòng nhưng không thực hiện.
Các thành ngữ trên đều chỉ những trường hợp vi phạm phương châm về chất. Phải tránh những cách nói, nội dung nói được chỉ ra trong các thành ngữ trên.
Có thể bạn thích: