Người phụ nữ là một đề tài được rất nhiều nhà nhân đạo khai thác. Đặc biệt, trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ luôn bị đè nén, chèn ép và xô đẩy vào những đoạn đời ngang trái. Họ ý thức được vẻ đẹp, giá trị của chính mình nhưng lại không có cách nào vượt thoát lên trên những quy định ngặt nghèo của lễ giáo. Không những thế, niềm mong ước lớn nhất là được hưởng trọn vẹn tình ái hạnh phúc cũng không thành. Họ bị chôn vùi trong cuộc hôn nhân không tình ái và rất nhiều bi kịch đã xảy ra, với “Chuyện người con gái Nam Xương” tác giả Nguyễn Dữ đã cho ta thấy điều đó. Hôm nay TopChuan sẽ giới thiệu đến bạn top các bài soạn Chuyện người con gái Nam Xương đầy đủ và chi tiết nhất. Mời các bạn tham khảo top các bài soạn dưới đây.
Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) – Bài soạn 4
Hướng dẫn soạn bài chuyện người con gái Nam Xương gồm loại gợi ý trả lời các câu hỏi trang 51 và 52 sách giáo khoa ngữ văn 9 tập 1.
Đọc – Hiểu văn bản:
1 – Trang 51 SGK: Tìm bố cục của truyện.
Trả lời:
Bố cục của chuyện người con gái Nam Xương gồm 3 đoạn:
• Đoạn 1 (từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa chồng.
• Đoạn 2 (“Qua năm sau… nhưng việc trót đã qua rồi”): Nỗi oan khuất và cái chết bi thương của Vũ Nương.
• Đoạn 3 (phần còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.
2 – Trang 51 SGK: Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Ở từng hoàn cảnh, Vũ Nương bộc lộ những đức tính gì?
Trả lời:
Tác giả đã đặt nhân vật Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh khác nhau với từng hoàn cảnh, tác giả lại sử dụng những lời lẽ đẹp đẽ để thể hiện tính cách đáng yêu, đáng quý trong cách cư xử của nàng.
- Cảnh 1: Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: Nàng đã xử sự như thế nào trước tính hay ghen của Trường Sinh? (“Giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”).
- Cảnh 2: Khi tiễn chồng đi lính: Lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương: không trông mong vinh hiển, chỉ cầu cho chồng bình an trở về, cảm thông những nỗi vất vả, gian lao của chồng, nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình.
- Cảnh 3: Khi xa chồng: Vũ Nương là người thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi bi thương nhớ cứ dài theo năm tháng. Nàng còn là mẹ hiền, dâu thảo, 1 mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tình chăm sóc mẹ già những lúc yếu đau, lo thuốc thang, cầu khấn thần phật, và lúc nào cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Trong lời trăn trối của bà mẹ chồng, thể hiện sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng. “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”.
- Cảnh 4: Khi bị chồng nghi oan: Ở đây có ba lời thoại của Vũ Nương:
- Lời thoại 1: Phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Vũ Nương nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghị oan. Qua đó ta thấy nàng đã hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
- Lời thoại 2: Nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối xử bất công, bị “mắng nhiếc,.. và đánh đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình (“thú vui nghị gia nghi thất”), niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình ái không còn (“bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió…”), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hoá đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa (đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”).
- Lời thoại 3: Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn được, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông quê hương để giải tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than răng…”. Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính. Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí, không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.
Sau khi phân tích qua cả bốn tình huống, ta thấy Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
3 – Trang 51 SGK: Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
Trả lời:
Trương Sinh trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”, dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Cái chết đó khác nào bị bức tử, mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can.Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những không được bênh vực, chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.
Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương còn bao oan tình uất hận mà những người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương.
4 – Trang 51 SGK: Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện?
Trả lời:
– Tác giả khéo sắp xếp, thêm bớt hoặc tô đậm các tình tiết để câu chuyện hấp dẫn và sinh động hơn. Thí dụ thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương, cuộc hôn nhân trở nên có tính chất mua bán, lời trắng trối của bà mẹ chồng, những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động bình tĩnh, quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết… Lời nói của đứa trẻ, được đưa ra dần dần và thông tin ngày một gay cấn, Truyện trở nên kịch tính hơn, gợi cảm, xúc động hơn.
– Những đoạn đối thoại và những lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (lời nói của bà mẹ Trương Sinh; lời của Vũ Nương chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có tình, có lí, là lời của một người phụ nữ hiền thục, nết na, trong trắng, lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà…)
• Thắt nút truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền. “Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán thiếu trí tuệ, bão tố bất hoà hung tàn dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm, bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một con người trong trắng, phải kết thúc bi thương trên dòng sông”
(Theo Nguyễn Lộc và Đỗ Quang Lưu).
• Gỡ nút cũng bất ngờ bằng một câu nói của trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “Cha Đản lại đến kia kìa!”), bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
5 – Trang 51 SGK: Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
Những yếu tố kì ảo: Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa, Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yển và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế, hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trường Sinh lập đàn tràng giải oan cho vợ ở bến Hoàng Giang lung linh, huyền ảo với “kiệu hoa … cờ tán, võng lọng rực rỡ… lúc ẩn, lúc hiện”, rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.
– Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:
+ Làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan, nhưng tính bi kịch của tác phẩm có vì thế mà bị giảm đi không? Tình tiết kì ảo ở cuối truyện: Vũ Nương trở lại dương thế, rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng ở giữa dòng sông, lúc ấn, lúc hiện, với lời từ tạ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về dương gian được nữa”, rồi “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.
+ Tất cả chỉ là ảo ảnh, là một chút an ủi cho người bạc phận, hạnh phúc thật sự đâu còn có thể làm lại được nữa. Và chàng Trương vẫn phải trả giá cho hành động “phũ phàng của mình.
+ Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở chi tiết kì ảo này và khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thương của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) – Bài soạn 2
1.Tóm tắt đoạn trích:
Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) đẹp người đẹp nết, được Trương Sinh thất học, hay ghen cưới về làm vợ. Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ chồng chu đáo và nuôi con thơ. Khi mẹ chồng mất cũng lo ma chay chu tất. Khi Trương Sinh trở về, hay tin mẹ mất mà đau buồn. Con trẻ không biết không nhận cha, Trương Sinh đâm ghen tuông ngờ vực sự thủy chung của Vũ Nương. Vũ Nương chứng tỏ sự trong sạch của mình nên nhảy sông tự vẫn.
Phan Lang do cứu được Linh Phi nên được báo đáp. Sau đó gặp được Vũ Nương, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ nhưng Vũ Nương không còn trở lại dương gian vì xã hội phong kiến quá hà khắc.
2. Hướng dẫn soạn bài:
Câu 1 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu … chịu khắp mọi người phỉ nhổ) : nỗi oan và cái chết của Vũ Nương.
– Phần 2 (còn lại) : Vũ Nương ở thủy cung và nỗi oan được giải.
Câu 2 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Nhân vật Vũ Nương trong từng hoàn cảnh:
– Trước khi lấy Trương Sinh : tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.
– Khi về nhà chồng : người vợ thảo hiền, nết na.
– Khi chồng đi lính : con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, người vợ thủy chung.
– Khi bị nghi oan : nàng phân tỏ lòng mình mà không có kết quả, đã tự trẫm mình xuống sông để bảo toàn danh dự.
→ Vũ Nương là người phụ nữ hiền thục, người vợ thủy chung, yêu thương chồng con, là người con dâu hiếu thảo, là người phụ nữ coi trọng phẩm hạnh, danh dự.
Câu 3 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất vì:
– Nguyên nhân trực tiếp: Do Trương Sinh nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, sinh nghi ngờ, ghen tuông.
– Nguyên nhân sâu xa:
+ Chế độ nam quyền, lễ giáo phong kiến.
+ Cuộc chiến tranh phi nghĩa gây chia ly.
→ Thân phận người phụ nữ bị xem nhẹ, khuất sau bóng người đàn ông.
Câu 4 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Truyện dẫn dắt theo trình tự thời gian, các tình tiết được đan cài khéo léo, hé mở đầu truyện lại là nút thắt đẩy lên cao trào truyện (vì Trương Sinh thất học, tính hay ghen nên mới dễ dàng tin lời con trẻ và nghi oan vợ). Giọng văn trần thuật mang tính khách quan, cộng với lời văn đối thoại đầy tính bất ngờ đã khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật thật sâu sắc, đưa truyện đến kịch tính.
Câu 5 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Yếu tố kì ảo trong truyện:
+ Chuyện nằm mộng của Phan Lang, Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa.
+ Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.
– Yếu tố kì ảo tạo ra thế giới huyền ảo hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng. Thể hiện tấm lòng nhân đạo, đó là ước mơ về một thế giới công bằng của nhân dân.
Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) – Bài soạn 1
Soạn bài: Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục)
Tóm tắt: Chuyện người con gái Nam Xương
Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu đến “như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc sống của Vũ Nương khi được gả về nhà Trương Sinh cho đến trước khi Trương Sinh trở về.
– Phần 2 (tiếp theo đến “nhưng việc trót đã qua rồi”): Số phận oan khuất của Vũ Nương.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Vũ Nương được giải oan.
Hướng dẫn soạn bài:
Câu 1. Bố cục của truyện:
– Đoạn 1: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh, phẩm hạnh của Vũ Nương trong thời gian xa cách (từ đầu đến “cha mẹ đẻ mình”).
– Đoạn 2: Nỗi oan khuất và cái chết bi thương của Vũ Nương (Qua năm sau… trót đã qua rồi.
– Đoạn 3: Vũ Nương được giải oang (còn lại.
Câu 2. Để khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, tác giả đã đặt nhân vật này vào những hoàn cảnh khác nhau để miêu tả:
– Trước hết, tác giả đặt nhân vật vào mối quan hệ vợ chồng trong cuộc sống hằng ngày, nàng không để xảy ra mối bất hòa.
– Tiếp đến, tác giả đặt Vũ Nương vào trong tình huống chia li: khi tiễn chồng đi lính, nàng bày tỏ sự thương nhớ, và chỉ mong chồng bình yên trở về.
– Khi vắng chồng, Vũ Nương là một người vợ thuỷ chung, một người mẹ hiền, dâu thảo, ân cần, hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau. Khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”
– Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, nhưng không có kết quả. Lúc bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đành mượn dòng nước sông quê để giãi tỏ tấm lòng trong trắng. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự.
Tóm lại, qua các hoàn cảnh, nhân vật Vũ Nương hiện lên là một người phụ nữ hiền thục, một người vợ thuỷ chung, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì cha mẹ, gia đình, đồng thời cũng là người phụ nữ coi trọng danh dự, phẩm hạnh, quyết bảo vệ sự trong sạch của mình.
Câu 3. Nỗi oan khuất của Vũ Nương do nhiều nguyên nhân đưa đến:
– Nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh mình.
– Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …
Câu 4. Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện tạo kịch tính, lôi cuốn.
Từ những chi tiết hé mở, chuẩn bị thắt nút đến khi nút thắt
ngày một chặt hơn đã tạo cho truyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Những đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện kể trở nên sinh động, góp phần khắc họa tâm lý nhân vật, tính cách nhân vật (lời nói của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, có tình có lý, lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà…).
Câu 5. Những yếu tố truyền kỳ trong truyện là:
Chuyện nằm mộng của Phan Lang, Chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi,… chuyện lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”.
Nguyễn Dữ đã sử dụng cách đưa yếu tố truyền kì vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực để tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện. Tác giả muốn tạo cơ sở để minh oan cho Vũ Nương, khẳng định lòng trong trắng của nàng. Đồng thời tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái.
Luyện tập:
Câu hỏi (trang 52 SGK): Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em. (học sinh tham khảo cách kể ở phần Tóm tắt)
Ý nghĩa – Giá trị:
– Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, học sinh thấu hiểu, đồng cảm với số phận bất hạnh, bé nhỏ của người phụ nữ Việt Nam dưới xã hội phong kiến hà khắc, đồng thời biết trân trọng, khẳng định vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của họ.
– Học sinh phân tích được nghệ thuật tự sự mà tác giả đã sử dụng như: nghệ thuật xây dựng cốt truyện, miêu tả nhân vật, bút pháp tự sự kết hợp hài hòa với trữ tình.
Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) – Bài soạn 3
Tóm tắt:
Vũ Thị Thiết là người con gái xinh đẹp nết na, tư dung tốt đẹp. Nàng lấy Trương Sinh làm chồng. Hạnh phúc không bao lâu thì chàng bị bắt đi linh. Chồng vừa đi đầy tuần thì nàng sinh con. Bà mẹ vì nhớ con mà dần sinh ốm rồi chết. Vũ Nương chăm sóc và lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Năm sau Trương Sinh trở về, nghi ngờ đức hạnh của vợ vì câu nói ngây thơ của đứa con. Vũ Nương gieo mình xuống sông để tỏ lòng. Vũ Nương được Linh Phi cứu giúp cho ở lại cung điện dưới nước. Một hôm, chàng ngồi bên đèn dầu, đứa con chỉ vào cái bóng trên tường nhận làm cha. Trương Sinh mới nhận ra mình đã nghi oan cho vợ.
Phan Lang là người cùng làng do một lần cứu giúp Linh Phi được Linh Phi báo ân. Phan Lang gặp Vũ Nương dưới cung điện. Vũ Nương nói rõ sự tình cho Phan Lang nghe. Phan Lang về kể lại sự tình cho Trương Sinh biết. Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương. Vũ Nương được giải oan nhưng không trở về nhân gian.
Soạn bài:
Câu 1 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Bố cục:
– Phần 1: Từ đầu … cha mẹ đẻ mình: Cuộc sống của Vũ Nương khi lấy Trương Sinh
– Phần 2: Qua năm sau … trót đã qua rồi: Câu chuyện oan khuất của Vũ Nương
– Phần 3: Còn lại: Vũ Nương được giải oan.
Câu 2 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Nhân vật Vũ Nương được miêu tả qua những hoàn cảnh:
– Khi lấy Trương Sinh: nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa → Người phụ nữ tư dung tốt đẹp
– Khi chồng đi lính: Hết lòng chăm lo cho mẹ chống lúc ốm đau, nuôi dạy con thơ nên người. Lo việc ma chay chu đáo như đối với cha mẹ mình → Người phụ nữ đảm đang, chịu khó, đức hạnh
– Khi bị chồng vu oan: Quyết gieo mình xuống sông để tỏ tấm lòng đức hạnh của mình → Người phụ nữ gan dạ, chung thủy, coi trọng danh dự, phẩm hạnh
Câu 3 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất vì đứa con không nhận cha đẻ của mình mà nhận người khác làm cha mình. Chồng không tin tương lại thêm tính đa nghi, hay ghen tuông.
– Số phận của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến thật nhỏ nhoi, bấp bênh, bất hạnh. Họ không được coi trọng, bảo vệ mà luôn phải chịu sự bất công.
Câu 4 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Cách dẫn dắt tình huống truyện rất logic, tự nhiên, lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Những đoạn đối thoại của nhân vật được đặt rất đúng chỗ. Đặc biệt trong nhữn lời đối thoại có sử dụng những điển tích, điển cố làm tăng tính chất li kì của câu chuyện. Những nút thắt trong truyện để đẩy câu chuyện lên cao trào cũng hợp lí. Kết thúc truyện để lại nhiều dư âm cho người đọc.
Câu 5 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Tác giả đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc nhằm làm tăng tính hấp dẫn, lí kì của truyện. Qua việc Vũ Nương được Linh Phi cứu giúp mới có ngày được giải oan, Nguyễn Dữ muốn thể hiện ước mơ về sự công bằng cho những người phụ nữ đức hạnh. Qua đó thể hiện tinh thần nhân văn của tác giả.
Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) – Bài soạn 5
Hướng dẫn soạn bài:
Câu 1. Tìm bố cục của truyện:
a. Đại ý:
Câu chuyện một người phụ nữ đức hạnh “đẹp nết, đẹp người” lẽ ra phải được hạnh phúc nhưng trái lại, bị oan khuất phũ phàng dành phải mượn làn nước bạc chứng minh cho sự trong trắng của mình.
b. Bố cục: Truyện có thể chia làm 3 đoạn:
– Đoạn 1: Từ đầu đến lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình” – Hoàn cảnh xa cách chồng vì chiến tranh của Vũ Nương và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
– Đoạn 2: “Qua năm sau… nhưng việc trót dã qua” – Nồi oan khuất về cái chết bi thương của người con gái Nam Xương.
– Đoạn 3: Phần còn lại: Ước mơ nghìn đời của nhân dân cái thiện luôn thắng cái ác.
Câu 2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Ở từng hoàn cảnh, Vũ Nương bộc lộ những đức tính gì?
Thông qua nhân vật Vũ Nương, độc giả thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính của truyện là Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương là một người phụ nữ tính tình “thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp” lấy phải chàng họ Trương con nhà hào phóng nhưng vô học lại có tính đa nghi.
Trong cuộc sống thường nhật, trước tính hay ghen của Trương Sinh, Vũ Nương giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa. Tình cảm thủy chung ấm cúng với chồng còn được thể hiện trong lời dặn dò đầy tình nghĩa của nàng lúc tiễn chồng đi lính: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi”… Những lời nói ân tình đằm thắm của Vũ Nương đà làm mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Khi xa chồng, Vũ Nương thủy chung bi thương nhớ dài theo năm tháng, nàng là mẹ hiền dâu thảo, 1 mình vừa dưỡng nuôi con nhỏ, vừa tận tâm chăm sóc mẹ chồng những khi đau yếu đã hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nàng hết sức thương xót khi mẹ chồng mất việc ma chay tế lẽ, lo liệu như đối với cha mẹ mình.
Khi bị chồng ngờ oan, Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã vui lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nhưng chồng vẫn không tin. Vũ Nương đau đớn thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối xử bất công bị “mắng nhiếc… và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng. Trước tình cảnh “bình rơi trâm gẫy”, “sen rủ liễu tàn”, cả nỗi dau chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn thể làm được nữa, Vũ Nương thất vọng đến tận cùng. Không còn cách nào khác, nàng đành phải mượn dòng nước con sông quê hương để giãi tỏ tấm lồng trong sáng của mình. Vũ Nương tắm gội chay sạch ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lèn trời than thở rồi gieo mình xuống sông mà chết. Lời than thở của nàng như thể một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tấm lòng tiết sạch gìá trong của mình.
Có thể nói những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương được tác giả khắc họa một cách cụ thể sinh động thông qua từng việc làm, lời cụ thể của nàng. Một người xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, hiếu thảo, thủy chung như thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Câu 3. Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
– Nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh mình.
– Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …
Câu 4. Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện?
a) Về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả:
Nguyễn Dữ đã lấy tích truyện từ cổ tích nhưng ông đã tái tạo để truyền kì của ông trở thành một sáng tác văn học đích thực.
Trước hết nhà văn dã chủ trọng đến khắc họa tâm lí nhân vật. Vũ Nương trong Truyền kì mạn lục của ông đẹp hơn, nhiều bi kịch hơn mà cũng sâu sắc hơn. Còn Vũ Nương trong truyện dân gian là người vợ nhạt tình, kém sâu sắc.
Nguyễn Dữ cũng đã sắp xếp lại và thêm bớt một số tình tiết: thêm chi tiết Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ, làm cho cuộc hôn nhân của hai người trở nên có tính chất mua bán. Trong tâm lí Vũ Nương vi thế có chút mặc cảm, tự thấy mình yếu thế: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Tác giả thêm chi tiết lời trăn trối của bà mẹ chồng để khẳng định nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với nhà chồng, rồi những lời phân trần giãi bày của nàng khi bị ngờ oan và nhất là hành động hết sức bình tĩnh và quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết, mượn nước quê rửa sạch nỗi oan khuất của mình. Thêm nữa là lời ngây thơ cùa đứa trẻ ngày một kích động tính ghen tuông của Trương Sinh, từng chi tiết làm cho nút thắt ngày một chặt hơn để cuối cùng sự thật phơi bày tỏ rõ sau khi Vũ Nương không còn nữa. Nhờ đó truyện của tác giả giàu kịch tính hơn, đặc biệt gợi cảm hơn.
b) Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại:
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có những đoạn đôi thoại và lời tự bạch của nhân vật được xếp đặt thật xác thực làm cho câu chuyện tăng thêm phần sinh động, góp phần đáng kể vào việc khắc họa tâm lí và tính cách của nhân vật. Qua lời thoại ta hiểu được đôi nét tâm lí và tính cách của nhân vật ấy. Chẳng hạn lời thoại của bà mẹ Trương Sinh cho thấy bà là một con người nhân hậu, nếm trải nhiều. Lời của Vũ Nương thi lúc nào cũng mềm mỏng, dịu dàng, thuần hậu, nết na, có lí, có tình.
Câu 5. Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Đó chính là đoạn kết có hậu mà tác giả đã thêm vào truyện dân gian. Những tình tiết kì ảo đó là: Phan Lang nằm mộng thấy mình thả cứu con rùa mai xanh; sau này Phan Lang chạy trốn giặc Minh lạc vào động rùa của Linh Phi, gặp lại con rùa do ông cứu sống khi xưa đãi tiệc. Trong buổi tiệc ây, Phan Lang được gặp Vũ Nương vốn người cùng làng (đã chết), rồi được sứ giả của Linh Phi đưa về dương thế. Và hình ảnh cuối cùng: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lộng rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện… Rồi trong chốc lát bỗng loáng thoáng mờ nhạt dần rồi biến đi mất”. Đây cũng chính là những chuyện huyền ảo kì lạ, không có thực nhưng tác giả đưa vào tạo ra một thế giới lung linh hấp dẫn.
Các yếu tố kì ảo vừa nói được nhà văn gắn với những sự kiện có thực và sử dụng những chi tiết thực để cấu tạo nên như các địa danh bến đò Hoàng Giang cửa round Chi Lăng. Như thời điểm lịch sử: Cuổi đời Khai Đại nhà Hồ, nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình), sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược, nhiều người chạy trốn ra bề, bị đắm thuyền). Như những chi tiết thực về trang phục lộng lẫy của các cô gái đẹp và trong đó nổi bật chỉ có một người “mặt chỉ hơi điểm qua chút phấn son”. Như nhà cửa vườn tược của Vũ Nương hoang rậm mồ mả cỏ gai rợp mắt. Nghệ thuật kết gắn những chi tiết có thực này với những chi tiết huyền ảo nhằm tăng độ tin cậy tạo cảm giác thực cho các tình tiết truyện.
Với những yếu tố truyền ki này, tác giả nhằm tạo nên một kết thúc có hâu. Ông muốn hoàn chỉnh thêm những nét đẹp của Vũ Nương. Tuy đã sang thế giới khác nhưng nàng vẫn không quên chồng con, phần mộ ông bà tổ tiên và nhất là vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Kết thúc có hậu cho tác phẩm như thế cũng là thể hiện ước mơ nghìn đời của nhân dân ta về sự công bằng ở đời. Nghĩa là người ngay, nguời tôt dù gặp hoạn nạn, oan khuất nhưng cuối cùng sẽ được đền đáp, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng. Tác giả sắp đặt cho Vũ Nương, con người chịu oan khuất từ cõi âm hiện về dương thế uy nghi rực rỡ nhưng cũng chỉ thấp thoáng lúc rõ lúc mờ, khi ẩn khi hiện nói lời từ tạ chồng thật ngậm ngùi: Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian dược nữa và rồi chỉ “trong chốc lát bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi biến mất”. Đó chỉ là niềm cảm thương của tác giả đối với bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến
Có thể bạn thích: