“Mùa lá rụng trong vườn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ma Văn Kháng được trao Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn 12, rút từ chương 2 của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Chủ đề của đoạn trích viết về một cái tết sum họp trong đó các nhân vật tỏa ra những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng như tình nghĩa, thủy chung, tình cảm truyền thống gia đình gắn bó,… Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau để cảm nhận rõ hơn điều đó.
Bài soạn “Mùa lá rụng trong vườn” số 6
I. Tác giả & tác phẩm
1. Tác giả
Ma văn Kháng tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936, quê gốc ở phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
Ông là người có nhiều đóng góp tích cực cho sự vận động và phát triển nhiều mặt của văn học nghệ thuật. Ông được tặng Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
2. Tác phẩm
Mùa lá rụng trong vườn. kể về câu chuyện của gia đình ông Bằng, một gia đình được coi là nề nếp, luôn giữ gìn gia pháp và gia phong, nay trở nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài. Nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
Tiểu thuyết được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
– Chị Hoài là một người phụ nữ đôn hậu, chất phác. Dù hiện tại chị đã có gia đình riêng, ít liên quan đến gia đình nhà ông Bằng nhưng chị Hoài vẫn luôn quan tâm đến từng người và gắn bó với những biến động của gia đình người chồng cũ.
– Chị Hoài xuất hiện vào thời điểm rất có ý nghĩa: chiều 30 tết – ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
→ Đây là thời điểm thiêng liêng nhất của tình cảm gia đình, đánh thức tình cảm thiêng liêng về gia tộc.
* Mọi người yêu quý và trân trọng chị bởi ở chị luôn toát lên những phẩm chất đáng quý: nhân hậu, tình nghĩa, thủy chung. Chị Hoài – hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, chính là sợi dây kết nối, xóa đi những khoảng cách vô hình mà xã hội với nền kinh tế thị trường, với sự tính toán vụ lợi làm phá vỡ những giá trị tốt đẹp, làm nguội lạnh quan hệ tình cảm thiêng liêng trong gia đình.
Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
Diễn biến tâm lí của nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên:
* Ông Bằng:
– “Nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên”.
– “Ông sững lại khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”.
– “Giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư con?”
→ Nỗi vui mừng, xúc động không giấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất quý mến.
* Chị Hoài:
– “Gần như không chủ động được mình lao về phía ông bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản… kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”.
– Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng “nấc” của ông.
→ Cảnh gặp gỡ vui mừng xen với những nối tiếc, đau buồn, lo lắng trước những cơn biến động của gia đình ông Bằng.
=> Sự có mặt của chị Hoài khiến nỗi cô đơn của ông Bằng được giải tỏa, như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh giữ gìn những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình.
Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
Khung cảnh ngày tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông bằng trước bàn thờ:
– Gợi nhớ về cội nguồn, về các giá trị truyền thống của dân tộc.
– Phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong quá khứ: “mỗi dân tộc không có quá khứ là một dân tộc bất hạnh.
Bài soạn “Mùa lá rụng trong vườn” số 3
1. Tác giả
– Ma Văn Kháng tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936, quê gốc ở phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
– Mười bốn tuổi, Ma Văn Kháng tham gia tổ chức thiếu sinh quân, rồi được cử đi học ở Khu học xá Việt Nam tại Trung Quốc.
– Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ông lên dạy học ở tỉnh Lào Cai và bắt đầu viết văn, lấy bút danh Ma Văn Kháng.
– Năm 1976 ông chuyển về công tác tại Hà Nội, làm Phó Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Lao động, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài,…
– Ma Văn Kháng được tặng Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
– Tác phẩm chính : Đồng bạc trắng hoa xoè (tiểu thuyết, 1979), Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983), Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985), Ngày đẹp trời (tập truyện ngắn, 1986), Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989). Trăng soi sân nhỏ (tập truyện ngắn, 1994), Một chiều dông gió (tập truyện ngắn, 1998)….
2. Tác phẩm
– Mùa lá rụng trong vườn là cuốn tiểu thuyết được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986.
– Chủ đề nội dung: Tác phẩm thể hiện sự quan sát và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, những đổi thay trong tư tưởng và tâm lý của con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình xóa bỏ dần mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường với những rạn vỡ tất yếu theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực trong quan niệm sống, cách sống và cách lựa chọn các giá trị. Chuyện xảy ra ngay trong chính gia đình ông Bằng, một gia đình được coi là nền nếp, luôn giữ gìn gia pháp và gia phong, nay trở nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài. Nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
– Văn bản đang học trích từ chương 2 của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn.
Hướng dẫn soạn bài
1 – Trang 88 SGK
Nhân vật chị Hoài trong tác phẩm để lại cho anh (chị) ấn tượng gì? Vì sao mọi người trong gia đình, với những tính cách khác nhau, nhưng tất cả đều yêu quý chị Hoài?
Trả lời:
– Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn: “người thon gọn… chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi”.
– Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử, quan hệ với mọi người. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, mọi người vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị. Bởi vậy “người phụ nữ tưởng đã cùng tham dự cuộc sống của gia đình này” (biết chuyện cô Phượng đã chuyển công tác, nhận được thư bố chồng cũ, “sợ ông buồn nên phải lên ngay”; chu đáo, xởi lởi chuẩn bị quà, hỏi thăm tất cả mọi người lớn, bé; sự thành tâm của chị trước bàn thờ gia tiên chiều 30 tết). Trong tiềm thức mỗi người “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”.
– Chị Hoài được mọi người yêu quý vì chị là mẫu người phụ nữ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống quý giá.
2 – Trang 88 SGK
Phân tích diễn biến tâm lí hai nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên. Sự xúc động sâu sắc của hai người có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Ông Bằng và chị Hoài là nhân vật cùng có nỗi lo lắng trước những biến động theo chiều hướng xấu của đại gia đình. Gặp lại nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: chiều 30 Tết – khi mọi cảm xúc của con người đều hướng về nguồn cội, về những giá trị truyền thống đẹp đẽ của gia đình. Chị Hoài – vốn là con dâu trưởng của gia đình, giờ đã có gia đình riêng, xa cách lâu ngày. Cảnh sum họp trước giờ cúng tất niên thực sự xúc động:
– Ông Bằng “nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên”, “ông sững lại khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật bật không thành tiếng, có cảm giác như ông sắp khóc oà”, “giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư, con?”, đó là nỗi vui mừng, xúc động không giấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất mực quý mến.
– Chị Hoài: “gần như không chủ động được mình, lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản… kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc: “Ông”!
Sự xúc động sâu sắc của hai người thể hiện tình cảm chân thành giữa những người trong gia đình. Nhưng quan trọng hơn, nó dự cảm về những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình mà giờ đây, trước bao tác động của thời cuộc, đang có nguy cơ bị băng hoại.
3 – Trang 88 SGK
Khung cảnh Tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ gợi cho anh (chị) cảm xúc và suy nghĩ gì về truyền thống văn hóa riêng của dân tộc ta?
Trả lời:
– Khung cảnh Tết, khói hương, mâm cỗ thịnh soạn “vào cái thời buổi đất nước còn nhiều khó khăn sau hơn ba mươi năm chiến tranh…” mọi người trong gia đình tề tựu, quây quần… Tất cả chuẩn bị chu đáo cho khoảnh khắc tri ân trước tổ tiên trong chiều 30 Tết.
– Ông Bằng “soát lại hàng khuy áo, chỉnh lại cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ”. “Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm giác thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhòa… Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn vẳng nghe đâu đây những lời giáo huấn…”.
– Những hình ảnh sống động gieo vào lòng người đọc niềm xúc động rưng rưng, để rồi “nhập vào dòng xúc động tri ân tổ tiên và những người đã khuất”.
– Bày tỏ lòng tri ân trước tổ tiên, trước những người đã mất trong lễ cúng tất niên – chiều 30 Tết, điều đó đã trở thành một nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng và tự hào của dân tộc ta. “Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết một mạch bền chặt thuỷ chung”. Dù cuộc sống hiện tại muôn sự đổi thay cùng sự thay đổi của những cách nghĩ cách sống, những quan niệm mới, nét đẹp truyền thống văn hóa ấy vẫn đang và rất cần được giữ gìn, trân trọng.
Bài soạn “Mùa lá rụng trong vườn” số 1
I. Tác giả
1. Tiểu sử
– Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, ông sinh năm 1936 tại Đống Đa – Hà Nội.
– Trong kháng chiến chống Mĩ, ông đến vùng cao miền Bắc để dạy học
– Năm 1976, ông chuyển về Hà Nội và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành báo chí, văn học nước nhà,…
2. Sự nghiệp văn học
a. Quan điểm sáng tác
“Tôi đặt nhiều sự quan tâm vào giai đoạn lịch sử, đưa ra những vấn đề mang tính sử thi. Tôi quan niệm không có sử thi thì không có nền văn học dân tộc. Văn học phải có những tác phẩm khắc họa bước đi lớn của đất nước.”
b. Tác phẩm chính
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: “Mùa lá rụng trong vườn”, “Hoa gạo đỏ”, “Đồng bạc trắng hoa xòe”, “Mưa mùa hạ”, “Chim én liệng trời cao”,….
c. Phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật: kết hợp giữa tính hiện thực và tính nhân văn, giữa triết lí và trữ tình; quan tâm đến vấn đề giá trị đạo đức giữa biến động lớn lao của thời cuộc.
II. Tác phẩm
1. Tóm tắt
Chị Hoài từng là dâu trưởng, vợ anh cả Tường liệt sĩ, trong nhà ông giáo Bằng. Sau đó chị đã có gia đình mới và sinh sống ở quê nhưng cả gia đình ông Bằng vẫn rất yêu quý chị. Nhận được thư ông Bằng kể về truyện Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, chị thu xếp lên với nhà chồng cũ vào chiều 30 Tết. Thấy chị, những người em chồng đều mừng rỡ, tay bắt mặt mừng. Chị ân cần hỏi han từng người và đem quà quê biếu gia đình. Ông Bằng đang chuẩn bị cúng bữa cơm tất niên. Cả ông Bằng và chị Hoài đều rưng rưng xúc động, không ngăn được dòng nước mắt. Sau những lời hỏi thăm ân cần, ông Bằng chắp tay thành kính cúng tổ tiên. Dòng tâm tư và lời khấn vái của ông bày tỏ tấm lòng tri ân với tiên tổ, kết nối quá khứ với hiện tại. Ông Bằng vừa cúng xong, Hoài liền thế chân ông cụ bái lạy tiên tổ. Sau lễ cúng, mọi người hân hoan ngồi vào mâm cơm chiều 30 Tết, một mâm cơm sung túc, đủ đầy với đủ các món ăn truyền thống và thêm cả những món cầu kì do cô Lí chuẩn bị.
2. Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu đến bệnh đấy chị ơi): chị Hoài và sự trở về trong ngày ba mươi Tết
– Phần 2 (tiếp đến phải đi): ông Bằng khi gặp lại người con dâu
– Phần 3 (còn lại): mọi người trong gia đình ông Bằng với lễ cúng tất niên
3. Giá trị nội dung
Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôn giữ gia pháp nay trở nên chao đảo trong những cơn địa chấn từ bên ngoài, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
4. Giá trị nghệ thuật
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, hấp dẫn
– Nghệ thuật dẫn truyện tự nhiên
– Nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình
– Nghệ thuật dựng cảnh chân thực, tinh tế.
Câu 1 (trang 88 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn:
+ Người thon gọn chiếc áo lông trần hạt lựu
+ Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi
– Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử đến quan hệ với mọi người
+ Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, chị đã có một gia đình riêng nhưng mọi thứ vấn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị
+ Người phụ nữ trưởng thành, để lại dấu ấn với mọi người trong gia đình
+ Nhân vật chị Hoài là mẫu phụ nữ đẹp truyền thống, giữ được nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người qua “cơn địa chấn” xã hội
Câu 2 (trang 88 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tâm trạng của các nhân vật ông Bằng, chị Hoài:
– Tâm trạng xúc động mạnh mẽ:
+ Ông Bằng khi nhìn thấy Hoài, “môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác như ông sắp khóc òa”
+ Nỗi vui mừng, xúc động dâng trào khi ông được gặp lại người con dâu trưởng mà ông quý mến
+ Chị Hoài: gần như không chủ động được lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản…, chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “ông”
→ Sự xúc động của hai người thể hiện chân thành trong gia đình, dự cảm những điều tốt đẹp trong truyền thống gia đình
– Trước sự có mặt của chị Hoài, ông Bằng như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh âm thầm giành những điều tốt đẹp cho truyền thống gia đình giờ đây trước bao tác động của cuộc đời, có nguy cơ bị băng hoại
Câu 3 (trang 88 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Khung cảnh ngày Tết:
+ Khói hương, mâm cỗ thịnh soạn trong thời buổi đất nước còn nhiều khó khăn sau ba mươi năm chiến tranh
+ Mọi người trong gia đình tề tựu, quây quần
+ Tất cả chuẩn bị chu đáo trong khoảnh khắc tri ân trước tổ tiên trong chiều 30 Tết
– Hình ảnh gieo vào lòng người niềm xúc động rưng rưng, để “nhập vào dòng xúc động tri ân tổ tiên”
– Bày tỏ lòng tri ân trước tổ tiên, trong lễ cũng tất niên, trở thành truyền thống trân trọng, tự hào của dân tộc ta
– Dù cuộc sống hiện đại vẫn cần gìn giữ giá trị truyền thống tốt đẹp trong quá khứ.
Bài soạn “Mùa lá rụng trong vườn” số 2
Câu 1 (trang 88 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Ấn tượng về nhân vật chị Hoài:
• Người phụ nữ nông dân giản dị, đôn hậu: vẻ ngoài mộc mạc (trạc năm mươi, cặp mắt đằm thắm, cái miệng tươi, gót chân nứt nẻ), thái độ xởi lởi vui vẻ, lời nói tình cảm, ấm áp (hỏi han hết mọi người, chân thật kể chuyện mình),…
• Người phụ nữ có quá khứ đáng trân trọng và khâm phục, để lại tình cảm và sự tin yêu sâu sắc trong các nhân vật: chị trước là dâu trưởng, vợ anh Tường liệt sĩ, đẹp người đẹp nết, thùy mị nết na.
• Người phụ nữ giàu tình nghĩa, thủy chung son sắt: đã lập gia đình mới nhưng vẫn luôn quan tâm đến gia đình chồng cũ, vẫn chia sẻ buồn vui và ứng xử như dâu con trong nhà (thăm hỏi các em, thư từ với ông Bằng, thu xếp việc nhà về an ủi ông Bằng, mang một làn nặng quà cho mọi người…).
• Người phụ nữ bản lĩnh, đảm đang, biết vượt lên số phận: xây dựng gia đình mới, chăm chỉ làm ăn, làm chủ nhiệm hợp tác xã đan dệt thảm ngô…
– Mọi người trong gia đình dù khác nhau tính cách nhưng đều yêu quý chị Hoài vì chị từng là dâu trưởng thùy mị nết na, đẹp người đẹp nết trong gia đình trong quá khứ và vì chị đã có gia đình mới nhưng vẫn hết lòng quan tâm và chia sẻ vui buồn với gia đình ông Bằng như con cái trong nhà. Chị Hoài – hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, chính là sợi dây kết nối, xóa đi những khoảng cách vô hình mà xã hội với nền kinh tế thị trường, với sự tính toán vụ lợi làm phá vỡ những giá trị tốt đẹp, làm nguội lạnh quan hệ tình cảm thiêng liêng trong gia đình.
Câu 2 (trang 88 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Diễn biến tâm lí của ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên:
+ Tâm lí của ông Bằng:
• Chuẩn bị tâm thế chỉn chu để cúng 30 tết: “cố đi cho ngay ngắn”, phong thái “trang trọng, chỉnh tề hơn”; gương mặt “ánh lên cái cảm xúc…hai bên cằm”.
• Bất ngờ và xúc động khi gặp lại chị Hoài: “sững lại”, “mắt ông chớp liên hồi…ông sắp khóc òa”, giọng rè rè, khàn đặc.
• Yêu quý con dâu như ngày nào: ân cần hỏi han con dâu.
+ Tâm lí của chị Hoài:
• Xúc động sâu sắc khi gặp lại ông Bằng: “không chủ động được mình”, “lao về phía ông Bằng…hai hàng gạch hoa”, thốt lên tiếng chào như tiếng nấc.
• Mừng rỡ, bồi hồi kể cho ông nghe về gia đình hiện tại của mình.
=> Sự xúc động sâu sắc của hai người cho thấy tình cảm gia đình sâu nặng giữa họ vẫn như xưa. Họ vẫn luôn quan tâm, chia sẻ những vui buồn và lo lắng cho gia đình này như trước. Đó là tấm lòng của những người có ý nghĩa như trụ cột nâng đỡ ngôi nhà. Tình cảm tốt đẹp, bền chặt và lối ứng xử đẹp chính là giá trị thiêng liêng và cao quý trong gia đình.
Câu 3 (trang 88 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Lời khấn, dòng tâm tư của ông Bằng và khung cảnh Tết gợi nhiều cảm xúc và suy nghĩ về truyền thống văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta:
+ Tưởng nhớ và tri ân một cách thành kính, thiêng liêng đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân đã mất trong dịp đầu xuân năm mới. Phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc.
+ Quá khứ và hiện tại liền mạch, tổ tiên và con cháu không tách rời, đó là dòng chảy tốt đẹp của truyền thống gia đình.
+ Đó là giây phút mỗi cá nhân lắng lại và nhìn lại mình trong một năm đã qua để rồi cầu nguyện những điều tốt đẹp cho năm mới.
+ Khung cảnh mâm cơm ngày Tết sung túc, đủ đầy, chuẩn bị kĩ lưỡng cho thấy người Việt rất đỗi coi trọng sự sum họp đoàn viên, coi trọng nếp nhà, coi trọng gia đình.
Tóm tắt
Chị Hoài từng là dâu trưởng, vợ anh cả Tường liệt sĩ, trong nhà ông giáo Bằng. Sau đó chị đã có gia đình mới và sinh sống ở quê nhưng cả gia đình ông Bằng vẫn rất yêu quý chị. Nhận được thư ông Bằng kể về truyện Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, chị thu xếp lên với nhà chồng cũ vào chiều 30 Tết. Thấy chị, những người em chồng đều mừng rỡ, tay bắt mặt mừng. Chị ân cần hỏi han từng người và đem quà quê biếu gia đình. Ông Bằng đang chuẩn bị cúng bữa cơm tất niên. Cả ông Bằng và chị Hoài đều rưng rưng xúc động, không ngăn được dòng nước mắt. Sau những lời hỏi thăm ân cần, ông Bằng chắp tay thành kính cúng tổ tiên. Dòng tâm tư và lời khấn vái của ông bày tỏ tấm lòng tri ân với tiên tổ, kết nối quá khứ với hiện tại. Ông Bằng vừa cúng xong, Hoài liền thế chân ông cụ bái lạy tiên tổ. Sau lễ cúng, mọi người hân hoan ngồi vào mâm cơm chiều 30 Tết, một mâm cơm sung túc, đủ đầy với đủ các món ăn truyền thống và thêm cả những món cầu kì do cô Lí chuẩn bị.
Bố cục
Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến Còn em…bệnh đấy chị ơi): chị Hoài và sự trở về trong ngày ba mươi Tết
– Phần 2 (tiếp đến lần này rỗi rãi nó phải đi): ông Bằng khi gặp lại người con dâu
– Phần 3 (còn lại): mọi người trong gia đình ông Bằng với lễ cúng tất niên
Nội dung chính
Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôn giữ gia pháp nay trở nên chao đảo trong những cơn địa chấn từ bên ngoài, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
Bài soạn “Mùa lá rụng trong vườn” số 5
1. Tác giả
– Ma Văn Kháng, tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936, quê gốc ở phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội, là người có nhiều đóng góp tích cực cho sự vận động và phát triển nhiều mặt của văn học nghệ thuật. Ông được tặng giải thưởng văn học ASEAN năm 1998 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
2. Tác phẩm
– Tiểu thuyết được tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nền nếp, luôn giữ gia pháp nay trở nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc .
Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
– Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn: “người thon gọn trong cái ông lông trần hạt lựu… cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi”.
– Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử chuẩn mực, quan hệ với mọi người.
– Chị Hoài xuất hiện vào thời điểm rất có ý nghĩa: chiều 30 tết – ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
→ Đây là thời điểm thiêng liêng nhất của tình cảm gia đình, đánh thức tình cảm thiêng liêng về gia tộc.
⇒ Nhân vật chị Hoài là mẫu người phụ nữ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống quí giá trước những “cơn địa chấn” xã hội.
– Mọi người yêu quý và trân trọng chị bởi ở chị luôn toát lên những phẩm chất đáng quý: nhân hậu, tình nghĩa, thủy chung. Chị Hoài – hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, chính là sợi dây kết nối, xóa đi những khoảng cách vô hình mà xã hội với nền kinh tế thị trường, với sự tính toán vụ lợi làm phá vỡ những giá trị tốt đẹp, làm nguội lạnh quan hệ tình cảm thiêng liêng trong gia đình.
Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Diễn biến tâm lí của nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên:
1. Ông Bằng
– “Nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên”
– “Ông sững lại khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”.
– “Giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư con?”
→ Nỗi vui mừng, xúc động không giấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất quý mến.
2. Chị Hoài
– “Gần như không chủ động được mình lao về phía ông bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản… kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”
– Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng “nấc” của ông.
⇒ Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương đau buồn, ê nhức cả tim gan. ⇒ Sự có mặt của chị Hoài khiến nỗi cô đơn của ông Bằng được giải tỏa, như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh giữ gìn những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình.
Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Khung cảnh ngày tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông bằng trước bàn thờ:
– Gợi nhớ về cội nguồn, về các giá trị truyền thống của dân tộc.
– Bày tỏ lòng tri ân trước tổ tiên, trước những người đã mất trong lễ cúng tất niên
– Phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong quá khứ: “mỗi dân tộc không có quá khứ là một dân tộc bất hạnh”.
⇒ một nét văn hóa truyền thống đáng trân trọng và tự hào của dân tộc ta. “Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết một mạch bền chặt thủy chung”
Có thể bạn thích: