Trong chương trình Ngữ Văn 11, với bài học Vào phủ chúa Trịnh, học sinh cần soạn như thế nào? Dưới đây, TopChuan.com đã sưu tầm và tổng hợp được những bài soạn Vào phủ chúa Trịnh dành cho các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo.
Bài soạn tham khảo số 4
Bố cục: 3 phần
+ P1: Từ đầu đến…Đông Cung cho thật kĩ : Quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa
+ P2: Còn lại: Qúa trình bắt mạch, kê đơn cho thế tử và suy nghĩ tác giả
Nội dung bài học
Đoạn trích tái hiện chân thực bức tranh sinh hoạt sa hoa quyền quý nơi phủ chúa Trịnh, đồng thời, bộc lộ thái độ thanh cao, coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
– Quang cảnh trong phủ chúa:
+ Phải qua nhiều lần cửa, “ai muốn ra vào phải có thẻ”
+ Vườn hoa: cây hoa um tùm, chim kêu, gió đưa
+ Lầu son gác tía
+ Đồ đạc quý hiếm, sơn son thếp vàng
+ Nội cung thế tử: Phải qua năm sáu lần trướng gấm, phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt
=> Khung cảnh: lộng lẫy, tráng lệ
– Cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa:
+ Đầy quyền uy, có đầy tớ truyền lệnh
+ Nhắc đến chúa và thế tử một cách cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…
+ Không được trực tiếp nhìn mặt chúa, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
+ Nhiều phi tần, kẻ hầu người hạ, thế tử có 7-8 thầy thuốc,..
=> Cung cách sinh hoạt sa hoa quyền quý
– Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác: không màng tới những thứ sa hoa, không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu tự do
Câu 2 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
– Chi tiết đắt: “ Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ” hay chi tiết miêu tả về nơi ở của thế tử: qua năm sáu lần trướng gấm, phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt
– Các chi tiết thể hiện sự quyền quý, giàu có, chứng tỏ quyền uy và cuộc sống sa hoa, ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa lúc bấy giờ
Câu 3 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
– Cách chuẩn đoán, chữa bệnh và tâm tư khi kê đơn cho ta hiểu ông là:
+ Thầy thuốc giỏi, kinh nghiệm khi tìm ra căn nguyên bệnh tình thế tử
+ Giàu đức độ, tận tâm, hết lòng chữa bệnh vì bệnh nhân
+ Một người không màng danh lợi
Câu 4 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
– Đặc sắc trong bút pháp kí sự:
+ Ghi chép chi tiết, chân thực, tỉ mỉ (chứng minh trong một số đoạn miêu tả khung cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa)
+ Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn
+ Tả cảnh sinh động
Bài soạn tham khảo số 5
Câu 1 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
* Quang cảnh trong phú chúa:
– Rất nhiều lần cửa, năm sáu lần trướng gấm
– Canh giữ nghiêm ngặt
– Cảnh trí khác lạ: Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm…
– Trong phủ là những đại đồng, quyền bổng, gác tía, kiệu son, mâm vàng chén bạc.
– Nội cung thế tử có sập vàng, ghế rộng, nệm gấm, …
=> Quang cảnh cực kỳ xa hoa, lộng lẫy.
* Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:
– Vào phủ phải có thánh chỉ, có lính chạy thét đường.
– Trong phủ có một guồng máy phục vụ đông đảo, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan đi lại như mắc cửi.
– Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ.
– Chúa luôn phải có phi tần chầu chực, tác giả cũng không được thấy mặt chúa, tất cả chỉ làm theo lệnh và thông qua quan Chánh đường.
– Thế tử ốm và lúc nào cũng có tới 7 – 8 thấy thuốc túc trực, có người hầu cận hai bên. Tuy mới chỉ được năm, sáu tuổi nhưng khi vào xem mạch lẫn khi ra, người thầy thuốc phải cúi lạy cung kính.
=> Đó là những nghi lễ, khuôn phép cho thấy sự cao sang, quyền quý đến tột cùng. Đồng thời cũng thấy được một cuộc sống xa hoa, hưởng lạc, sự lộng hành nơi phủ chúa.
* Thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa:
– Thể hiện gián tiếp qua cách miêu tả, ghi chép tỉ mỉ, đầy đủ con đường vào phủ chúa từ khi truyền lệnh cho tới khi y lệnh về chờ thánh chỉ → Phơi bày sự xa hoa, quyền thế nơi phủ chúa.
– Thể hiện trực tiếp thông qua cách quan sát, những lời nhận xét và những lời bình giá của tác giả.
=> Tác giả tỏ ra thờ ơ, dửng dưng với cảnh giàu sang nơi phủ chúa. Đồng thời cũng kín đáo bộc lộ thái độ không đồng tình với cuộc sống quá đầy đủ, tiện nghi mà thiếu sinh khí.
Câu 2 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Những chi tiết “đắt” trong đoạn trích có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm:
– Chi tiết đối lập: thế tử – một đứa bé – ngồi chễm trệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban cho một lời khen “rất trẻ con”: Ông này lạy khéo!
– Chi tiết tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…”
=> Gợi nên một khung cảnh ngột ngạt bởi son vàng → sự tù đọng và nhức nhối.
=> Những chi tiết mà tác giả đưa ra rất chân thực, sắc sảo đồng thời bày tỏ thái độ coi thường danh lợi của người thầy thuốc giàu y đức
Câu 3 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Cách chuẩn đoán bệnh cùng những diễn biến tâm tư khi kê đơn của Lê Hữu Trác đã phản ánh rõ con người của ông:
– Ông muốn chữa bệnh cầm chừng cho thế tử nhưng lại thấy trái với y đức, phụ lòng của cha ông…
– Khi đã quyết định chữa bênh cho thế tử, mặc dù ý kiến của ông trái với ý của nhiều người nhưng ông vẫn bảo vệ, giữ nguyên ý kiến.
=> Phẩm chất của người thầy thuốc:
+ Tác giả là một người có kinh nghiệm, kiến thức sâu rộng.
+ Là một người thầy thuốc giàu y đức, coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà.
Câu 4 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả:
– Ngòi bút kể, tả trung thực, chi tiết, sắc sảo
– Nghệ thuật tả cảnh sinh động, chân thực
– Lựa chọn được những chi tiết nhỏ nhưng tạo nên cái thần của cảnh và việc.
– Giọng điệu thấp thoáng mỉa mai, châm biếm
Luyện tập
Câu hỏi (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1): So sánh đoạn trích trên với tác phẩm “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Trích Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ)
– Giống nhau: đều lột tả được hết hiện thực cuộc sống đồng thời thể hiện thái độ của tác giả. Cả hai bài đều phản ảnh thói sống xa hoa, hưởng lạc, sung sướng và bày tỏ thái độ phê phán của tác giả.
– Khác nhau:
+ “Vào phủ chúa Trịnh” là bài kí sự kể về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh. Nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài đó là: sự quan sat khách quan cùng ngòi bút kể, tả sắc sảo, có sự đan xen giữa thơ, lời bình và văn xuôi tạo nên chất trữ tình.
+ “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”: là tuỳ bút kể lại những thú vui ham chơi của Trịnh Sâm. Tác phẩm cũng đã ghi chép chân thực, sinh động: các chi tiết miêu tả tỉ mỉ và mang màu sắc u ám, có tính chất dự báo. Giọng điệu khách quan mà vẫn khéo léo để thể hiện thái độ lên án thói ăn chơi của bọn vua quan đương thời.
Bài soạn tham khảo số 2
Tóm tắt
“Vào phủ Chúa Trịnh” thuộc “Thượng Kinh kí sự”, là tác phẩm kí sự của Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông). Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” kể lại chuyến vào phủ Chúa để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán của chính tác giả. Qua chuyến đi đó, tác giả đã vẽ lại một bức tranh chân thực và sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của bản thân.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “phiền một nỗi là không có dịp”): Khung cảnh xa hoa, quyền quý nơi phủ Chúa hiện lên qua hành trình của Lê Hữu Trác.
– Phần 2 (đoạn còn lại): Lê Hữu Trác bắt mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử.
Câu 1 (trang 9 SGK): Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?
– Quang cảnh trong phủ Chúa: xa hoa, tráng lệ.
+ Trong phủ có đủ những loại cây lạ lùng, những hòn đá kì lạ, cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm.
+ Trong phủ rộng, có nhiều dãy nhà lớn, đường đi phức tạp: điếm “Hậu mã quân túc trực”, nhà “Đại đường”, “Quyển bồng”, “Gác tía” hay “phòng trà”.
+ Đồ đạc, cách bài trí trong phủ Chúa đều sang trọng, xa hoa:
→ sơn son thếp vàng, làm bằng vàng, toàn những đồ bài trí nhân gian chưa từng thấy;
→ đồ dùng ăn uống: mâm vàng, chén bạc, những của ngon vật lạ;
→ nơi ở của thế tử cũng bày trí toàn trướng gấm, sập thếp vàng, giá đồng, ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm.
– Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa: nhiều lễ nghi, uy nghiêm, ai nấy cũng cẩn trọng, Chúa và thế tử chính là trời, được trọng vọng, kính sợ.
+ Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, ai muốn ra vào cung phải có thẻ.
+ Thị vệ nghiêm cẩn, thận trọng với những người ra vào phủ Chúa.
+ Nhiều phi tần, giai nhân chầu chực quanh thánh thượng.
+ Trước thế tử, ai cũng phải co ro, khúm núm, lạy rồi thưa.
– Những quan sát, ghi nhận này của Lê Hữu Trác thể hiện cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa: Đó là sự choáng ngợp, xa lạ của tác giả trước vẻ xa hoa, quyền quý không một nơi nào trên nhân gian có được.
Câu 2 (trang 9 SGK): Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.
+ Chi tiết về nơi ở của thế tử: Tối om, không có cửa ngõ, nằm bên trong năm, sáu lần trướng gấm, bày biện hoa nến, người hậu hạ đứng xúm xít.
⇒ Nơi ở của thế tử xa hoa, sang trọng nhưng thực chất như một chiếc bình được đậy kín. Đây là cuộc sống được phong bế, ủ bọc quá mức.
+ Chi tiết về căn bệnh của thế tử: ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm, tạng phủ yếu đi, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, tay chân gầy gò.
⇒ Căn bệnh của thế tử chính là sản phẩm, là hệ quả của cuộc sống quá đủ đầy, dư thừa, xa hoa nơi phủ Chúa.
Câu 3 (trang 9 SGK): Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cũng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?
+ Cách chẩn đoán: Lê Hữu Trác nhận ra ngay nguyên do dẫn đến căn bệnh của thế tử, phương thuốc của ông đưa ra cũng cốt giữ lại thể chất bẩm sinh đã bị héo rũ đi.
+ Diễn biến tâm tư khi kê đơn: phân vân có nên dùng phương thuốc hòa hoãn hay không, cuối cùng Lê Hữu Trác đã chọn cách dốc hết cả lòng thành, lòng trung để chữa bệnh.
⇒ Lê Hữu Trác là con người không màng đến danh lợi, quyền quý, có lòng trung nghĩa.
⇒ Ông khiêm tốn dù rất có danh tiếng.
⇒ Ông còn là vị lương y chân chính, tài giỏi, chuyên chú chữa bệnh cứu người, sẵn sàng chịu trách nhiệm với đơn thuốc của mình kê.
Câu 4 (trang 9 SGK): Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.
+ Đậm đặc yếu tố miêu tả:
→ Tác giả miêu tả chi tiết, tường tận những điều trông thấy ở phủ Chúa: giúp khắc họa một bức tranh về cuộc sống nơi đây, gián tiếp thể hiện cách nhìn, thái độ choáng ngợp, “dị ứng” của ông.
+ Giọng văn mang sắc thái trung hòa, không bày tỏ cảm xúc trực tiếp:
→ Không áp đặt bằng những câu từ bình thán ⇒ Tạo nên sự khách quan trong việc miêu tả, đồng thời thể hiện thái độ dửng dưng trước quyền quý, vật chất.
Luyện tập
Câu 1: So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.
Vào phủ chúa Trịnh: Tác giả kể lại chuyến hành trình vào phủ Chúa để chữa bệnh cho thế thử của chính mình, qua đó khắc họa cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa đồng thời bày tỏ thái độ xem thường danh lợi, quyền quý.
Truyện Hồng Bàng Thị (trích Lĩnh Nam Chích Quái): Truyện lý giải nguồn gốc của người Bách Việt (nghĩa là người Việt ta ngày nay) thông qua câu chuyện của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhưng với cách kể rất khác so với truyền thuyết dân gian.
Nét đặc sắc của truyện Hồng Bàng thị:
→ Tác giả đã biến một truyền thuyết hư cấu của dân gian thành một câu chuyện có căn cớ lịch sử. Nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ được gán cho xuất thân rõ ràng hơn.
→ Câu chuyện này đã khẳng định nguồn gốc cao quý của người Việt, ca ngợi ý thức, sự đoàn kết dân tộc.
Ý nghĩa bài học
Đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của mình.
Bài soạn tham khảo số 1
Tóm tắt
Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.
– Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.
– Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác
Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
*Quang cảnh trong phủ Chúa
– Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.
– Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương
– Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
– Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc
– Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm
– Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che
⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng
* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa
– Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường
– Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi
– Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.
– Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa
– Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch
– Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về
⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.
* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ
– Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa
Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất
– “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.
– Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.
Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
– Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hưu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm
– Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
– Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị
Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện
– Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy
– Tả cảnh sinh động
– Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc
Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)
* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh
* Khác nhau:
– Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ
+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân
+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối
+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại
– Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác
+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực
+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo
+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác
Bài soạn tham khảo số 3
I. Về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Lê Hữu Trác (1724- 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên
– Ông vừa là một danh y, vừa là một nhà văn và nhà thơ lớn.
2. Tác phẩm: Thượng kinh kí sự (Kí sự lên kinh) là tập kí sự bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783, được xếp cuối bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh như một quyển phụ lục. Tác phẩm được viết bằng thể kí sự – một thể loại văn học mới xuất hiện ở thế kỉ XVIII, ghi chép những câu chuyện, những sự việc có thực và tương đối hoàn chỉnh.
Thượng kinh kí sự ghi lại những chuyện mắt thấy tai nghe của Lê Hữu Trác trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Tập kí sự tả lại quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và thế lực, quyền uy của nhà chúa. Câu chuyện kết thúc với việc Lê Hữu Trác được về lại quê nhà, trở về với cuộc sống tự do trong tâm trạng hân hoan để tiếp tục cống hiến đời mình cho y thuật.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trinh Cán.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.
– Phần 2 (còn lại): Qúa trình bắt mạch kê đơn và suy nghĩ của tác giả.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
* Đoạn trích vào phủ chúa Trịnh ghi lại một cách khá tỉ mỉ quang cảnh trong phủ chúa (được miêu tả từ ngoài → trong, từ bao quát đến cụ thể):
– Rất nhiều lần cửa, năm sáu lần trướng gấm
– Canh giữ nghiêm ngặt
– Cảnh trí khác lạ: Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm…
– Trong phủ là những đại đồng, quyền bổng, gác tía, kiệu son, mâm vàng chén bạc.
– Nội cung thế tử có sập vàng, ghế rộng, nệm gấm, màn là…
=> Quang cảnh cực kỳ xa hoa, lộng lẫy.
* Cùng với sự xa hoa trong quang cảnh là cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:
– Vào phủ phải có thánh chỉ, có lính chạy thét đường.
– Trong phủ có một guồng máy phục vụ đông đảo, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan đi lại như mắc cửi.
– Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ.
– Chúa luôn phải có phi tần chầu chực, tác giả cũng không được thấy mặt chúa, tất cả chỉ làm theo lệnh và thông qua quan Chánh đường.
– Thế tử ốm và lúc nào cũng có tới 7 – 8 thấy thuốc túc trực, có người hầu cận hai bên. Tuy mới chỉ được năm, sáu tuổi nhưng khi vào xem mạch lẫn khi ra, người thầy thuốc phải cúi lạy cung kính.
=> Đó là những nghi lễ, khuôn phép cho thấy sự cao sang, quyền quý đến tột cùng. Đồng thời cũng thấy được một cuộc sống xa hoa, hưởng lạc, sự lộng hành nơi phủ chúa.
* Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa:
– Thể hiện gián tiếp qua cách miêu tả, ghi chép tỉ mỉ, đầy đủ con đường vào phủ chúa từ khi truyền lệnh cho tới khi y lệnh về chờ thánh chỉ → Phơi bày sự xa hoa, quyền thế nơi phủ chúa.
– Thể hiện trực tiếp thông qua cách quan sát, những lời nhận xét và những lời bình giá của tác giả.
=> Tác giả tỏ thờ ơ, dửng dưng với cảnh giàu sang nơi phủ chúa. Đồng thời cũng kín đáo bộc lộ thái độ không đồng tình với cuộc sống quá đầy đủ, tiện nghi mà thiếu sinh khí.
Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất “đắt” thể hiện nổi bật nội giá trị hiện thực của tác phẩm:
– Chi tiết đối lập: thế tử – một đứa bé – ngồi chễm trệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban cho một lời khen “rất trẻ con”: Ông này lạy khéo!
– Chi tiết tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…” → Gợi nên một khung cảnh ngột ngạt bởi son vàng → sự tù đọng và nhức nhối.
=> Đọc đến chi tiết này chúng ta có thể hiểu nguyên nhân căn bệnh của thái tử Cán. Một đứa trẻ còn quá nhỏ nhưng lại bị kìm kẹp nơi thâm cung thiếu sinh khí tự nhiên để sống.
Ngoài ra, truyện còn nhiều chi tiết khác rất độc đáo, sắc sảo để giúp người đọc thấy được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa.
Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Khi chuẩn đoán bệnh và kê đơn thuốc cho thế tử, người đọc thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ sâu sắc của nhà văn.
– Ông muốn chữa bệnh cầm chừng cho thế tử nhưng lại thấy trái với y đức, phụ lòng của cha ông…
– Khi đã quyết định chữa bênh cho thế tử, mặc dù ý kiến của ông trái với ý của nhiều người nhưng ông vẫn bảo vệ, giữ nguyên ý kiến.
=> Phẩm chất của người thầy thuốc:
– Tác giả là một người có kinh nghiệm, kiến thức sâu rộng.
– Là một người thầy thuốc giàu y đức, coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà.
Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Đặc sắc trong nghệ thuật viết kí sự của nhà văn được thể hiện ở những điểm sau:
– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.
– Nội dung ghi chép trung thực.
– Cách kể chuyện khôn khéo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.
III. Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
So sánh đoạn trích …
Điểm chung của đa số các tùy bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy. Tuy nhiên mỗi tùy bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn truớc hiện thực; khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.
Có thể bạn thích: