Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được sáng tác năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” thể hiện đề tài lớn xuyên suốt trong văn học Việt Nam: đề tài yêu nước. Với ngôn ngữ và nhạc điệu thơ phong phú, giàu chất biểu tượng, tạo hình, bài thơ rất thành công khi mượn lời con hổ trong vườn bách thú để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn hay nhất mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu tác phẩm và chuẩn bị tốt nhất nội dung lên lớp.
Bài soạn “Nhớ rừng” số 2
Câu 1 trang 7 – SGK Ngữ văn 8 tập 2:
Bài thơ được tác giả ngắt thành 5 đoạn, hãy cho biết nội dung mỗi đoạn.
Bài thơ chia làm 5 đoạn và nội dung của từng đoạn như sau:
– Đoạn 1: Lòng uất hận, sự căm hờn của con hổ khi bị giam cầm trong cũi sắt.
– Đoạn 2: Nỗi nhớ núi rừng và sự oai phong của con hổ
– Đoạn 3: Nỗi nhớ vể một thời oanh liệt, tự do.
– Đoạn 4: Sự căm ghét cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú.
– Đoạn 5 : Giấc mơ và niềm khao khát được trở lại vùng vẫy chốn rừng xưa.
Câu 2 trang 7 – SGK Ngữ văn 8 tập 2: Trong bài thơ có hai cảnh được miêu tả đầy ấn tượng: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4 ); cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” (đoạn 2 và đoạn 3).
a) Hãy phân tích từng cảnh tượng.
b) Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3. Phân tích để làm rõ cái hay của hai đoạn thơ này.
c) Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh tượng nêu trên, tâm sự con hổ ở vườn bách thú được biểu hiện như thế nào? Tâm sự ấy có gì gần gũi với tâm sự người dân Việt Nam đương thời?
a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tượng rất tù túng, ngột ngạt:
+ Đoạn 1: thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt, bị biến thành thứ đồ chơi, bị xếp cùng bọn gấu dở hơi, cặp báo vô tư lự.
+ Đoạn 4: cảnh tượng vườn bách thú trong mắt con hổ rất đáng khinh: cảnh là nhân tạo, giả dối, thấp kém, học đòi, không có chút gì mang dáng dấp của rừng núi hoang sơ. => Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với xã hội đương thời.
– Cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa”.
+ Đoạn 2 và đoạn 3: miêu tả cảnh núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Chúa sơn lâm có vẻ đẹp vừa tinh tế vừa dũng mãnh, uy nghi, lại không kém phần mềm mại uyển chuyển.
b) Cảnh núi rừng hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ thâm nghiêm:
– Hùng tráng với âm thanh dữ dội “tiếng gió gài ngàn”, “giọng nguồn hét núi”.
– Sự hoang dã của chốn thảo hoang không tên không tuổi.
-> Từ ngữ chọn lọc, phong phú, gợi tả – diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao, mạnh mẽ phi thường bí ẩn linh thiêng giang sơn của con hổ.
c) Sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, và cảnh núi rừng hùng vĩ diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc da diết, đau đớn, của con hổ đối với những quá khứ huy hoàng của nó.Tâm sự của con hổ là tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nhục nhằn, tù hãm , họ tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc. Chính vì thế mà người ta say xưa đón nhận bài thơ.
Câu 3 trang 7 – SGK Ngữ văn 8 tập 2: Căn cứ vào nội dung bài thơ, hãy giải thích vì sao tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”. Việc mượn lời đó có tác dụng thế nào trong việc thể hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ?
Với hình ảnh con hổ, tác giả đã có một biểu tượng rất thích hợp và vẻ đẹp để thể hiện chủ đề bài thơ. Con hổ có một vẻ đẹp oai hùng, lại được coi là chúa sơn lâm, huy hoàng đầy hống hách ở chốn đại ngàn sâu thẳm, trong vũ trụ rộng lớn. Một điều nữa, mượn lời con hổ , tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Còn bị giam hãm trong cũi sắt là biểu tượng rất đắt về anh hùng chiến bại mang tâm sự u uất. U uất vì tù túng, mà phải chấp nhận cái tẻ nhạt, tầm thường. Cảnh rừng khoáng đạt, hùng vĩ – giang sơn của chúa sơn lâm – là biểu tượng của thế giới rộng lớn, tự do và cao cả. Với hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng đó, nhà thơ rất thuận lợi trong việc nói lên tâm sự và cảm hứng lãng mạn của mình.
Câu 4 trang 7 – SGK Ngữ văn 8 tập 2: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” (Thi nhân Việt Nam, Sđd). Em hiểu thế nào về ý kiến đó? Qua bài thơ, hãy chứng minh.
Nhà phê bình Hoài Thanh đã ca ngợ Thế Lữ “như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao:
– Chỉ riêng về âm thanh núi rừng Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội.
– Điệp ngữ tạo ra sự tiếc nuối (nào đâu, đâu những, …)
– Các câu thơ nhịp nhàng, cân đối khi miêu tả dáng điệu hùng dũng, mềm mại của con hổ:
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Hay câu thơ: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng được viết ngắt nhịp nhau, có cấu tạo ngữ pháp giống nhau (C-V), như mô phỏng sự đối kháng điệu, tầm thường cuản cảnh vật.
* Ghi nhớ:
Nhớ rừng của Thế Lữ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy.
Bài soạn “Nhớ rừng” số 6
Câu 1. Em hãy liệt kê các từ ngữ trong các trường từ vựng :
– Miêu tả núi rừng hùng vĩ (đoạn 2, 3).
– Miêu tả con hổ chốn rừng thiêng (đoạn 2,3).
Qua đó, em có nhận xét gì về việc khai thác, sử dụng từ ngữ của tác giả ? Đặc biệt, việc sử dụng rộng rãi các từ Hán Việt ở các đoạn 2 và 3 đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật như thế nào ?
Trả lời:
Cần hiểu mục đích của bài tập nhằm thực hành về trường từ vựng.
– Muốn làm tốt được bài tập này, trước hết HS phải có những hiểu biết nhất định về trường từ vựng. (Trường từ vựng là tập hợp tất cả các từ có nét chung nào đó về nghĩa). Ở đây là các từ cùng miêu tả một đối tượng : cảnh “sơn lâm hùng vĩ” và hình ảnh “chúa sơn lâm”, cần lưu ý : một trường từ vựng có thể bao gồm nhiều trường từ vựng nhỏ hơn ; cùng một trường từ vựng có thể bao gồm những từ khác biệt nhau về từ loại ; một từ có thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau ; trong diễn đạt, người ta thường dùng cách chuyển trường từ vựng để tăng thêm tính nghệ thuật của ngôn từ.
– Đọc kĩ bài thơ, từ đó liệt kê các từ ngữ thuộc trường từ vựng miêu tả núi rừng hùng vĩ ở các đoạn 2,3.
Ví dụ : sơn lâm, bóng cả, cây già, gió gào ngần, nguồn hét núi, lá gai, cỏ sắc hang tối, thảo hoa, đêm vàng, bờ suối ánh trăng, ngày mưa, 4 hướng ngàn, giang sơn, bình minh, cây xanh, nắng gội, tiếng chim ca, sau rừng, mặt người,… Nét nghĩa chung : núi rừng hùng vĩ.
– Liệt kê các từ ngữ thuộc trường từ vựng miêu tả con hổ chốn rừng thiêng ở các đoạn 2,3.
Ví dụ : tung hoành, hống hách, bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân, vờn bóng, quắc, say mồi đứng uống ánh trăng tan, lặng ngắm, đợi chết, chiếm lấỵ,.:.
– Qua đó có thể nhận thấy, tác giả đã khai thác, sử dụng một vốn từ vựng phong phú, đa dạng và chọn lọc để diễn tả nổi bật cái lớn lao, mạnh mẽ, phi thường của cảnh núi rừng hùng vĩ và khắc hoạ đậm nét, đầy ấn tượng hình ảnh oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm.
– Đặc biệt, việc sử dụng rộng rãi các từ Hán Việt ở các đoạn 2, 3 đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đáng kể : khắc hoạ sáng tạo, đầy ấn tượng sự cao cả, lớn lao, phi thường và bi ữáng. So với từ thuần Việt đồng nghĩa, từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng, mĩ lệ và có sức gợi cảm riêng.
Câu 2. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bàỉ Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.” (Thi nhân Việt Nam)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Theo em, “đội quân Việt ngữ” mà Hoài Thanh nói đến có thể gồm những yếu tố gì ?
Trả lời:
Cần hiểu cách diễn đạt hình ảnh của Hoài Thanh :
– Khi nồi “tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức manh phi thường” là Hoài Thanh muôn khẳng định mạch cảm xúc sôi trào mãnh liệt chi phối mạnh mẽ việc sử dụng câu chữ trong bài thơ của Thế Lữ. Đây chính
là một trong những những đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài Nhớ rừng.
– Khi nói “Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” tức là nhà phê bình khẩng định tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) một cách chủ động, linh hoạt, phong phú, chính xác và đặc biệt hiệu quả để có thể biểu đạt tốt nhât nội dung của bài thơ.
– “Đội quân Việt ngữ” có thể bao gồm nhiều yếu tố như : từ ngữ (ở đây là những từ ngừ diễn tả mạnh mẽ, đầy gợi cảm, giàu chất tạo hình như khi đặc tả cảnh sơn lâm hùng vĩ, gây cho người đọc ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp vừa phi thường tráng lệ, vừa thơ mộng), các cấu trúc ngừ pháp, nhịp điệu và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm (âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt – có câu nhịp rất ngắn, có câu lại trải dài phù hợp với cảm xúc). Điều này có thể nhận thấy rõ nhất qua đoạn 2 vầ 3 của bài thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ và hình ảnh con hổ trong giang sơn mà nó ngự trị.
Câu 3. Theo em, vì sao con hổ không chỉ bực bội vì bị nhốt trong cũi sắt, mà còn bực bội, chán ghét toàn bộ cảnh vật ở vườn bách thú (được miêu tả ở đoạn 1 và đoạn 4) ?
Trả lời:
Con hổ đúng là không chỉ bực bội vì bị nhốt trong cũi sắt (mất tự do) mà còn bực bội, chán ghét toàn bộ cảnh vật ở vườn bách thú (được miêu tả kĩ ở đoạn 1 và đoạn 4) ; vì : dưới con mắt của chúa sơn lâm, những thứ ở vườn này đều nhỏ bé, đối kháng điệu, đều tầm thường, tháp kém, giả tạo (bọn gấu dở hơi, cặp báo vô tư lự; những cảnh không đời nào thaỵ đổi ; Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng – Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng – Len dưới nách những mô gò thấp kém – Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm..). Chúa sơn lâm không chấp nhận chung sống với những cái phàm tục, giả dối, thấp hèn đó.
Hổ khao khát trở về rừng xưa không những để được tự do, mà còn để được về với cái siêu phàm, kì vĩ, đối lập với những cái hiện có ở vườn bách thú. Đây chính là một trong những những đặc điểm của tâm hồn lãng mạn : chán ghét thực tại tù túng, tầm thường, khát khao mãnh liệt sự tự do, luôn hướng tới cái lớn lao, phi thường, siêu phàm.
Câu 4. SGK Ngữ văn 8, tập hai, có nhận xét : Bài Nhớ rừng “tràn đầy cảm xúc lãng mạn”.
Em hiểu thế nào là “lãng mạn” ? Cảm xúc lãng mạn được thể hiện trong bài thơ như thế nào ?
Trả lời:
Bài Nhớ rừng đúng là tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Hiểu một cảch đối kháng giản, đặc điểm nôi bật của tâm hồn lãng mạn là giàu mộng tưởng, khát vọng và giàu cảm xúc. Người nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cảm thấy bất hoà sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, ngột ngạt, xâu xa đương thời ; nhưng vì bất lực, họ chỉ biết tìm cách thoát li khỏi thực tại ấy bằng mộng tưởng và bằng sự đắm chìm vào đời sống nội tâm tràn đầy cảm xúc. Tâm hồn lãng mạn ưa thích sự độc đáo, phi thường, ghét khuôn khổ, gò bó và sự tầm thường. Nó có hứng thú giãi bày những cảm xúc thiết tha mãnh liệt, nhất là nỗi thất vọng, buồn đau. Cảm xúc lãng mạn trong bài Nhớ rừng được thể hiện khá rõ qua các khía cạnh sau :
– Hướng về thế giới mộng tưởng lớn lao, phi thường, tráng lệ bằng một cảm hứng sôi trào mãnh liệt. Thế giới ây hoàn toàn đối lập với thực tại tầm thường giả dối. Trong bài Nhớ rừng, thế giới mộng tưởng chính là cảnh đại ngàn hùng vĩ và kèm theo đó là hình ảnh oai hùng của chúa sơn lâm (tập trung ở đoạn 2, 3 và 5 của bài thơ) ; còn cảnh vườn bách thú với hình ảnh chiếc cũi sắt chính là biểu hiện của thực tại tù túng, tầm thường, đáng ghét.
– Diễn tả thấm thía nỗi đau uất hận của con hổ, từng là chúa sơn lâm tung hoành nơi rừng thiêng đại ngàn, nay phải nằm dài bất lực trong cũi sắt ở vườn bách thú vô cùng chán ngán. Hình ảnh con hổ với tâm sự đau uất mang tính chất bi tráng đó là một biểu tượng đầy nghệ thuật, được diễn tả bằng những vần thơ sôi nổi, da diết, đã thể hiện đầy đủ cảm xúc lãng mạn của nhà thơ.
Bài soạn “Nhớ rừng” số 5
I. Đôi nét về tác giả Thế Lữ
– Thế Lữ (1907- 1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ
– Quê quán: Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội)
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông là nhà thơ tiêu biểu trong thơ mới hiện đại (1932 – 1945)
+ Ngoài viết thơ, Thế Lữ còn viết truyện với nhiều thể loại như trinh thám, truyện kinh dị…
+ Ông cũng hoạt động trên lĩnh vực sân khấu, có công trong xây dựng ngành kịch nói ở nước ta
+ Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000
+ Tác phẩm tiêu biểu: Bên đường Thiên lôi, Mấy vần thơ…
– Phong cách sáng tác: Thơ ông dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những ẩn ý sâu sắc vô cùng.
II. Đôi nét về bài thơ Nhớ rừng
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, sau được in trong tập Mấy vần thơ- 1935
2. Bố cục
– Đoạn 1 + 4: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
– Đoạn 2 + 3: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
– Đoạn 5: Niềm khát khao tự do mãnh liệt
3. Nội dung
– Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.
4. Nghệ thuật
– Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình
– Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu tính biểu cảm.
III, Đọc hiểu bài thơ Nhớ rừng
Câu 1 sgk ngữ văn 8 trang 7
Bài thơ chia làm 5 đoạn với nội dung mỗi đoạn:
Đoạn 1 và đoạn 4: nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị giam hãm ở một nơi chật hẹp, tù túng, giả dối.
Đoạn 2 và 3: hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi núi rừng thời oanh liệt.
Đoạn 5: hoài niệm nơi núi rừng khi xưa với giấc mộng ngàn.
Câu 2 sgk ngữ văn lớp 8 trang 7
a.
Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tượng rất tù túng, ngột ngạt.
Đoạn 1: Tâm trạng chán nản, buỗng xuôi, tuyệt vọng đầy căm hờn của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, chịu ngang hàng với lũ dở hơi. Những động từ mạnh, tính từ gằn sắc, giọng thơ chắc, mạnh đã diễn tả rất hợp cảm xúc ấy.
Đoạn 4: cảnh tượng vườn bách thú trong mắt con hổ rất đáng khinh: cảnh là nhân tạo, giả dối, thấp kém, học đòi, không có chút gì mang dáng dấp của rừng núi hoang sơ, hùng vĩ nơi àm nó đã từng ngự trị, tung hoành hống hách những ngày xưa. => Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với xã hội đương thời.
Cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa”.
Đoạn 2+3: miêu tả cảnh núi rừng đại ngàn với: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Thiên nhiên hiện lên hoang sơ, hùng vĩ nổi bật trên nền cảnh ấy là hình ảnh chúa sơn lâm dũng mạnh, oai phong, dõng dạc đường hoàng mà cũng rất nhịp nhàng.
Cảnh núi rừng hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ thâm nghiêm.
Hùng tráng với âm thanh dữ dội “tiếng gió gài ngàn”, “giọng nguồn hét núi”.
Sự hoang dã của chốn thảo hoang không tên không tuổi.
b, Nhận xét:
Từ ngữ phong phú, giàu sức biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh.
Hình ảnh hùng vĩ, lớn lao, lẫm liệt.
Giọng vừa oai nghiêm vừa dữ dằn đầy căm hận, dồn nén.
c) Sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, và cảnh núi rừng hùng vĩ diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc da diết, đau đớn, của con hổ đối với những quá khứ huy hoàng của nó.
Tâm sự của con hổ là tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nộ lệ và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc.
Câu 3 sgk ngữ văn lớp 8 trang 7
Với hình ảnh con hổ, tác giả đã có một biểu tượng rất thích hợp và vẻ đẹp để thể hiện chủ đề bài thơ. Bởi con hổ mang vẻ đpẹ oai linh, hùng vĩ, một vẻ đẹp rất lãng mạn. Hơn thế hoàn cảnh của con hổ cũng rất phù hợp với tâm trạng nhà thơ, phù hợp với cảm xúc của cái tôi lãng mạn đang bế tắc trước thực tại.
Câu 4 sgk ngữ văn lớp 8 trang 7
Nhà phê bình Hoài Thanh đã ca ngợ Thế Lữ “như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao: Nhịp thơ nhanh, chậm linh hoạt phù hợp như nhịp tâm hồn, như nhịp lòng của người viết. Những động từ, tính từ sử dụng, phối hợp một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện.
Bài soạn “Nhớ rừng” số 1
Bố cục:
Chia làm 5 đoạn:
+ Đoạn 1: Cảnh ngộ bị rơi vào bẫy và trở thành đồ chơi của đám người nhỏ bé ngạo mạn.
+ Đoạn 2 và đoạn 3: Nỗi nhớ rừng và niềm tự hào một thời oanh liệt.
+ Đoạn 4: Nỗi uất hận trước những tầm thường giả dối của cảnh công viên.
+ Đoạn 5: Những hoài niệm và giấc mộng ngàn.
Câu 1 (trang 7 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
– Đoạn 1: Niềm uất hận của con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt làm thú mua vui.
– Đoạn 2 và 3: Hồi tưởng lại những ngày làm chúa tể oai hùng.
– Đoạn 4: Con hổ khinh thường sự giả dối, tầm thường của hoàn cảnh.
– Đoạn 5: Nỗi nhớ rừng và khát vọng tự do của con hổ.
Câu 2 (trang 7 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):
a, Đoạn 1 và 4: cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt và tâm trạng ngao ngán, căm hờn của con hổ.
+ Uất hận khi rơi vào tù hãm.
+ Bị nhốt cùng bọn gấu dở hơi, cặp báo vô tư lự.
+ Khinh loài người nhỏ bé ngạo mạn.
+ Những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối.
+ Nhớ về cảnh đại ngàn cao cả, âm u.
→ Căm hờn sự tù túng, khinh ghét kẻ tầm thường. Muốn vượt thoát tù hãm bằng nỗi nhớ thời đại ngàn.
Đoạn 2 và 3 miêu tả vẻ đẹp của núi rừng làm bật lên vẻ oai phong, lẫm liệt của vị chúa tể.
+ Con hổ đầy quyền uy, sức mạnh, tham vọng trước đại ngàn.
+ Nỗi nhớ về thời oanh liệt, huy hoàng.
→ Sự tiếc nuối những ngày huy hoàng trong quá khứ của vị chúa tể.
b, Đoạn 2 và 3: đặc sắc về hình ảnh, từ ngữ, giọng điệu.
– Về từ ngữ:
+ Diễn tả vẻ đẹp, tầm vóc của đại ngàn bằng những từ: bóng cả, cây già, giang sơn.
+ Sử dụng những động từ mạnh thể hiện sự oai hùng của chúa tể: thét, quắc, hét, ghét.
+ Sử dụng từ cảm thán (than ôi), câu hỏi tu từ: gợi nhắc lại quá khứ oai hùng, sự tiếc nuối những ngày tự do.
– Về hình ảnh:
+ Sức mạnh của con hổ được diễn tả bằng hình ảnh: mắt thần đã quắc, lượn tấm thân như sóng cuốn nhịp nhàng, uống ánh trăng tan, ngắm giang sơn, giấc ngủ tưng bừng.
+ Hình ảnh núi rừng từ đêm, mưa,nắng, hoàng hôn, bình minh đẹp lộng lẫy, bí hiểm.
+ Về giọng điệu: đanh thép, hào sảng tái hiện lại thời oanh liệt, tráng ca của chúa sơn lâm khi còn tự do.
c, Sự đối lập sâu sắc cảnh tượng núi rừng với cảnh vườn bách thú.
+ Vườn bách thú tù đọng, chật hẹp, tầm thường, giả dối >< đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm.
+ Tâm trạng chán chường, căm phẫn, khinh ghét của con hổ ( ở vườn bách thú) >< tâm trạng vui vẻ, sự oai hùng, lẫm liệt của con hổ khi ở đại ngàn.
→ Tâm sự của con hổ ẩn dụ cho tâm trạng của người dân mất nước luôn cảm thấy căm hờn, tủi nhục, chán ngán với hiện tại, họ nhớ tiếc thời oanh liệt, vàng son của cha ông.
Bài 3 (trang 7 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):
– Tác dụng của việc mượn “lời con hổ ở vườn bách thú” là thích hợp vì:
+ Thể hiện được thái độ ngao ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối.
+ Khao khát vượt thoát để được tự do, không thỏa hiệp với hiện tại.
+ Hình ảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú cũng là biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự uất hận.
+ Mượn lời con hổ để tránh sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân.
– Việc mượn lời của con hổ còn giúp tác giả thể hiện được tâm trạng, khát vọng tự do thầm kín của mình.
Câu 4 ( trang 7 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
– Hoài Thanh trong nhận định về thơ Thế Lữ “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng… không thể cưỡng được” nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ tinh tế, điêu luyện, đạt tới mức chính xác cao.
+ Thế Lữ sử dụng từ ngữ trong bài Nhớ rừng xuất phát từ sự thôi thúc của tâm trạng khinh ghét, căm phẫn cuộc sống hiện thời.
+ “chữ bị xô đẩy” bắt nguồn từ giọng điệu linh hoạt lúc dồn dập oai hùng, lúc trầm lắng suy tư.
+ “dằn vặt bởi sức mạnh phi thường” : khao khát tự do, vượt thoát khỏi thực tại tầm thường, tù túng.
+ Ngôn ngữ có chiều sâu: tạo dựng được ba hình tượng với nhiều ý nghĩa ( con hổ, vườn bách thú, núi rừng).
+ Thế Lữ cũng là cây bút tiên phong cho phong trào Thơ Mới vì thế sự thôi thúc vượt thoát khỏi những chuẩn mực cũ giúp ông chủ động khi sử dụng ngôn từ.
Bài soạn “Nhớ rừng” số 4
I. Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Thế Lữ (1907-1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung… và có hoài bão xây dựng nền sân khấu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Tác giả đã xuất bản: Mấy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936); Lê Phong phóng viên (truyện, 1937); Mai Hương và Lê Phong (truyện, 1937); Đòn hẹn (truyện, 1939); Gói thuốc lá (truyện, 1940); Gió trăng ngàn (truyện, 1941); Trại Bồ Tùng Linh (truyện, 1941); Dương Quý Phi (truyện, 1942); Thoa (truyện, 1942); Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953); Tay đại bợm (truyện vừa, 1953). Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của Sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,…
2. Tác phẩm
Thế Lữ là một trong những những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng. Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.
II. Kiến thức cơ bản
Câu 1. Bài thơ được ngắt làm năm đoạn. Nội dung của đoạn thứ nhất và đoạn thứ tư nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú. Đoạn thứ hai và đoạn thứ ba hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi rừng núi thời oanh liệt. Đoạn thứ năm là hoài niệm nơi rừng núi xưa kia bằng giấc mộng ngàn.
Câu 2. a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng. Đoạn thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ. Tuy bị nhốt trong cũi sắt, tuy bị biến thành một thứ đồ chơi lạ mắt, bị xếp cùng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự, nhưng chúa sơn lâm vẫn khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nó căm hờn sự tù túng, nó khinh ghét những kẻ tầm thường. Nó vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống mãi trong tình thương nỗi nhớ rừng.
Đoạn thơ thứ tư thể hiện cảnh vườn bách thú dưới con mắt của con hổ, đó là cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối, nhàm chán “không đời nào thay đổi”. Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, không thay đổi và tù túng đó được con hổ nhìn nhận gợi nên không khí xã hội đương thời. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú cũng là thái độ của nhiều người, nhất là thanh niên thời đó với xã hội. Đối lập với cảnh vườn bách thú là cảnh rừng nơi con hổ ngự trị ngày xưa. Rừng núi đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Giữa nơi hoang vu, cao cả, âm u, chúa sơn lâm hiện ra đầy oai phong, lẫm liệt:
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Những câu thơ này đã diễn tả tinh tế vẻ đẹp vừa dũng mãnh, uy nghi, vừa mềm mại uyển chuyển của chúa sơn lâm. Những câu thơ của đoạn 3 đã miêu tả bốn cảnh đẹp của núi rừng và nổi bật trên khung cảnh vừa lộng lẫy, dữ dội, vừa hùng tráng, thơ mộng là hình ảnh con hổ chúa tể, như một vị đế vương đầy quyền uy, đầy tham vọng. Nó uống ánh trăng tan, nó nghe chim ca, nó ngắm giang san, nó muốn chiếm lấy bí mật của vũ trụ. Đúng là một thời oanh liệt, thời huy hoàng.
b) Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong đoạn thơ thứ hai và thứ ba rất đặc biệt. Một loạt những từ chỉ sự cao cả, lớn lao, hoành tráng của núi rừng: Bóng cả, cây già, gào, hét, thét. Trong khi đó, hình ảnh con hổ thì khoan thai, chậm rãi, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng. Diễn tả sức mạnh tuyệt đối của con hổ không phải bằng tiếng hổ gầm, mà là ánh mắt dữ dội:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Sang khổ thơ sau, hàng loạt những điệp ngữ như nhắc đi nhắc lại một cung bậc nuối tiếc, hoài niệm: Nào đâu những, đâu những, đâu những, đâu những… Sau mỗi câu này là một câu hỏi. Và kết thúc là câu hỏi thứ năm, vừa hỏi, nhưng cũng như là khẳng định: thời oanh liệt nay chỉ còn trong quá khứ, trong hồi tưởng mà thôi. Những hình ảnh đêm trăng, mưa, nắng, hoàng hôn vừa đẹp lộng lẫy, vừa dữ dội đã góp phần dựng lại một thời oanh liệt của chúa sơn lâm khi còn tự do.
c) Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, nơi cầm tù, nơi tầm thường, trì đọng với nơi đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm… nhà thơ đã thể hiện tâm trạng con hổ chán ngán, khinh ghét, căm thù cũi sắt, căm thù cảnh tầm thường, đối kháng điệu. Và luôn luôn hoài niệm, luôn hướng về thời oanh liệt ngày xưa. Tâm sự ấy là tâm trạng lãng mạn, thích những gì phi thường, phóng khoáng, đồng thời gần gũi với tâm trạng người dân mất nước khi đó. Họ cảm thấy “nhục nhằn tù hãm”, họ nhớ tiếc thời oanh liệt của cha ông với chiến công chống giặc ngoại xâm. Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của họ. Chính vì thế mà người ta say sưa đón nhận bài thơ.
Câu 3. Tác giả mượn lời con hổ ở vườn bách thú là rất thích hợp. Nhờ đó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Bản thân con hổ bị nhốt trong cũi là một biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, đồng thời thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự u uất, không bao giờ thoả hiệp với thực tại. Một điều nữa, mượn lời con hổ, tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Dù sao, bài thơ vẫn khơi gợi lòng khao khát tự do và yêu nước thầm kín của những người đương thời.
Câu 4*. Nhà phê bình Hoài Thanh đã đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Bên trên đã nói đến những điệp từ tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt (Nào đâu, đâu những…) Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm:
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình. Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên:
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Câu thơ: “Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau – điều đó như mô phỏng sự đối kháng điệu, tầm thường của cảnh vật. Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng điệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.
III. Rèn luyện kỹ năng
– Điều đặc biệt đáng chú ý trước hết trong bài thơ này là lời đề từ: “Lời con hổ ở vườn bách thú”. Lời đề từ này có tính định hướng cho việc thể hiện giọng đọc, nhằm thể hiện “lời” của con hổ – chúa tể sơn lâm từng oai linh gầm thét, nay bị nhốt trong “vườn bách thú” chật hẹp. Nghịch cảnh thật là trớ trêu.
– Điều đáng chú ý thứ hai là: Thế Lữ đã mượn lời con hổ để thể hiện nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt. Phảng phất trong bài thơ có nỗi đau thầm kín của Thế Lữ và cũng là của những người thanh niên thuở ấy trước cảnh nước mất nhà tan. Do đó, có thể: Đọc bài thơ bằng giọng trầm, âm điệu tha thiết mạnh mẽ, thể hiện nỗi đau âm thầm, lòng kiêu hãnh và khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ. Đọc nhấn mạnh các từ ngữ:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Có thể bạn thích: