Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc. Thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” in trong tập “Khối tình con I” xuất bản năm 1917 là sự sáng tạo, mới mẻ với hình thức thất ngôn bát cú đường luật cổ điển, giọng thơ hóm hỉnh, pha một chút ngông. Qua đó, tác phẩm thể hiện tâm sự của con người bất hòa sâu sắc với thực tại, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng, bầu bạn với chị Hằng để thoát khỏi những thứ tầm thường ấy. Mời bạn đọc tham khảo 1 số ít bài soạn hay nhất mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau đây để hiểu tác phẩm và chuẩn bị tốt nhất nội dung lên lớp.
Bài soạn “Muốn làm thằng cuội” số 6
I. Đôi nét về tác giả Tản Đà
– Tản Đà (1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu
– Quê quán: làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây( nay là huyện Ba Vì, Hà Nội)
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Tản Đà xuất thân là một nhà nho
+ Vì mấy lần đi thi không đỗ nên ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ rồi sớm nổi tiếng, nhất là những năm 20 của thế kỉ XX.
+ Ngoài viết thơ Tản Đà còn nổi tiếng với nhiều bài văn xuôi, tản văn, tùy bút, tự truyện…
+ Những tác phẩm tiêu biểu: Giấc mộng con, Thề non nước, Khối tình con…
– Phong cách sáng tác:
+ Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc, thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam
II. Đôi nét về bài thơ Muốn làm thằng Cuội
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ Muốn làm thăng Cuội in trong tập “Khối tình con I”(xuất bản năm 1917)
2. Bố cục
– Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng có những mới mẻ và sáng tạo riêng
3. Giá trị nội dung
– Bài thơ chính là tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng để thoát khỏi những thứ tầm thường ấy
4. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ có nhiều sáng tạo, mới mẻ trong hình thức với thể thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Giọng thơ hóm hỉnh, phóng túng pha một chút ngông. Ngôn ngữ thơ bình dị, trong sáng mà tự nhiên có sử dụng nhiều khẩu ngữ
III. Đọc hiểu
Câu 1: – Nhà thơ muốn làm thằng Cuội, lên chơi cung trăng cùng với chị Hằng là vì ông buồn, chán cuộc sống nơi trần thế, thích làm bạn cùng gió, cùng mây. “Đêm thu bi tráng lắm chị Hằng ơi ! Trần thế em đây chán nửa rồi”.
– Nhà thơ nói chuyện muốn lên chơi trăng, nhưng thực ra ông muốn giãi bày tâm sự của mình:
+ Cái buồn, chán ở đây là có thực trong tâm trạng của Tản Đà.
+ Khi đó cuộc sống có nhiều điều đáng bi tráng chán, nhất là đối với một tâm hồn thi sĩ như ông.
+ Đất nước không có chủ quyền, những kẻ hãnh tiến thi nhau ganh đua, bon chen mà quên đi nỗi nhục mất nước.
+ Mặt khác, ông bi tráng vì mình là người tài hoa nhưng số phận nhiều rủi ro, lận đận trong đường đời.
+ Vì không đủ sức để thay đổi hiện thực bi kịch ấy nên ông muốn thoát ra khỏi nó, muốn làm thằng Cuội lên chơi trăng.
Câu 2: Tản Đà với cá tính sống mà dường như nằm giữa cõi mộng và cõi thực, giữa cái tỉnh và cái điên, không giống như một ai như thế. Từ lâu, ông đã được mệnh danh là một hồn thơ “ngông”, vua ngông.
Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra bi tráng chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, mờ ám như thế. Cách lên trời cùng chị Hằng của Tản Đà cũng rất “ngông”: chị Hằng ghì cành đa xuống, Tản Đà bám theo đó mà lên. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị thể hiện sự tự tin của tác giả. Nếu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ bi tráng mà chị cũng bớt cô đơn.
Câu 3: Cái “ngông” của Tản Đà trong bài thơ này tập trung chủ yếu ở hai câu cuối:
“Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
Ở đây, cái “cười” đầu tiên là vì ông đã rất vui, thỏa mãn ước mơi, đồng thời ông tự cho mình là người ở vị trí cao hơn tất cả, còn cuộc sống nơi trần thế chỉ là trần tục, thấp hèn, đáng cười. Ông cười tất cả.
Câu 4: – Bài thơ Muốn làm thằng cuội là bài thơ độc đáo, thú vị, giọng thơ nhẹ nhành, thanh thoát, chơi vơi.
– Trí tưởng tượng lại phong phú, kì diệu. Chất mộng ảo, chất ngông thấm đẫm bài thơ.
– Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ chính là sự tưởng tượng bay bổng của một tâm hồn thi sĩ lãng mạn. Lời thơ giản dị, tự nhiên; giọng điệu khu than thở, khi thăm dò, khi cầu xin, khi đắc ý làm cho bài thơ vui, linh hoạt. Mạc dù vẫn tuân theo luật thơ Đường, nhưng đã chứa đứng một sự phóng túng thoải mái.
IV. Luyện tập
Câu 1: Trong thơ Đường, các cặp câu 3 – 4 và 5 – 6 bắt buộc phải đối nhau.
Câu 3 – 4 : đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ.
Câu 5 – 6: đối về ý là chính.
Câu 2: – Ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy giàu nhạc điệu, tạo nên vẻ đài các, trang nhà rất chuẩn của thơ Đường. Nghệ thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên lòng ta có một cảm giác bâng khuâng, một nỗi bi tráng man mác. Nhà thơ đã sử dụng thành thạo các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh và cách chơi chữ đồng âm trong thơ.
– Ơ bài thơ Muốn làm thằng Cuội ta thấy giai điệu thật nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chú tình tứ hóm hỉnh, có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. Lời thơ giản dị, trong sáng, gần với những lời nói thường ngày. Vần luật vẫn chặt chẽ nhưng không còn là thứ trói buộc hồn thi sĩ, tâm sự cứ tự nhiên tuôn chảy như không hề câu nệ một khuôn sáo nào. Sức hấp dẫn bài thơ chính là ở đó.
Vẫn số câu, số chữ ấy, ý tứ vẫn hàm súc, chất chứa tâm trạng, nhưng nó không mực thước, trang trọng, đăng đối như bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài soạn “Muốn làm thằng cuội” số 4
I. Đọc – Hiểu văn bản
Câu 1 trang 156 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
Hai câu thơ đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, vì sao Tản Đà có tâm trạng chán trần thế?
Tản Đà có tâm trạng chán trần thế vì xã hội ông sống là xã hội thực dân phong kiến “gió gió mưa mưa”, bản thân ông cô đơn, bế tắc, long đong. Vốn là người lãng mạn, phóng túng, Tản Đà không bằng lòng với cuộc sống đo. Ông cảm thấy buồn, chán. Ông tâm sự với chị Hằng : đêm thu bi tráng lắm. Và trần thế cũng không có bao nhiêu hấp dẫn : Trần thế em nay chán nửa rồi.
Câu 2 trang 156 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
Nhiều người nhận xét 1 cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu ‘ngông” nghĩa là gì (bộc lộ một thái độ như thế nào đối với cuộc sống) ? Hãy phân tích cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội (chú ý các câu 3 – 4, 5 – 6).
“Ngông” có nghĩa là làm những việc không bình thường, vượt trội lên so với bình thường. Ngông cũng có nghĩa là chơi trội, gây cho người ta phải chú ý bởi các việc làm độc đáo mà người bình thường không dám hoặc không làm được. Cái ngông thể hiện trong bài thơ này là muốn đi ra khỏi trái đất để lên cung trăng ở chơi với chị Hằng. Hơn thế nữa, nhà thơ lại xưng hô suồng sã với chị Hằng, muốn chị coi mình như là chú Cuội, như một người bầu bạn Cách lên trời, lên trăng của Tản Đà sẽ bám vào đó mà lên. Tản Đà rất tự tin, coi rằng mình lên cung trăng sẽ làm cho chị Hằng không còn lẻ loi, không bị bi tráng tủi. Ý định cùng chị Hằng Rồi mỗi năm rằm tháng tám – Tựa nhau trông xuống thế gian cười cũng là thể hiện cái ngông của thi sĩ.
Câu 3 trang 156 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
Phân tích hình ảnh cuối bài thơ : Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì ?
Mạch cảm xúc lãng mạn và ngông được đẩy lên cao độ bằng một hình ảnh tưởng tượng đầy bất ngờ và ý vị của Tản Đà. Đêm trung thu trăng sáng, đẹp, người người đều ngẩng đầu chiêm ngưỡng thì nhà thơ lại đang ngồi tít mãi trên cung trăng, tựa vai chị Hằng Nga để cùng ngắm thế gian và … cười. Cái cười ở đây có thể có hai ý nghĩa, vừa thỏa mãn vì đã đạt được khát vọng thoát li mãnh liệt, đã xa lánh được hẳn cõi đời trần bụi bặm, vừa thể hiện sự mỉa mai, khinh bỉ cái cõi trần gian giờ đây chỉ còn là “bé tí” khi mình đã bay bổng được lên trên đó. Đó là đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn và ngông của Tản Đà.
Câu 4 trang 156 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
Theo em, những yếu tố âm nhạc nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ ?
Những yếu tố âm nhạc tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ :
– Nguồn cảm xúc mãnh liệt, dồi dào, vừa phóng túng bay bổng, lại vừa sâu lắng thiết tha, được biểu hiện 1 cách tự nhiên, thoải mái, nhuần nhị như giọng tâm tình thân mật với người bạn tri kỉ, tri âm.
– Lời lẽ giản dị, trong sáng, không gọt đẽo cầu kì mà vẫn mượt mà, ý nhị, giàu sức biểu cảm, lại rất đa dạng trong lối biểu hiện (khi than, khi nhắn hỏi, khi cầu xin)
– Sức tưởng tượng phong phú, táo bạo, đã tạo ra được một giấc mộng kì thú với những chi tiết gợi cảm và bất ngờ.
– Thể thơ Đường luật trong tay tác giả vẫn tuân thủ nghiêm chỉnh các quy tắc về vần, luật nhưng hoàn toàn không còn gò bó, công thức.
II. Luyện tập
Câu 1 trang 157 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
Nhận xét về phép đối trong hai câu 3 – 4 và 5 – 6 của bài thơ.
Trong thơ Đường, các cặp câu 3 – 4 và 5 – 6 bắt buộc phải đối nhau. Câu 3 và 4 đối về hình ảnh : cung quế – cành đa, đối về hoạt động : ngồi – nhắc, đối về ý tứ : thăm dò – đề nghị.
Câu 5 và câu 6 đối về ý là chính : bầu bạn – gió mây, tủi – vui.
Câu 2 trang 157 – SGK Ngữ văn 8 tập 1:
So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (đã học ở lớp 7).
Ta thấy bài Qua Đèo Ngang ngôn ngữ mực thước, trang trọng, đối chặt chẽ và chỉnh. Còn bài thơ này, giọng điệu nhẹ nhàng, phóng khoáng, pha chút hóm hỉnh, ngông nghênh. Lời lẽ giản dị, không trang trọng, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Vần luật chặt chẽ, nhưng sử dụng âm nhạc đối phóng túng, không chặt chẽ như trong bài thơ Qua Đèo Ngang.
Bài soạn “Muốn làm thằng cuội” số 5
I. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Tác giả
Tản Đà (1889-1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Tản Đà xuất thân là nhà nho, từng hai phen lều chõng đi thi nhưng không đỗ. Sau đó, ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ và sớm nổi tiếng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỉ XX.
Thơ ông tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại rất đậm đà bản sắc dân tộc và có những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ trong sáng tác. Có thể xem thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi và cũng nổi tiếng với những bài tản văn, tùy bút, tự truyện, những thiên du kí viễn tưởng đặc sắc.
2. Tác phẩm
Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” nằm trong quyển “Khối tình con I”, xuất bản năm 1917. (Thằng Cuội: nhân vật ở trên cung trăng, theo truyền thuyết dân gian). Bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà là tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng. Sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạn pha chút ngông nghênh đáng yêu và ở những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển.
Câu 1: Hai câu đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng…
Hai câu đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, vì sao Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế”?
Trả lời:
Hai câu thơ đầu này là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng trong một đêm thu. Tác giả đem nỗi bi tráng ấy tâm sự với một người bạn rất đặc biệt chị Hằng – khoảng cách xa vời nhưng có lẽ đó là người bạn cùng chung nỗi niềm cô đơn với tác giả.
Nguyên nhân của nỗi buồn:
– Nỗi bi tráng của Tản Đà là do sự cộng hưởng của nỗi bi tráng đôm thu với nỗi chán đời, chán trần thế. Nỗi bi tráng đêm thu là cái bi tráng thường tình của thi sĩ.
– Nỗi chán đời, chán trần thế là căn nguyên sâu xa của nỗi bi tráng Tản Đà. Sự chán chường trần thế vì cuộc sống bế tắc, tù túng của xã hội thực dân phong kiến bóp nghẹt sự sống của con người. Thân phận ngườidân nô lệ làm sao mà vui được mà không chán – chán còn bởi vì Tản Đà mang một niềm đau riêng tài cao nhưng phận thấp.
– Vì không đủ sức để thay đổi hiện thực bi kịch ấy nên ông muốn thoát ra khỏi nó, muốn làm thằng Cuội lên chơi trăng.
Câu 2: Nhiều người đã nhận xét 1 cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ …
Nhiều người đã nhận xét 1 cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu “ngông” nghĩa là gì ? (bộc lộ một thái độ như thế nào đối với cuộc sống)? Hãy phân tích cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội (chú ý các câu 3 – 4, 5 – 6).
Trả lời:
Tản Đà với cá tính sống mà dường như nằm giữa cõi mộng và cõi thực, giữa cái tỉnh và cái điên, không giống như một ai như thế. Từ lâu, ông đã được mệnh danh là một hồn thơ “ngông”, vua ngông. “Ngông” là thái độ bất cần đời, là dám làm điều trái lẽ thường, không sợ dư luận khen chê. Trong xã hội phong kiến “ngông” là thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính.
Cái “ngông” của Tản Đà được thể hiện:
– Là ước muốn được làm thằng Cuội ở trên cung trăng, vượt ra khỏi trái đất, lên tận trời cao để làm bạn tri âm với chị Hằng, để giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình. Ước nguyện của nhà thơ được diễn tả qua tứ thơ lãng mạn, hình ảnh thơ mơ mộng và tình tứ.
– Đầu tiên là một câu ướm hỏi, thăm dò “Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?”. Sau đó là một lời cầu xin “Cành đa xin chị nhắc lên chơi”, thể hiện sự tự tin của tác giả. Nếu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ bi tráng mà chị cũng bớt cô đơn
– Cái “ngông” của Tản Đà còn được thể hiện cả ở cách xưng hô với chị Hằng, đó là cách xưng hô với “người cõi tiên” bằng lời lẽ thân mật, suồng sã : chị – em.
– Trong cõi trần, tác giả luôn cảm thấy bi tráng vì sự cô đơn, trống vắng. Ông khắc khoải đi tìm những tâm hồn tri âm, tri kỉ.
– Ước mơ thoát khỏi cuộc sống tù túng, bi tráng chán hiện tại nơi trần thế để đến với một không gian mộng tưởng. Nơi có một tâm hồn hồn cô đơn, đồng điệu với mình trên bầu trời. Sự gặp gỡ hội ngộ biến từ tủi phận thương thân thành niềm vui phơi phới cùng nhau bay lượn với gió, với mây một hồn thơ thật lãng mạn bay bổng.
Câu 3: Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười…
Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì?
Trả lời:
- Cái cười ở đây vừa thể hiện niềm vui vì đã thoát li được cõi trần nhiều bụi bặm, xấu xa; vừa là sự mỉa mai, khinh bỉ của nhà thơ khi đứng trên một tầm vóc cao hơn nhìn xuống trần gian lúc này thật bé nhỏ.
- Cái cười ở đây còn có ý nghĩa chế giễu cuộc đời trần tục đầy những cái xấu xa, chật hẹp, nhỏ nhoi làm cho con người phát chán.
- Cái cười ngông của một thi sĩ đa tình khi định ở bên một người đẹp nhất cõi trời mà người nào cũng ao ước.
Câu 4: Theo em, những yếu tố âm nhạc nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ?
Trả lời:
- Bài thơ được viết như một lời tâm sự, trả lòng của tác giả và những yếu tố âm nhạc về ngôn ngữ, sức tưởng tượng… đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.
- Làm nên sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạn bay bổng ở cái “ngông”, trí tưởng tượng lại phong phú, kì diệu. Chất mộng ảo, chất ngông thấm đẫm bài thơ.
- Lời thơ giản dị, trong sáng, giàu sức biểu cảm, đa dạng trong lối biểu hiện (khi than, khi nhắn hỏi, khi cầu xin). Thơ còn đậm đà tính dân tộc, hầu hết là những từ thuần Việt gần gũi với đời sống.
- Sức tưởng tượng phong phú, táo bạo đã tạo được giấc mộng kì thú với những chi tiết gợi cảm và bất ngờ.
- Luật thơ Đường vẫn được tuân thủ 1 cách nghiêm ngặt nhưng hoàn toàn không còn gò bó, chứa đựng sự phóng túng thoải mái.
II. Luyện tập
Câu 1: Nhận xét về phép đối trong hai câu câu 3 – 4 và 5 – 6 của bài thơ.
Trả lời:
Theo luật thơ Đường, các cặp câu trên nhất thiết phải đối nhau. Hai cặp câu trên đối nhau như sau:
Câu 3 – 4 : đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ. (cung quế >< cành đa)
Câu 5 – 6: đối về ý là chính. (đã ai ngồi đó chửa >< xin chị nhắc lên chơi)
Nhịp thơ (2/2/3) và từ loại phù hợp nhau.
Câu 2: So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang…
So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (đã học ở lớp 7).
Trả lời:
Bài thơ Qua đèo Ngang
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”.
- Giống nhau:
Cả hai bài thơ đều thể hiện nỗi bi tráng của thi nhân.
Đều được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú, đều tuân thủ khá chặt chẽ nguyên tắc của thơ Đường luật. - Khác nhau
Ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: thể hiện nỗi bi tráng kín đáo “ta với ta”,. thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên lòng ta có một cảm giác bâng khuâng, một nỗi bi tráng man mác. Nhà thơ đã sử dụng thành thạo các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh và cách chơi chữ đồng âm trong thơ. Ngôn ngữ trong bài thơ thể hiện sự trang trọng mực thước mang màu sắc cổ kính.
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội thể lộ nỗi niềm rõ ràng hơn:“Buồn lắm chị Hằng ơi”, “Chán nữa rồi”. Lời thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với những lời nói thường ngày , không khuôn sáo và có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. Tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.
Bài soạn “Muốn làm thằng cuội” số 1
Thể loại
Thất ngôn bát cú Đường luật
Bố cục
+ Hai câu đề: cuộc sống trần gian nhàm chán, bi tráng tẻ
+ Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả
+ Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại
+ Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc
Câu 1 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)
Tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng do tâm trạng chán trần thế;
+ Sống trong xã hội thực dân phong kiến tàn tác, bất nhân
+ Mang nỗi nhục mất nước, nỗi bi tráng vì bản thân rơi vào cảnh long đong, lận đận, bế tắc
+ Tản Đà vốn phóng túng, lãng mạn không bằng lòng với cuộc sống tù túng đó.
+ Bản thân ông không đủ sức thay đổi thực tại bi kịch.
=> Lời giãi bày của người lạc lõng trước thời cuộc, luôn bất hòa với thực tại nhàm chán.
Câu 2 ( trang 156 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)
– Từ “ngông” được hiểu:
+ Những việc làm lớn, vượt trội hơn so với người bình thường
+ Chơi trội, dám làm trái lẽ thường, không sợ bị chê cười, thái độ phóng khoáng, coi thường khuôn phép.
– Cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội:
+ Muốn thoát khỏi trần bi tráng chán, xấu xa để lên cõi mộng
+ Xưng hô suồng sã với chị Hằng, muốn được chị coi là bạn
+ Cách lên trời, lên trăng bộc lộ chất “ngông”: muốn chị Hằng ghì cành đa xuống.
+ Câu 3 là sự ướm hỏi thì câu 4 Tản Đà tự tin về bản thân, khi lên cung quế sẽ làm cho chị Hằng bớt lẻ loi, bi tráng tủi.
=> Tản Đà một hồn thơ “ngông” giữa cái tỉnh và cái điên, giữa cõi thực và cõi mơ thể hiện cá tính, thái độ sống của ông trước cuộc đời đầy bất công, ô trọc. Phía sau cái “ngông” của ông là nhân cách hơn người.
Câu 3 ( trang 156 sgk Ngữ văn 8 tập 1)
– Câu thơ cuối bài là sự kết hợp hoàn hảo giữa cái “ngông” và lãng mạn của Tản Đà. Câu thơ phản ánh khao khát thoát tục để giữ thiên lương.
– Cái “cười” ở đây của Tản Đà được mang nhiều ý nghĩa
+ Cười thể hiện niềm vui được thỏa mãn mơ ước lên cõi mộng tưởng
+ Cười vì nhà thơ thấy thế gian ông từ bỏ vẫn là trần tục tầm thường, bi tráng chán
+ Cười thể hiện sự mỉa mai, giễu cợt khi Tản Đà ở vị trí cao hơn cõi trần ông đang sống.
Câu 4 ( trang 156 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)
– Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ nằm ở:
+ Trí tưởng tượng sáng tạo, bay bổng của nhà thơ
+ Cảm xúc dồi dào, ngòi bút phóng khoáng đã tạo ra cuộc trò chuyện tưởng tượng lý thú, hấp dẫn
+ Thái độ sống “ngông” của tác giả tạo ra giọng điệu ngang tàng khác thường
+ Có những cách tân mới khi thể hiện cái “tôi”- khác với thơ Đường cổ điển.
Luyện tập
Bài 1 (trang 157sgk Ngữ Văn 8 tập 1)
– Luật thơ Đường, các cặp câu 3- 4 và 5- 6 bắt buộc phải đối nhau. Trong bài câu 3- 4 đối nhau
+ Về hình ảnh: cung quế- cành đa
+ Về hành động: ngồi- nhắc
+ Đối về ý tứ: thăm dò-đề nghị
Câu 5- 6 đối về ý: bầu bạn- gió mây, tủi- vui
Phép đối trong 4 câu thơ trên nhẹ nhàng, ý vị, làm nổi bật được ước muốn được thoát khỏi những điều tầm thường nhàm chán của thế tục đang diễn ra.
Bài 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 8 tập 1)
-Bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan:
+ Ngôn ngữ: sử dụng nhiều từ láy, từ tượng hình và lối chơi chữ từ đồng âm
+ Giọng điệu: trầm buồn, trang nhã tạo nét bi tráng bâng khuâng
– Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
+ Ngôn ngữ: bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
+ Giọng điệu: nhẹ nhàng, trữ tình, pha chút hóm hỉnh, ngông nghênh
Nội dung chính
Bài thơ nói lên tâm sự của người luôn muốn thoát li khỏi xã hội tầm thường, tẻ nhạt bằng mộng tưởng lên cung trăng làm bạn với chị Hằng.
Bài soạn “Muốn làm thằng cuội” số 2
Trả lời câu 1 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Hai câu thơ đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, vì sao Tản Đà lại có tâm trạng chán trần thế?
Lời giải chi tiết:
Mở đầu bài thơ, hai câu đề, là tâm trạng của tác giả trước cảnh đời thu:
Đêm bi tráng lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Gặp cảnh đêm thu đã bi tráng lại bi tráng và chán nữa. Nỗi bi tráng chán ấy như thể được nhân lên, chất chứa trong lòng, khiến nhà thơ phái thốt thành lời. Lời thở than cũng là một tâm trạng, một nỗi bi tráng da diết khôn nguôi. Ấy là nỗi bi tráng thời thế hay thân thế khiến nhà thơ chán cả cõi đời.
+ Sống trong xã hội thực dân phong kiến tàn tác, bất nhân
+ Mang nỗi nhục mất nước, nỗi bi tráng vì bản thân rơi vào cảnh long đong, lận đạn, bế tắc
+ Tản Đà vốn phóng túng, lãng mạn không bằng lòng với cuộc sống tù túng đó.
+ Bản thân ông không đủ sức thay đổi thực tại bi kịch.
⟹ Lời giãi bày của người lạc lõng trước thời cuộc, luôn bất hòa với thực tại nhàm chán: từ nỗi đau trước sự tồn vong của đất nước, của dân tộc đến nỗi đau kiếp người trước cảnh gió gió mưa mưa rồi nỗi cô đơn thất vọng, bế tắc của riêng mình: “Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo. Mà đến bây giờ có thế thôi”. Chính vì thế, thi sĩ Tản Đà muốn thoát li cái xã hội ngột ngạt tầm thường thời bấy giờ bằng mộng tưởng. Ông “muốn làm thằng Cuội” bỏ quách nhân gian để lên cung quế sống bên chị Hằng.
Trả lời câu 2 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Nhiều người đã nhận xét 1 cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu “ngôn” nghĩa là gì?
Lời giải chi tiết:
– Ngông là làm những việc trái với lẽ thường, khác với mọi người xung quanh mình. Trong văn học, ngông là biếu hiện cùa ngòi bút có cá tính mạnh mẽ, bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, không chịu gò ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ nghi lề thói thông thường, chẳng hạn Nguyễn Công Trứ lấy mo cau che đít bò đủng đỉnh cưỡi lên chùa trong Bài ca ngất ngưởng hay Trần Tế Xương trong bài Bần nhi lạc đã ngợi ca lối sống của chú Mán: “Không đội nói chịu màu da dãi nắng. Chẳng nhuộm răng, dễ trắng dễ cười đời”.
– Trong bài thơ này, cái ngông đó bộc lộ trong:
+ Ý muốn được làm thằng Cuội, bỏ quách trần gian lên cung trăng cùng sống bên chị Hằng, bầu bạn vui cùng gió cùng mây trông xuống cõi người mà cười cợt.
+ Tuy nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, tự xưng mình là em nhưng giọng điệu bài thơ không khỏi ít nhiều có tình ý lơi lả, ý vị cợt đùa. Trong cách xưng hô trò chuyện cùa ông với người đọc ít nhiều cũng hàm chứa thái độ chơi ngông. Đặc biệt là tư thế ở cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thể gian cười thì đúng là một thái độ ngông nghênh khác lạ so với đương thời.
⟹ Tản Đà một hồn thơ “ngông” giữa cái tỉnh và cái điên, giữa cõi thực và cõi mơ thể hiện cá tính, thái độ sống của ông trước cuộc đời đầy bất công, ô trọc. Phía sau cái “ngông” của ông là nhân cách hơn người.
Trả lời câu 3 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì?
Lời giải chi tiết:
– Sau cùng, hai câu kết càng bộc lộ tâm trạng của nhà thơ:
Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Hình ảnh “tựa nhau” giữa nhà thơ cùng chị Hằng mới lãng mạn làm sao. Rằm tháng Tám, đêm Trung thu chính là lúc trăng tròn và sáng nhất trong năm. Khi đó, người người trong cõi trần gian này đều ngẩng đầu lên ngắm trăng. Cùng chính khi đó, nhà thơ ngồi trên cung trăng tựa vai chị Hằng “trông xuống thế gian, cười”.
– Cái “cười” ở đây của Tản Đà được mang nhiều ý nghĩa
+ Cười thể hiện niềm vui được thỏa mãn mơ ước lên cõi mộng tưởng
+ Cười vì nhà thơ thấy thế gian ông từ bỏ vẫn là trần tục tầm thường, bi tráng chán
+ Cười thể hiện sự mỉa mai, giễu cợt khi Tản Đà ở vị trí cao hơn cõi trần ông đang sống.
Trả lời câu 4 (trang 156 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Theo em những yếu tố âm nhạc nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ?
Lời giải chi tiết:
– Trí tưởng tượng sáng tạo, bay bổng của nhà thơ
– Cảm xúc dồi dào, ngòi bút phóng khoáng đã tạo ra cuộc trò chuyện tưởng tượng lý thú, hấp dẫn
– Thái độ sống “ngông” của tác giả tạo ra giọng điệu ngang tàng khác thường
– Có những cách tân mới khi thể hiện cái “tôi”- khác với thơ Đường cổ điển.
Luyện tập
Trả lời câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Nhận xét phép đối trong hai câu 3-4 và 5-6 của bài thơ.
– Luật thơ Đường, các cặp câu 3- 4 và 5- 6 bắt buộc phải đối nhau. Trong bài câu 3- 4 đối nhau
+ Về hình ảnh: cung quế- cành đa
+ Về hành động: ngồi- nhắc
+ Đối về ý tứ: thăm dò-đề nghị
Câu 5- 6 đối về ý: bầu bạn- gió mây, tủi- vui
Phép đối trong 4 câu thơ trên nhẹ nhàng, ý vị, làm nổi bật được ước muốn được thoát khỏi những điều tầm thường nhàm chán của thế tục đang diễn ra.
Trả lời câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
So sánh ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Trả lời:
– Bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan:
+ Ngôn ngữ: sử dụng nhiều từ láy, từ tượng hình và lối chơi chữ từ đồng âm
+ Giọng điệu: trầm buồn, trang nhã tạo nét bi tráng bâng khuâng
– Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
+ Ngôn ngữ: bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
+ Giọng điệu: nhẹ nhàng, trữ tình, pha chút hóm hỉnh, ngông nghênh
Bố cục
+ Hai câu đề: cuộc sống trần gian nhàm chán, bi tráng tẻ.
+ Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả.
+ Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại.
+ Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.
ND chính
Tâm sự của con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.
Có thể bạn thích: