“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là câu chuyện về bi kịch mất nước của cha con An Dương Vương và bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy. Từ câu chuyện ấy, nhân dân ta muốn rút ra và truyền lại cho con cháu các thế hệ sau bài học lịch sử về ý thức đề cao cảnh giác với âm mưu xâm lược của kẻ thù. Với top các bài soạn: “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” hay nhất dưới đây, TopChuan.com chúc các em có quá trình soạn bài thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu, nắm vững nội dung kiến thức trọng tâm của bài học hiệu quả hơn tại lớp.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ – Bài 1
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Các chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương:
+ An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều bị lở.
+ Vua được thần Kim Quy giúp xây thành và cho vuốt để làm lẫy chế nỏ thần.
+ Nhờ nỏ thần, vua đánh thắng Triệu Đà lần thứ nhất.
+ Vua chủ quan khi Triệu Đà đem quân đánh lần thứ hai
+ Vua mang con bỏ chạy, nhờ thần Kim Quy cứu và chém chết Mị Châu.
a) ) An Dương Vương được thần linh giúp đỡ:
-Do sớm có ý thức giữ gìn đất nước, lo xây thành để chống giặc ngoại xâm mà An Dương Vương được thần linh giúp đỡ.
– Kể về sự giúp đỡ thần kì đó, dân gian muốn thể hiện cách đánh giá về nhà vua: biết ơn, ca ngợi công lao xây thành, chế nỏ để chống giặc giữ nước.
b) Sự mất cảnh giác của nhà vua được biểu hiện qua các chi tiết:
– Vua đồng ý lời cầu hôn, gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy, lại cho Thủy ở rể. ⇒ Vua mơ hồ trước âm mưu muốn xâm chiếm Âu Lạc một lần nữa của kẻ thù.
– Khi Triệu Đà đem quân đánh lần thứ hai, vua không kiểm tra lại vũ khí để đến khi quân giặc kéo sát thành, phải mang Mị Châu bỏ chạy. ⇒ Vua chủ quan khinh địch, không có cái nhìn sáng suốt với tình thế.
c) Qua các chi tiết sáng tạo, nhân dân muốn biểu lộ thái độ, tình cảm:
+ Chi tiết vua nghe theo lời kết án của thần Kim Quy, rút gươm chém Mị Châu: gửi gắm lòng kính trọng đối với vị vua anh hùng, dám hy sinh tình cảm cha con thiêng liêng để giữ tròn bổn phận với đất nước.
+ Các chi tiết liên quan đến Mị Châu:
Phê phán thái độ mất cảnh giác, quá xem trọng tình cảm cá nhân của Mị Châu.
Giải thích nguyên nhân, xoa dịu nỗi đau mất nước 1 cách nhẹ nhàng.
Câu 2 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Cách lí giải 1: Mị Châu làm vậy chỉ là thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước. ⇒ Việc làm của Mị Châu là do quá trọng tình cảm cá nhân mà thiếu sự suy xét.
Cách lí giải 2: Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp lí ⇒ Cách lí giải này có thể được xuất phát từ luân lí của chế độ phong kiến, là khi người phụ nữ đã xuất giá thì phải nhất nhất nghe theo lời chồng.
Tuy nhiên, cả hai các lí giải trên đều chưa hợp lí và chưa được suy xét toàn diện: Mị Châu là một nạn nhân của âm mưu chính trị. Đối với chồng, nàng chỉ là người vợ trọng tình và cả tin; nhưng đối với quốc gia, nàng mang trọng tội không thể tha thứ được.
Câu nói cuối cùng của Mị Châu đã khẳng định tấm lòng không mang mưu đồ hại cha bán nước, mà chỉ là bị kẻ gian lợi dụng đã chỉ rõ bản chất đáng thương nhiều hơn đáng trách của Mị Châu.
Câu 3 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Chi tiết hư cấu sau cái chết của Mị Châu mang những ý nghĩa:
+ Mị Châu bị kết tội, bị chính cha của mình trừng trị là một dứt khoát. ⇒ hành động này xuất phát từ tinh thần yêu nước, căm ghét kẻ bán nước của dân tộc ta.
+ Máu của Mị Châu biến thành ngọc trai, xác biến thành ngọc thạch đã thể hiện cái nhìn cảm thông, bao dung với nàng của nhân dân.
+ Cái chết của Mị Châu là lời nhắn nhủ của tác giả dân gian đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa cái riêng với cái chung, giữa tình cảm cá nhân với lợi ích của cả quốc gia.
Câu 4 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Ý nghĩa của cặp hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”:
+ Ngọc trai: do máu của Mị Châu hóa thành, như lời chứng minh tấm lòng trong sạch, không có mưu đồ hại cha bán nước của Mị Châu.
+ Giếng nước: Nơi Trọng Thủy gieo mình xuống tự vẫn vì quá hối hận và thương tiếc Mị Châu.
+ Việc lấy ngọc trai đem rửa với nước giếng này lại càng sáng trong là sự khẳng định, Trọng Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia.
+ Cặp hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là sự thể hiện niềm thương xót cho tình ái của Mị Châu – Trọng Thủy; đồng thời là kết thúc hoàn mỹ cho một tình ái nhiều đau khổ, nỗi niềm này.
Câu 5 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
– Cốt lõi lịch sử:
+ An Dương Vương xây thành Cổ Loa
+ Nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược
– Sự thần kì hóa cốt lõi lịch sử của dân gian:
+ Thần Kim Quy giúp vua xây thành, chế nỏ
+ Vua An Dương Vương theo thần Kim Quy xuống biển.
+ Chi tiết “ngọc trai – giếng nước”.
– Việc tạo ra các yếu tố thần kì này có tác dụng:
+ Tái hiện một câu chuyện lịch sử dưới cái nhìn của dân gian khác lạ và hấp dẫn hơn
+ Lí tưởng hóa vua An Dương Vương. Vua không chết mà chỉ bước sang một thế giới khác.
+ Mị Châu đã được rửa tội “bán nước”, chứng minh được lòng trong sạch của mình.
+ Khẳng định tình cảm của Trọng Thủy – Mị Châu là chân thành, cuối cùng cũng có một cái kết vẹn tròn nhất.
Luyện tập:
Câu 1 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Đánh giá về Trọng Thủy ở cả hai ý kiến a) và b) đều chưa được toàn diện và xác đáng.
+ Đối với đất nước Âu Lạc:
Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần để giup Triệu Đà xâm lược Âu Lạc thành công
Trọng Thủy là người trực tiếp gây nên cái chết cho hai cha con An Dương Vương.
⇒ Về phương diện này, Trọng thủy là kẻ đáng trách, đáng lên án.
+ Đối với tình cảm vợ chồng với Mị Châu:
Trọng Thủy tiếc thương tình cảm vợ chồng, biết được chiến tranh sắp diễn ra, cố gắng tìm cách để vợ chồng sau này được đoàn tụ.
Trọng Thủy vì quá ân hận, thương tiếc, đau đớn cho Mị Châu mà nhảy xuống giếng tự vẫn.
⇒ Về phương diện này, Trọng thủy là kẻ si tình đáng thương.
Câu 2 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
An Dương Vương đã tự tay giết chết người con gái duy nhất của mình nhưng lại được dân gian dựng đền và am thờ hai cha con ngay cạnh nhau. Cách xử lí như vậy nói lên truyền thống nhân đạo, bao dung và nhân hậu của nhân dân ta.
Câu 3 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Bài thơ “Tâm sự” rút trong tập thơ “Ra trận” của nhà thơ Tố Hữu:
… Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu,
Trái tim lầm lỡ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu …
Nội dung chính:
Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ là 1 cách giải thích nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc. Qua đó, nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng đồng.
Hình tượng nhân vật và những chi tiết hư cấu trong truyện cho thấy mối quan hệ giữa phần cốt lõi lịch sử với phần tưởng tượng của dân gian.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ – Bài 4
1. Dựa theo cốt truyện, tìm những chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương.
Chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương:
– Vua An Dương Vương xây thành, làm nỏ thần được Rùa Vàng giúp đỡ: “Vua An Dương Vương nước Âu Lạc, họ Thục tên Phán … bèn xin hòa”.
– Vua gả con gái cho Triệu Đà.
– Quân Đà sang đánh, vua vẫn điềm nhiên, khi lấy nỏ thần ra bắn thì không kịp, nước mất.
– Vua chém Mị Châu, rồi rẽ xuống nước.
a) Do đâu mà An Dương Vương được thần linh giúp đỡ? Kể về sự giúp đỡ thần kì đó, dân gian muốn thể hiện cách đánh giá như thế nào về nhà vua?
– Do An Dương Vương lập đàn trai giới cầu thần linh nhờ giúp việc xây thành.
– Qua đây dân gian muốn ca ngợi nhà vua, tự hào về chiến công xây thành, chế nỏ, chiến thắng ngoại xâm của dân tộc.
b) Sự mất cảnh giác của nhà vua biểu hiện như thế nào?
– Thứ nhất, vua cho con gái lấy con trai của kẻ thù.
– Thứ hai, khi quân giặc tiến đánh lại mất cảnh giác ngồi ung dung đánh cờ, ỷ vào nỏ thần nên mất nước.
c) Sáng tạo những chi tiết về Rùa Vàng, Mị Châu, nhà vua tự tay chém đầu con gái… nhân dân muốn biểu lộ thái độ, tình cảm gì đối với nhân vật lịch sử An Dương Vương và việc mất nước Âu Lạc?
Nhân dân muốn gửi gắm lòng kính trọng đối với thái độ dũng cảm, sự dứt khoát phân biệt việc nước, việc nhà, giữa kẻ thù và tình thân của An Dương Vương, phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu.
2. Về việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần, có hai cách đánh giá. Ý kiến riêng của anh (chị) như thế nào?
Mị Châu đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần chứng tỏ lòng tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho chồng. Xét về tình cảm vợ chồng trong gia đình, nếu như vợ chồng không tin tưởng nhau thì khó có thể sống thuận hòa, vui vẻ. Nếu Mị Châu không cho Trọng Thủy xem nỏ thần chứng tỏ nàng còn nghi ngờ lòng chung thủy, cũng như lòng lòng tin của chàng vào mối quan hệ hòa bình giữa hai quốc gia.
3. Mị Châu bị Rùa Vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu, nhưng sau đó máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch. Hư cấu như vậy, người xưa muốn bày tỏ thái độ và tình cảm như thế nào đối với nhân vật Mị Châu và muốn nhắn gửi điều gì đến thế hệ trẻ muôn đời sau?
Thái độ và tình cảm của nhân dân đối với nhân vật Mị Châu:
– Để Rùa Vàng kết tội, bị vua cha chém đầu nhân dân ta đã nghiêm khắc trừng trị tội ác của kẻ bán nước, nối giáo cho giặc dù đó là vô tình hay cố ý. Điều này xuất phát từ truyền thống yêu nước, lòng tha thiết với độc lập tự do.
– Để máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch nhân dân đã chứng minh tấm lòng trong sạch của Mị Châu khi không cố tình để lộ cơ mật quốc gia cho giặc. Qua đây, cũng thể hiện sự bao dung, vị tha của nhân dân ta với lỗi lầm của Mị Châu.
Nhân dân muốn nhắn gửi đến thế hệ trẻ: Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nước với nhà, giữa việc chung với việc riêng, giữa cá nhân với cộng đồng cần tỉnh táo, riêng tư phân minh để giải quyết các mối quan hệ được trọn vẹn, hòa thuận.
4. Trọng Thủy gây nên sự sụp đổ cơ đồ Âu Lạc và cái chết của Mị Châu. Vậy anh (chị) hiểu như thế nào về hình ảnh “ngọc trai –giếng nước”?
Hình ảnh “ngọc trai –giếng nước” là hình ảnh của Mị Châu và Trọng Thủy, hình ảnh minh chứng cho tình cảm thủy chung của hai người. Hình ảnh “giếng nước” là sự chứng nhận cho sự hóa giải tội lỗi, cho sự hối hận của Trọng Thủy.
5. Từ những điều đã phân tích, anh (chị) hãy cho biết đâu là “cốt lõi lịch sử” của truyện và cốt lõi lịch sử đó đã được dân gian thần kì hóa như thế nào?
– “Cốt lõi lịch sử” của truyện: nước Âu Lạc thời An Dương Vương được dựng lên, có thành cao, hào sâu, vũ khí đủ mạnh để chiến quân xâm lược Triệu Đà, sau đó lại để mất nước vào tay Triệu Đà, và Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ thần – chính là nỏ Liên Châu.
– “Cốt lõi lịch sử” được dân gian thần kì hóa : nhân vật Rùa Vàng xuất hiện thần kì hóa chiến công xây thành, chế nỏ của dân tộc ta. Mối tình Mị Châu và Trọng Thủy được thần kì hóa để giải thích cho việc mất nước, nhằm giảm bớt nỗi đau. Chi tiết Mị Châu và Trọng Thủy hóa ngọc trai và giếng nước nhằm thể hiện sự trong sạch của Mị Châu và lòng chung thủy của Trọng Thủy.
LUYỆN TẬP:
1. Có hai cách đánh giá như sau:
a) Trọng Thủy chỉ là một kẻ gián điệp, ngay cả việc yêu Mị Châu cũng chỉ là giả dối.
b) Giữa Mị Châu và Trọng Thủy có tình yêu thủy chung và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” đã ca ngợi tình ái đó.
Anh (chị) hãy trình bày ý kiến riêng của mình.
Trọng Thủy là người có tình yêu thực sự với Mị Châu khi đã tử tự theo vợ của mình, trong khi đãng lẽ chàng đã hưởng hạnh phúc mới với vinh hoa phú quý. Nhờ tình yêu với Mị Châu mà chàng hóa thành “giếng nước” mà chết. Từ đây, tình ái ấy được lưu truyền đến ngàn đời sau.
2. An Dương Vương đã tự tay chém đầu người con gái duy nhất của mình nhưng dân gian lại dựng đền và am thờ hai cha con ngay cạnh nhau. Cách xử lí như vậy nói lên điều gì trong đạo lí truyền thống của dân tộc ta?
Cách xử lí này phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc ta. Đó là sự bao dung đối với những đứa con của dân tộc đã trót có thời lầm lỡ gây tai họa cho nhân dân, nhưng về sau đã biết hối hận và chịu hình phạt xứng đáng.
3. Tìm hiểu số bài thơ viết về Mị Châu – Trọng Thủy và nêu lên sức sống lâu bền của Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
Mị Châu – Trọng Thủy
(Tản Đà)
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi máy
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Duyên nọ tình kia dở dở dang!
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Nghìn thu khói nhang
Khi quay lại chém con sau yên ngựa
An Dương Vương, người đã nghĩ suy gì?
Hay cùng đường, người nào cũng là giặc giã
Và nghe lời mách bảo của Kim Quy.
Mỵ Châu
(Vương Đình Trọng)
Kẻ thù ở sau lưng – dù lời thần đi nữa
Người phải trông bằng chính mắt của mình
Công chúa Mỵ Châu nép Vua cha, run sợ
Khi nửa trời khói lửa đao binh
Lông ngỗng rơi, lông ngỗng rơi trắng lối
Dứt áo ra như dứt thịt da mình
Phút ly loạn, chàng ở đâu chẳng tới
Trọng Thủy ơi, thiếp đã chạy xa thành!
Nước mắt rơi xoay tròn cơn gió
Lưng Cha cùng lưng ngựa đẫm mồ hôi
Lông ngông hết, thiếp sẽ rời lựng ngựa
Làm chiếc lông cuối cùng đợi chàng đấy, chàng ơi.
Và bất ngờ, An Dương Vương quay lại
Tưởng có lời an ủi của vua cha
Mỵ Châu ngửng mặt nhìn chờ đợi
Từ trời cao, một đường kiếm sáng loà
Không phải lông ngỗng rơi mà đầu lăn xuống đất
Nằm cuối đường như dấu chấm câu
Sao bi chém? Mỵ Châu không hề biết
Máu tụ thành sỏi đá đất Hoan Châu.
Đã là vua lại có thần mách bảo
Tưởng sáng suốt hai lần và công lý gấp đôi
Mà người chết, không hiểu sao mình chết
Thì hồn oan còn đập cửa muôn đời.
Mấy ngàn năm dâu bể, lở bồi
Lúc yên bình và cả khi giặc giã
Xin đừng trách Mỵ Châu thêm nữa
Yêu chân thành, thật có tội gì đâu?
Viết về Mỵ Châu – Trọng Thủy đã có rất nhiều bài thơ ra đời. Có thể nói tác phẩm đã có sức âm hưởng mãnh liệt và làm người đọc day dứt bởi tình ái sâu nặng, oan trái giữa hai người.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ – Bài 5
Câu 1.
Dựa theo cốt truyện, tìm những chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương. Trên cơ sở các chi tiết đã liệt kê anh (chị) hãy phân tích:
a) Do đâu mà An Dương Vương được thần linh giúp đỡ? Kể về sự giúp đỡ thần kì đó, dân gian muốn thể hiện cách đánh giá như thế nào về nhà vua?
b) Sự mất cảnh giác của nhà vua biểu hiện như thế nào?
c) Sáng tạo những chi tiết về Rùa Vàng, Mị Châu, nhà vua tự tay chém đầu con gái… nhân dân muốn biểu lộ thái độ, tình cảm gì đối với nhân vật lịch sử An Dương Vương và việc mất nước Âu Lạc?
Trả lời:
Các chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương:
– Vua An Dương Vương xây thành nhưng thất bại.
– An Dương Vương xây thành, làm nỏ thần được Rùa Vàng giúp đỡ: “Vua An Dương Vương nước Âu Lạc, họ Thục tên Phán … bèn xin hòa”.
– Vua đánh thắng Triệu Đà lần thứ nhất.
– Vua gả con gái cho Triệu Đà.
– Quân Đà sang đánh, vua chủ quan vẫn điềm nhiên, khi lấy nỏ thần ra bắn thì không kịp, nước mất.
– Vua thất bại, chém Mị Châu, rồi rẽ xuống nước.
a) An Dương Vương được thần linh giúp đỡ là do ông đã có ý thức đề cao cảnh giác, sớm lo việc xây thành đắp lũy và chuẩn bị vũ khí để chống ngoại xâm.
Qua việc kể về sự giúp đỡ thần kì đó, dân gian muốn ca ngợi nhà vua, tự hào về chiến công xây thành, chế nỏ, chiến thắng ngoại xâm của dân tộc.
b) Sự mất cảnh giác của nhà vua biểu hiện ở các chi tiết:
– Thứ nhất, vua chấp nhận lời cầu hòa, cho con gái lấy con trai của kẻ thù và ở rể.
– Thứ hai, khi quân giặc tiến đánh lại mất cảnh giác ngồi ung dung đánh cờ, ỷ vào nỏ thần nên mất nước.
c) Sáng tạo những chi tiết về Rùa Vàng, Mị Châu, nhà vua tự tay chém đầu con gái…, nhân dân muốn gửi gắm lòng kính trọng đối với thái độ dũng cảm, sự dứt khoát phân biệt việc nước, việc nhà, giữa kẻ thù và tình thân của An Dương Vương, phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu.
Câu 2.
Về việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần, có hai cách đánh giá như sau:
– Mị Châu làm vậy chỉ là thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước.
– Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp lí
Ý kiến riêng của anh (chị) thế nào?
Trả lời:
Những chi tiết liên quan đến vai trò của Mị Châu trong bi kịch mất nước của người Âu Lạc:
– Mị Châu ngây ngô cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần.
– Trên đường rút chạy, nàng còn rắc lông ngỗng cho Trọng Thủy và quân lính đuổi theo.
Sự mất cảnh giác của Mị Châu là ở chỗ đã cả tin đem trao vào tay giặc bí quyết chống giặc giữ nước của quốc gia. Hơn thế nữa khi hai cha con thất bại, nàng lại vì bị tình cảm lu mờ mà chỉ đường cho giặc khiến cho hai cha con bị rơi vào con đường cùng tận.
Thực ra ý kiến cho rằng “Mị Châu làm vậy là chỉ tuân theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ đối với Tổ quốc” và “việc Mị Châu tuyệt đối nghe và làm theo ý chồng là đương nhiên” là không thuyết phục dù chúng ta biết Mị Châu là một người vợ thời phong kiến. Khi dựng truyện, tác giả dân gian cũng chỉ muốn nhấn mạnh sự cả tin và ngây thơ của Mị Châu, vì thế mới có bài học giữ nước cay đắng, xót xa nhưng thấm thía truyền đến tận hôm nay.
Câu 3.
Mị Châu bị Rùa Vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu, nhưng sau đó máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch. Hư cấu như vậy, người xưa muốn bày tỏ thái độ và tình cảm như thế nào đối với nhân vật Mị Châu và muốn nhắn gửi điều gì đến thế hệ trẻ muôn đời sau?
Trả lời:
Thái độ và tình cảm của nhân dân đối với nhân vật Mị Châu:
– Để Rùa Vàng kết tội, bị vua cha chém đầu nhân dân ta đã nghiêm khắc trừng trị tội ác của kẻ bán nước, nối giáo cho giặc dù đó là vô tình hay cố ý. Điều này xuất phát từ truyền thống yêu nước, lòng tha thiết với độc lập tự do.
– Để máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch nhân dân đã chứng minh tấm lòng trong sạch của Mị Châu khi không cố tình để lộ cơ mật quốc gia cho giặc. Qua đây, cũng thể hiện sự bao dung, vị tha của nhân dân ta với lỗi lầm của Mị Châu.
Qua đây, nhân dân muốn nhắn gửi đến thế hệ trẻ muôn đời sau một thông điệp: Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nước với nhà, giữa việc chung với việc riêng, giữa cá nhân với cộng đồng cần tỉnh táo, riêng tư phân minh để giải quyết các mối quan hệ được trọn vẹn, hòa thuận.
Câu 4.
Trọng Thủy gây nên sự sụp đổ cơ đồ Âu Lạc và cái chết của Mị Châu. Vậy anh (chị) hiểu như thế nào về hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”?
Trả lời:
– Có thể nói Trọng Thủy là thủ phạm trực tiếp gây ra bi kịch của nước Âu Lạc và cái chết của hai cha con Mị Châu. Vừa là con, vừa là bề tôi, Trọng Thủy đã tuân thủ tuyệt đối theo mệnh lệnh của Triệu Đà. Nhìn ở khía cạnh này, Trọng Thủy đúng là một kẻ thù của dân tộc.
– Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một hình ảnh đẹp lại vừa giàu ý nghĩa. Nó là một sự kết thúc hoàn mĩ cho một mối tình. Chi tiết “ngọc trai” đã chứng thực được tấm lòng trong sáng của Mị Châu. Chi tiết “giếng nước” có hồn Trọng Thủy lại là chi tiết được dựng lên để hóa giải nỗi hối hận vô cùng và tội lỗi của nhân vật này. Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” với việc ngọc trai kia đem rửa trong nước giếng này lại càng sáng đẹp hơn còn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia. Nhìn ở khía cạnh này Trọng Thuỷ lại là một kẻ si tình thật đáng thương.
Câu 5.
Từ những điều đã phân tích, anh (chị) hãy cho biết đâu là “cốt lõi lịch sử” của truyện và cốt lõi lịch sử đó đã được dân gian thần kì hóa như thế nào?
Trả lời:
– “Cốt lõi lịch sử” của truyện: Nước Âu Lạc thời An Dương Vương được dựng lên, có thành cao, hào sâu, vũ khí đủ mạnh để chiến đấu với quân xâm lược Triệu Đà, sau đó lại để mất nước vào tay Triệu Đà, và Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ thần – chính là nỏ Liên Châu.
– “Cốt lõi lịch sử” được dân gian thần kì hóa: nhân vật Rùa Vàng xuất hiện thần kì hóa chiến công xây thành, chế nỏ của dân tộc ta. Mối tình Mị Châu và Trọng Thủy được thần kì hóa để giải thích cho việc mất nước, nhằm giảm bớt nỗi đau. Chi tiết Mị Châu và Trọng Thủy hóa ngọc trai và giếng nước nhằm thể hiện sự trong sạch của Mị Châu và lòng chung thủy của Trọng Thủy.
Soạn bài Truyện An Dương Vương (phần LUYỆN TẬP):
Câu 1.
Có hai cách đánh giá như sau:
a) Trọng Thủy chỉ là một kẻ gián điệp, ngay cả việc yêu Mị Châu cũng chỉ là giả dối.
b) Giữa Mị Châu và Trọng Thủy có tình yêu thủy chung và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” đã ca ngợi tình ái đó.
Anh (chị) hãy trình bày ý kiến riêng của mình.
Trả lời:
Về hai cách đánh giá “Trọng Thuỷ chỉ là kẻ gián điệp, ngay cả việc yêu Mị Châu cũng chỉ là giả dối” hay “Giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ có tình yêu chung thuỷ và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” đã ca ngợi tình ái đó” đều phiến diện và hời hợt. Đó là những cách đánh giá theo hướng quá tuyệt đối hóa 1 mặt của vấn đề.
Việc Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần, trực tiếp gây ra bi kịch mất nước của Âu Lạc và cái chết của hai cha con An Dương Vương là một điều đáng trách. Tuy nhiên, tình yêu mà Trọng Thủy dành cho Mị Châu cũng là chân thật và sâu nặng. Chính vì vậy đối với nhân vật này, chúng ta thấy vừa đáng thương lại vừa đáng giận.
Trọng Thủy là người có tình yêu thực sự với Mị Châu khi đã tử tự theo vợ của mình, trong khi đáng lẽ chàng đã hưởng hạnh phúc mới với vinh hoa phú quý. Nhờ tình yêu với Mị Châu mà chàng hóa thành “giếng nước” mà chết. Từ đây, tình ái ấy được lưu truyền đến ngàn đời sau.
Câu 2.
An Dương Vương đã tự tay chém đầu người con gái duy nhất của mình nhưng dân gian lại dựng đền và am thờ hai cha con ngay cạnh nhau. Cách xử lí như vậy nói lên điều gì trong đạo lí truyền thống của dân tộc ta?
Trả lời:
Cách xử lí này phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc ta. Đó là sự bao dung đối với những đứa con của dân tộc đã trót có thời lầm lỡ gây tai họa cho nhân dân, nhưng về sau đã biết hối hận và chịu hình phạt xứng đáng.
Câu 3.
Tìm hiểu số bài thơ viết về Mị Châu – Trọng Thủy và nêu lên sức sống lâu bền của Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
Trả lời:
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, cho đến tận ngày nay vẫn chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta đọc truyện để hiểu về lịch sử, để rút ra những bài học bổ ích cho mình và cho con cháu đời sau. Nhưng không chỉ thế, đọc truyền thuyết này, người ta còn muốn hiểu sâu sắc hơn bi kịch của một tình ái rất đẹp trong lịch sử.
Sức sống của truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy còn khơi nguồn cho những cảm hứng thi ca. Viết về Mị Châu – Trọng Thủy đã có rất nhiều bài thơ ra đời, có dư âm mãnh liệt và làm người đọc day dứt bởi tình ái sâu nặng, oan trái giữa hai người.
Các tác giả như Tố Hữu, Trần Đăng Khoa… đều đã có những sáng tác lấy cảm hứng từ truyền thuyết này. Ví dụ trong bài thơ “Tâm sự” rút trong tập thơ “Ra trận” của nhà thơ Tố Hữu, có đoạn viết:
“… Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu,
Trái tim lầm lỡ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…”
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ – Bài 3
Tóm tắt:
Sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Sau thất bại, Triệu Đà vờ làm hòa và cho con trai của mình là Trọng Thủy sang cầu hôn công chúa Mị Châu và được vua đồng ý. Trọng Thuỷ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Theo dấu lông ngỗng, quân Triệu Đà đuổi theo được hai cha con An Dương Vương. Đến bờ biển, Rùa Vàng hiện lên kết tội Mị Châu là giặc, vua chém đầu Mị Châu rồi theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thuỷ mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương tiếc vợ, Trọng Thủy gieo mình xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.
==> Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là bi kịch lịch sử về việc để mất nước của cha con An Dương Vương và bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy.
Hướng dẫn soạn bài:
1. Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):Các chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương:
An Dương Vương xây thành nhưng thất bại => Rùa Vàng giúp xây thành và chế nỏ thần => vua đánh thắng Triệu Đà => chủ quan khi Triệu Đà đem quân đánh => thất bại nên phải bỏ trốn, sau khi nghe Rùa Vàng kết tội, vua chém đầu Mị Châu rồi theo Rùa Vàng xuống biển.
An Dương Vương được thần linh giúp đỡ bởi nhà vua đã có ý thức đề cao cảnh giác, sớm lo việc xây thành đắp lũy và chuẩn bị vũ khí để chống ngoại xâm. Tưởng tượng ra sự giúp đỡ thần kì này, nhân dân ta đã tỏ lòng ca ngợi công lao của nhà vua và tự hào về việc xây thành, chế nỏ và chiến công chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Sự mất cảnh giác của An Dương Vương được biểu hiện:
1) Lần mất cảnh giác thứ nhất: vua không nghi ngờ gì đã đồng ý kết thông gia với Triệu Đà, mở đường cho con trai đối phương lọt vào làm nội gián
2) Lần mất cảnh giác thứ hai: khi Triệu Đà kéo quân đến, An Dương Vương ỷ vào nỏ thần mà không đề phòng nên bại trận.
Chi tiết Rùa Vàng, Mị Châu và việc vua chém đầu con gái theo lời kết án của Rùa Vàng được sáng tạo ra để nhân dân ta gửi gắm lòng kính trọng đối với vị vua anh hùng đồng thời phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu, là lời giải thích lí do mất nước nhằm xoa dịu nỗi đau mất nước.
2. Câu 2 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Đánh giá việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần:
– Nhận xét về ý kiến thứ nhất: Nếu chấp nhận cách đánh giá này thì lỗi của Mị Châu rất lớn. Nàng là một người vì tình riêng mà không có trách nhiệm với quốc gia, không quan tâm tới vận mệnh dân tộc. Một công dân như thế thì đối với bất kì thời đại nào cũng không chấp nhận được
– Nhận xét về ý kiến thứ hai: Cách đánh giá này xuất phát từ luân lí của chế độ phong kiến, người phụ nữ “xuất giá tòng phu” – khi lấy chồng, phải tuyệt đối nghe theo lời chồng.
Cả hai cách nghĩ đều chưa thỏa đáng. Mị Châu là một nạn nhân đáng thương của một mưu đồ chính trị. Nàng nhẹ dạ, cả tin, ngây thơ và khờ dại. Vì tin tưởng chồng 1 cách trọn vẹn mà mắc sai lầm. Đối với quốc gia, nàng có tội lớn, không thể tha thứ được. Nhưng chi tiết lời nguyền của nàng trước khi chết được ứng nghiệm đã nói lên rằng: Người Việt Nam không ai chịu bán nước mà họ chỉ bị kẻ địch lợi dụng mà thôi. Do đó, Mị Châu cũng đáng được chúng ta cảm thông và nàng đáng thương nhiều hơn đáng trách.
Câu 3 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Phần kết truyện liên quan đến cái chết của Mị Châu thể hiện hai cái nhìn tưởng như trái ngược nhưng lại rất thống nhất của tác giả dân gian. Mị Châu bị trừng trị là một dứt khoát, nhân dân ta đã tuyên án và thi hành bản án của lịch sử. Cách kết thúc này xuất phát từ truyền thống yêu nước và lòng thiết tha với độc lập tự do của người Việt ta.
Nhưng Mị Châu cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương. Phải mang danh “là giặc” là nỗi oan của Mị Châu vậy nên dân gian đã để lời nguyền của nàng trở thành hiện thực để thể hiện sự cảm thông, bao dung với nàng. Câu chuyện của Mị Châu quả đúng là lời nhắn nhủ của tác giả dân gian đối với thế hệ trẻ muôn đời trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tình nhà với nghĩa nước, giữa cái riêng với cái chung.
Câu 4 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một hình ảnh đẹp và giàu ý nghĩa. Nó là một sự kết thúc hoàn mỹ cho một tình ái và cũng là lời giải oán cho tội “bán nước” của Mị Châu. Chi tiết máu của Mị Châu khi chết đi được loài trai ăn phải thì hóa thành ngọc trai đã chứng thực được tấm lòng trong sáng của nàng. Việc Trọng Thủy gieo mình xuống giếng nước đã thể hiện sự hối hận của nhân vật khi đã phụ người vợ của mình. Việc ngọc trai kia đem rửa trong nước giếng này lại càng sáng đẹp hơn còn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia. Nếu đứng ở bình diện này, ta càng thấy thương xót cho tình ái của Mị Châu – Trọng Thủy.
Câu 5 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
“Cốt lõi lịch sử” của truyện là việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa và sự thực về sự thất bại của Âu Lạc trước sự xâm lược của Triệu Đà. Dân gian đã thêm vào các yếu tố thần kì để “cốt lõi lịch sử” thêm sinh động và hấp dẫn hơn. Đầu tiên, ta thấy hình tượng của thần Kim Quy hiện lên giúp vua xây thành, chế nỏ, chuyện lời nguyền của Mị Châu với chi tiết “ngọc trai – giếng nước” và sau cùng là vua An Dương Vương theo Rùa Vàng về biển. Việc tạo ra các yếu tố thần kì này đã tái hiện một câu chuyện lịch sử dưới cái nhìn của dân gian thật khác lạ: người anh hùng An Dương Vương không chết mà chỉ bước sang một thế giới khác, nàng Mị Châu đã được rửa tội “bán nước”, còn tình cảm đẹp của Trọng Thủy – Mị Châu đến cuối cùng cũng có một cái kết viên mãn nhất.
Luyện tập:
1. Cả hai cách đánh giá trên đều chưa được toàn diện và xác đáng. Cụ thể:
– Đối với đất nước Âu Lạc:
+ Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần khiến Âu Lạc bị xâm lăng
+ Là người trực tiếp gây nên cái chết cho hai cha con An Dương Vương.
⇒ Trọng thủy là kẻ gián điệp đáng trách, đáng lên án, yêu Mị Châu chỉ là giả dối
– Đối với Mị Châu:
+ Trọng Thủy tiếc thương tình cảm vợ chồng, biết được chiến tranh sắp diễn ra, cố gắng tìm cách để vợ chồng sau này được đoàn tụ.
+ Trọng Thủy vì quá ân hận, thương tiếc, đau đớn cho Mị Châu mà nhảy xuống giếng tự vẫn.
⇒ Trọng thủy là kẻ si tình đáng thương.
2. Cách xử lí này phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc, thể hiện sự bao dung đối với những đứa con của dân tộc đã trót có thời lầm lỡ gây tai họa cho nhân dân, nhưng về sau đã biết hối hận và chịu hình phạt xứng đáng.
3. Một số bài thơ về Mị Châu – Trọng Thủy:
* Mị Châu – Trọng Thủy (Tản Đà):
“Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi máy
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Duyên nọ tình kia dở dở dang!
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Nghìn thu khói nhang”
* Bài thơ Tâm sự rút trong tập Ra trận của Tố Hữu:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…”
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ – Bài 2
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Các chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương:
An Dương Vương xây thành nhưng thất bại => Rùa Vàng giúp xây thành và chế nỏ thần => vua đánh thắng Triệu Đà => chủ quan khi Triệu Đà đem quân đánh => thất bại nên phải bỏ trốn, sau khi nghe Rùa Vàng kết tội, vua chém đầu Mị Châu rồi theo Rùa Vàng xuống biển.
An Dương Vương được thần linh giúp đỡ bởi nhà vua đã có ý thức đề cao cảnh giác, sớm lo việc xây thành đắp lũy và chuẩn bị vũ khí để chống ngoại xâm. Tưởng tượng ra sự giúp đỡ thần kì này, nhân dân ta đã tỏ lòng ca ngợi công lao của nhà vua và tự hào về việc xây thành, chế nỏ và chiến công chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Sự mất cảnh giác của An Dương Vương được biểu hiện:
1) Lần mất cảnh giác thứ nhất: vua không nghi ngờ gì đã đồng ý kết thông gia với Triệu Đà, mở đường cho con trai đối phương lọt vào làm nội gián
2) Lần mất cảnh giác thứ hai: khi Triệu Đà kéo quân đến, An Dương Vương ỷ vào nỏ thần mà không đề phòng nên bại trận.
Chi tiết Rùa Vàng, Mị Châu và việc vua chém đầu con gái theo lời kết án của Rùa Vàng được sáng tạo ra để nhân dân ta gửi gắm lòng kính trọng đối với vị vua anh hùng đồng thời phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu, là lời giải thích lí do mất nước nhằm xoa dịu nỗi đau mất nước.
Câu 2 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Đánh giá việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần:
– Nhận xét về ý kiến thứ nhất: Nếu chấp nhận cách đánh giá này thì lỗi của Mị Châu rất lớn. Nàng là một người vì tình riêng mà không có trách nhiệm với quốc gia, không quan tâm tới vận mệnh dân tộc. Một công dân như thế thì đối với bất kì thời đại nào cũng không chấp nhận được
– Nhận xét về ý kiến thứ hai: Cách đánh giá này xuất phát từ luân lí của chế độ phong kiến, người phụ nữ “xuất giá tòng phu” – khi lấy chồng, phải tuyệt đối nghe theo lời chồng.
Cả hai cách nghĩ đều chưa thỏa đáng. Mị Châu là một nạn nhân đáng thương của một mưu đồ chính trị. Nàng nhẹ dạ, cả tin, ngây thơ và khờ dại. Vì tin tưởng chồng 1 cách trọn vẹn mà mắc sai lầm. Đối với quốc gia, nàng có tội lớn, không thể tha thứ được. Nhưng chi tiết lời nguyền của nàng trước khi chết được ứng nghiệm đã nói lên rằng: Người Việt Nam không ai chịu bán nước mà họ chỉ bị kẻ địch lợi dụng mà thôi. Do đó, Mị Châu cũng đáng được chúng ta cảm thông và nàng đáng thương nhiều hơn đáng trách.
Câu 3 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Phần kết truyện liên quan đến cái chết của Mị Châu thể hiện hai cái nhìn tưởng như trái ngược nhưng lại rất thống nhất của tác giả dân gian. Mị Châu bị trừng trị là một dứt khoát, nhân dân ta đã tuyên án và thi hành bản án của lịch sử. Cách kết thúc này xuất phát từ truyền thống yêu nước và lòng thiết tha với độc lập tự do của người Việt ta.
Nhưng Mị Châu cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương. Phải mang danh “là giặc” là nỗi oan của Mị Châu vậy nên dân gian đã để lời nguyền của nàng trở thành hiện thực để thể hiện sự cảm thông, bao dung với nàng. Câu chuyện của Mị Châu quả đúng là lời nhắn nhủ của tác giả dân gian đối với thế hệ trẻ muôn đời trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tình nhà với nghĩa nước, giữa cái riêng với cái chung.
Câu 4 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một hình ảnh đẹp và giàu ý nghĩa. Nó là một sự kết thúc hoàn mỹ cho một tình ái và cũng là lời giải oán cho tội “bán nước” của Mị Châu. Chi tiết máu của Mị Châu khi chết đi được loài trai ăn phải thì hóa thành ngọc trai đã chứng thực được tấm lòng trong sáng của nàng. Việc Trọng Thủy gieo mình xuống giếng nước đã thể hiện sự hối hận của nhân vật khi đã phụ người vợ của mình. Việc ngọc trai kia đem rửa trong nước giếng này lại càng sáng đẹp hơn còn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia. Nếu đứng ở bình diện này, ta càng thấy thương xót cho tình ái của Mị Châu – Trọng Thủy.
Câu 5 (trang 43 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
“Cốt lõi lịch sử” của truyện là việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa và sự thực về sự thất bại của Âu Lạc trước sự xâm lược của Triệu Đà. Dân gian đã thêm vào các yếu tố thần kì để “cốt lõi lịch sử” thêm sinh động và hấp dẫn hơn. Đầu tiên, ta thấy hình tượng của thần Kim Quy hiện lên giúp vua xây thành, chế nỏ, chuyện lời nguyền của Mị Châu với chi tiết “ngọc trai – giếng nước” và sau cùng là vua An Dương Vương theo Rùa Vàng về biển. Việc tạo ra các yếu tố thần kì này đã tái hiện một câu chuyện lịch sử dưới cái nhìn của dân gian thật khác lạ: người anh hùng An Dương Vương không chết mà chỉ bước sang một thế giới khác, nàng Mị Châu đã được rửa tội “bán nước”, còn tình cảm đẹp của Trọng Thủy – Mị Châu đến cuối cùng cũng có một cái kết viên mãn nhất.
Luyện tập:
Câu 1 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Đánh giá về Trọng Thủy ở cả hai ý kiến a) và b) đều chưa được toàn diện và xác đáng.
+ Đối với đất nước Âu Lạc:
Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần để giup Triệu Đà xâm lược Âu Lạc thành công
Trọng Thủy là người trực tiếp gây nên cái chết cho hai cha con An Dương Vương.
⇒ Về phương diện này, Trọng thủy là kẻ đáng trách, đáng lên án.
+ Đối với tình cảm vợ chồng với Mị Châu:
Trọng Thủy tiếc thương tình cảm vợ chồng, biết được chiến tranh sắp diễn ra, cố gắng tìm cách để vợ chồng sau này được đoàn tụ.
Trọng Thủy vì quá ân hận, thương tiếc, đau đớn cho Mị Châu mà nhảy xuống giếng tự vẫn.
⇒ Về phương diện này, Trọng thủy là kẻ si tình đáng thương.
Câu 2 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
An Dương Vương đã tự tay giết chết người con gái duy nhất của mình nhưng lại được dân gian dựng đền và am thờ hai cha con ngay cạnh nhau. Cách xử lí như vậy nói lên truyền thống nhân đạo, bao dung và nhân hậu của nhân dân ta.
Câu 3 (trang 43 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
Bài thơ “Tâm sự” rút trong tập thơ “Ra trận” của nhà thơ Tố Hữu:
… Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu,
Trái tim lầm lỡ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu …
Nội dung chính:
Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ là 1 cách giải thích nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc. Qua đó, nhân dân ta muốn nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng đồng.
Hình tượng nhân vật và những chi tiết hư cấu trong truyện cho thấy mối quan hệ giữa phần cốt lõi lịch sử với phần tưởng tượng của dân gian
Có thể bạn thích: