“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí”. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau.
Bài soạn “Vợ nhặt” số 1
I. Đôi nét về tác giả Kim Lân
– Kim Lân sinh năm 1920, mất năm 2007, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
– Quê quán: làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
– Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa học vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn
– Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim)
– Năm 2001, Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật
– Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)
– Phong cách nghệ thuật: ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của ông vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa
II. Đôi nét về tác phẩm Vợ Nhặt
1. Hoàn cảnh ra đời
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.
2. Tóm tắt
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với môt cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.
3. Bố cục (4 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”): cảnh Tràng dẫn vợ về nhà
– Phần 2 (tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”): Lí giải việc Tràng nhặt được vợ
– Phần 3 (tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”): Cuộc gặp gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới
– Phần 4 (còn lại): Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng
4. Giá trị nội dung
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau
5. Giá trị nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, tự nhiên, kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo
– Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc
– Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vật
– Ngôn ngữ kể chuyện phong phú, cách kể chuyện gần gũi, tự nhiên
– Kết cấu truyện đặc sắc
Câu 1 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
– Phần 1 (từ đầu … “tự đắc với mình”): Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà
– Phần 2 (tiếp … “đẩy xe bò”): chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành chồng
– Phần 3 (tiếp … “nước mắt chảy ròng ròng”): tình thương của người mẹ nghèo khó
– Phần 4 (còn lại): niềm tin vào tương lai
Mạch truyện được dẫn dắt hợp lí, tất cả cảnh huống được thể hiện đều bắt nguồn từ việc Tràng thông qua lời nói đùa rồi nhặt được vợ giữa những ngày đói khủng khiếp
Cảnh được mở ra khi Tràng dẫn vợ về gặp mẹ. Nếu tác giả đưa đoạn hai lên trước theo trình tự thời gian thì truyện kém hấp dẫn, li kì
Câu 2 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tình huống: gọi gọn trong nhan đề tác phẩm vợ nhặt. Tràng- thanh niên nông dân nghèo, xấu, ế vợ bỗng nhặt được vợ dễ dàng
+ Trong thời gian đói kém 1945, hơn hai triệu người chết đói, cái giá của con người rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ dễ dàng
+ Khao khát hạnh phúc, tổ ấm, hi vọng vào ngày mai
Bà cụ Tứ ngạc nhiên, lo lắng “biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không?”
+ Xóm ngụ cư ngạc nhiên, bàn tán
+ Tràng bất ngờ với hạnh phúc của mình, sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng
→ Tình huống truyện cho thấy thân phận buồn tủi của người lao động nghèo, bộc lộ tấm lòng người nông dân trong cảnh đời cơ hàn, đói khổ: giàu tình cảm, luôn khao khát hạnh phúc.
Câu 3 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Nhan đề “Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm
+ Nhặt: thường đi với những thứ thừa, không ra gì
+ Thân phận con người rẻ rúng như rơm, rác, có thể nhặt được ở bất cứ đâu
+ Người ta hỏi cưới vợ, còn Tràng thì “nhặt vợ”
→ Hoàn cảnh sống khốn cùng, cực khổ
Câu 4 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Thể hiện khao khát về tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc anh chàng quyết định lấy vợ
+ Ban đầu, Tràng còn phân vân, do dự, về sau cũng chậc lưỡi cho qua (đúng với ý đồ tác giả)
+Lúc dẫn vợ về xóm ngụ cư, Tràng trở nên khác, phởn phơ lạ thường, môi cười tỉm tỉm, mắt sáng, mặt vênh tự đắc, cũng có lúc lúng ta lúng túng đi bên vợ
– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Tràng thấy êm ả, lửng lơ như người vừa từ trong giấc mơ đi ra, xung quanh có sự thay đổi khác lạ.
+ Niềm hạnh phúc khiến Tràng ý thức hơn về bổn phận, trách nhiệm bản thân (hắn thấy có bổn phận lo cho vợ con)
Câu 5 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tâm trạng bà cụ Tứ:
+ mừng, vui, xót, tủi “ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”
+ Đối với con dâu: “lòng bà đầy xót thương” nén vào trong tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình
+ Mang hi vọng, lạc quan trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới “tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi”
→ Bà cụ Tứ hiện thân của con người nghèo khổ: bà nhìn thấu đau khổ của cuộc đời bà, bà lo cho thực tại bế tắc nhưng bà cũng vui trước hạnh phúc của con
Từ ngạc nhiên tới xót xa, trên hết là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai, để các con có thêm động lực sống
Câu 6 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Đặc sắc nghệ thuật của truyện
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo
– Sử dụng ngôn ngữ bình dân, tinh tế, có duyên
– Nghệ thuật tả tâm lí tinh tế, đặc sắc
Luyện tập
Bài 1 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Chi tiết gây xúc động: Bà cụ Tứ đãi con dâu “chè khoán” nhưng thực chất là cám với sự xót xa “ Xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn đấy”
– Điều này gợi lên cảnh khốn cùng, nghèo đói của giai đoạn đau thương của đất nước ( nạn đói 1945)
+ Ngày đón dâu đáng ra phải đủ đầy, nhưng cách đón dâu trong cảnh nghèo đói lại càng cho ta thêm thấm thía tình người đùm bọc lẫn nhau trong lúc khó khăn
Bài 2 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Ý nghĩa đoạn kết truyện
+ Là diễn biến tất yếu xuất phát từ mâu thuẫn nội tại của chuyện: người dân lâm vào cảnh chết đói, đã đứng lên đấu tranh phá kho thóc Nhật
+ Nhân vật Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Minh
– Đoạn kết mang tư tưởng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, tư tưởng này không chỉ có cảm thông, thương xót mà còn hướng tới việc đấu tranh giải phóng bản thân
+ Xuất phát từ quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, nhân vật, hoàn cảnh, tính cách theo hướng vận động đi lên tươi sáng hơn
Bài soạn “Vợ nhặt” số 4
Kiến thức về tác phẩm
Trong hồi ức của mình (sách Cách mạng, Kháng chiến và đời sống văn học, Tác phẩm mới, 1986) Kim Lân viết:
“Vợ nhặt” thực ra là một chương được viết lại của truyện dài “Xóm ngụ cư” mà tôi đã viết dở dang. Nội dung truyện dài này nói về thân phận của những con người bị khinh rẻ với cuộc sống nghèo đói, bệnh tật kéo dài cho đến ngày khởi nghĩa.Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh, khốn khổ nào, người nông dân vẫn cứ khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, dể mà hi vọng”.
Đây là một tác phẩm được đánh giá rất cao trong nền văn xuôi hiện đại. Theo nhiều người, “Vợ nhặt” thuộc số những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Tên truyện là Vợ nhặt ý chỉ vợ của Tràng là “Vợ nhặt”. Anh dân nghèo nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc riêu cua. Điều này cho thấy thân phận con người, trong hoàn cảnh mất nước bị bọn xâm lược đẩy vào nạn đói như nạn đói ở nước ta năm 1945 thật là rẻ rúng. Người ta có thể dễ dàng nhặt được một người vợ hẳn hoi như nhặt được cái rơm, cái rác vậy.
Truyện kể về Tràng, một thanh niên chưa lập gia đình, là dân ngụ cư. Trong lúc trận đói xảy ra dữ dội, đói đến người chết đầy đường, lũ trẻ trong xóm ngồi ủ rũ và không buồn nhúc nhích. Tràng lại dắt về căn nhà ọp ẹp của mình một người đàn bà. Điều này đã làm cho mọi người trong xóm hết sức kinh ngạc và đã làm cho bộ mặt của xóm ngụ cư thay đổi hẳn như thể có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát và tối tăm ấy.
Người đàn bà này theo Tràng về nhà làm vợ anh. Chỉ cần một lần đùa giỡn, hai người đã quen nhau. Tràng cũng không thể ngờ cô ta có thể về nhà chỉ vì một câu nói đùa của anh: “Có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe mà về”. Có vợ là việc hết sức bất ngờ đối với Tràng và với cả mẹ anh nữa. Bà cũng không bao giờ tưởng tượng được là mình sẽ có con dâu trong hoàn cảnh đói kém này. Có người đàn bà, cảnh nhà Tràng bỗng ấm cúng hẳn lên. Bà cụ nghĩ đến việc nuôi một đôi gà và hình dung ra đàn gà con tíu tít. Tới bữa ăn, gia đình quây quần vui vẻ nhưng trận đói vẫn hoành hành. Họ phải ăn cháo bằng cám nấu. Niềm vui chợt tắt, nhưng qua thông tin mới của người vợ, Tràng biết là Việt Minh đã phá kho thóc Nhật. Hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ phấp phới bay hiện ra trong óc Tràng như Tràng đã từng nhìn thấy mà không biết.
Như thế, tình huống truyện Vợ nhặt thật độc đáo và cảm động. Anh Tràng, một anh nông dân làm nghề kéo xe, xấu xí, thô kệch, nghèo xác xơ .lại là dân “ngụ cư” bị khinh bỉ, bỗng nhiên “nhặt” được vợ dễ dàng, nhanh chóng, ở ngay giữa đường giữa chợ, nhờ mấy bát bánh đúc riêu cua và mấy lời đùa giỡn tầm phào. Tình huống éo le trên nêu bật hai ý nghĩa của thiên truyện. Một là tố cáo tội ác thực dân phát xít và bọn tay sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. Bóng đen của cái chê’t do đó phủ xuống mọi xóm làng đến nỗi con người trở thành rẻ rúng thảm hại, không hơn gì cái rơm cái rác có thể nhặt được ở bất cứ đầu đường xó chợ nào. Iỉai là tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của người dân lao động. Dù rơi vào hoàn cảnh hết sức bi đát họ vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn muốn cưu mang lẫn nhau và vẫn hi vọng ở tương lai. Đó cũng chính là ý nghĩa nhân bản sâu sắc của tác phẩm này.
Một truyện ngắn hay phải có ba yếu tố cơ bản: một là sáng tạo tình – huống độc đáo (điều này vừa phân tích bên trên), hai là trần thuật tự nhiên, hấp dẫn và cuối cùng là xây dựng được nhân vật chân thật và sắc xảo. Truyện Vợ nhặt trần thuật cũng rất tự nhiên và hấp dẫn. Khởi đầu là cảnh Tràng, một chàng trai “ngụ cư” lao động nghèo, thô kệch, xấu xí dưa một người đàn bà tự nguyện làm vợ anh theo anh về nhà. Đến đây là những đoạn hồi tưởng của Tràng, trần thuật lại đầu đuôi câu chuyện anh nhặt được vợ. Mạch truyện cũng từ dây mới chảy xuôi đến hết. Nghĩa là tiếp đó một ngày trôi qua trong cảnh gia đình của Tràng trộn lần cả niềm vui và nỗi lo. Khép lại truyện là một niềm hi vọng lóe lên giữa những ngày đói kém, tang tóc.
Một nét đặc sắc của truyện Vợ nhặt là trần thuật thông qua đối thoại giữa các nhân vật. Bằng tài nghệ điêu luyện của mình, Kim Lân đã dựng được nhiều đoạn đối thoại sinh động và rất hóm. hỉnh của hai vợ chồng Tràng. Chẳng hạn như các cuộc đối thoại nơi nhà kho, quán chợ, trên đường về nhà Tràng và giữa mấy ngày rời đàn bà ngụ cư về người vợ nhặt của Tràng.
Ngoài ra, truyện Vợ nhặt còn phân tích và diễn tả tâm lí các nhân vật một cách chính xác, sâu sắc và tinh tế, hoặc qua điệu bộ và ngôn ngữ, hoặc trực tiếp diễn tả tâm trạng, ý nghĩ của họ. Dưới ngòi bút của Kim Lân, tâm lí của từng nhân vật đều diễr biến phức tạp, chân thực và cảm động. Nổi bật hơn cả là cụ Tứ và anh Tràng. Họ tiêu biểu cho những người lao động nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn trong sáng và nhân hậu. Hạnh phúc nhỏ nhoi của những con người này làm xúc động chúng ta. Chính tài phân tích, diễn tả tâm lí ấy đã tạo sức hâ’p dẫn thực sự cho thiên truyện này.
GỢI Ý HỌC BÀI
Câu 1
Dựa vào mạch truyện có thế chia tác phẩm thành 4 đoạn:
– Đoạn 1: Từ đầu đến “hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng”.
Chàng trai đưa “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ.
– Đoạn 2: Từ “It lâu nay, hắn xe thóc” đến “đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”.
Nói rõ về hoàn cảnh đôi lứa đã gặp nhau và thành vợ thành chồng.
– Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng lại, lắng tai nghe” đến “ có tiếng hờ khóc vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói”. Tình cảm của bà cụ Tứ (người mẹ) già nghèo khố đối với đôi vợ chồng mới.
– Đoạn 4: Phần còn lại.
Những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết tuy có tủi hờn thân phận nhưng vẫn nhen nhóm lòng tin về sự đối đời trong những ngày sẽ tới.
Mạch truyện sẽ được dẫn dắt hợp lí. Có thể nói tất cà các tình huống được thế hiện trong truyện đều khởi đầu từ việc anh Tràng nhặt được vợ giữa những ngày đói khùng khiếp ấy.
Thế nhưng tác phẩm lại dược mở ra từ cảnh Tràng đưa “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ. Nếu tác giả dưa đoạn thứ hai lên trước theo trình tự thời gian thì truyện sẽ kém phần hấp dần hơn.
Câu 2
1. Mở đầu truyện Vợ nhặt, tác giả giới thiệu nhãn vật Tràng đưa vợ về nhà trong con mắt dấy ngạc nhiên của cá xóm ngụ cư. Người ta ngạc nhiên vì, thứ nhất, một người nông dân nghèo, xấu xí lại là dân ngụ cư như Tràng mà cũng lấy được vợ, mà lại là vợ theo. Thứ hai là thời buổi đói khát ấy, người như anh ta, nuôi thân, nuôi mẹ chẳng xong mà còn dám đèo bòng vợ con. Tuy nhiên, sự việc này diễn ra lại rất hợp lí. Bởi lẽ, nếu bình thường không phải là năm đói kém, thì có ai mà thèm lấy Tràng. Cũng may, ở đây là “vợ nhặt” không phải lề nghi cheo cưới chi cả cho nên Tràng mới có được vợ.
Mọi người trong xóm đều hết sức ngạc nhiên khi thấy Tràng lấy được vợ. Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bên, người trong xóm lạ lắm. Người ta xì xào bàn tán với nhau: Biểt có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ngay cả mẹ cúa Tràng cũng ngạc nhiên: Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhi? Người dàn bà nào lại. đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Một hồi lâu, bà lão vẫn “băn khoăn” không hiểu nổi. Chuyện Tràng lấy vợ cũng còn là chuyện bất ngờ đối với chính anh ta. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bâygiờ hắn vẫn còn ngờ ngợ – như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cùng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng…
Câu 3
2. Tên truyện là Vợ nhặt, nghĩa là một thứ vợ do nhặt nhạnh vu vơ mà có được chứ không phải là vợ do cheo cưới đàng hoàng mà có. Điều này cho thấy cảnh ngộ của người đàn bà là “vợ nhặt” của Tràng thật tội nghiệp. Ngay cả cái tên mà chị cũng không có được. Ngồi vêu ra ở cửa nhà kho cùng với mấy người con gái, chị chờ nhặt nhạnh những hạt rơi hạt vãi hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Gặp Tràng, lần đầu cười cợt hồn nhiên, nhưng lần sau chị biến đổi nhanh và rõ: thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chỉ vì đói quá chị đã gợi ý để được ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Và chỉ cần một lời đồng ý của Tràng là chị ăn luôn. Chị ăn bánh đúc một chặp bốn bát.
Sau đó, Tràng nói đùa mà chị cứ cho là thật. Chị đã theo anh, chấp nhận theo không anh khi hầu như chưa hiểu chút nào về Tràng và hoàn cảnh của anh. Suy cho cùng, lấy chồng, làm “vợ nhặt” của Tràng chẳng qua với chị là một cách chạy trốn cái đói mà thôi.
Câu 4
Khi thế hiện niềm khao khát tồ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Kim Lân dã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc:
– Lúc quyết định lấy vợ: Thoạt đầu Tràng có chút phân vân, do dự: Mới đầu anh chàng cũng chợn: nghĩ thóc gạo này đến cái thân mình củng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nhưng rồi sau đó anh chàng đã tặc lưỡi: “Chặc, kệ!”. Điều này đúng như ý đồ của tác giả: Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết, mà chí nghĩ dến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu. dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống vù vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người (nhà văn Kim Lân nói về truyện Vợ nhặt).
Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cu: Phút này, Tràng như đã thành một con người khác, phớn phở lạ thường, môi cười tủm tỉm, mắt sáng hẳn lên, mặt vênh vênh tự đắc, nhưng cũng có lúc “cứ lúng ta lúng túng” đi bên vợ. Nhưng chủ yếu vẫn xúc động với cảm giác mới mè khác lạ “mơn man” như một bàn tay vuốt nhẹ.
– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Tràng cảm thấy “êm ái, lửng lơ, như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, xung quanh mình có cái gì vừa thay đối mới mẻ khác lạ. Từ cảm giác sung sướng hạnh phúc Tràng ý thức trách nhiệm, bốn phận của mình “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thây hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này…”.
Câu 5
Lúc đầu, bà cụ Tứ không ngờ con mình lấy được vợ. Nên thấy người đàn bà trong nhà, bà không hiểu là ai. Hàng loạt câu hỏi đã hiện lên trong đầu óc bà: Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? Ô hay, thế là thế nào nhỉ?… Vì sao… Vì bà cụ nghĩ là tình cảnh nghèo khó, xấu xí, bị khinh bỉ của con mình thì làm sao có thể lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp khi ấy.
Đến lúc biết con mình đã “nhặt” được vợ về, bà cụ Tứ vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo. Bà cụ mừng vì dầu sao con trai mình cũng đã có được vợ, dù chỉ là “vợ nhặt” như thể nhặt của rơi ngoài đường. Bà cụ là người từng trải, hiểu biết nên đã cảm thấy biết bao nhiêu cơ cực, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình. Tiếp đó bà lại thương cảm cảnh ngộ đứa con dâu: Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Và bà đã nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
– Ừ thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.
Người mẹ già giàu lòng vị tha đó còn xa xôi nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình và tương lai không biết sẽ ra sao của con trai và con dâu. Chỉ một câu nói: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá cũng chan chứa biết bao sự thông cảm yêu thương.
Hiểu được trách nhiệm của mình đối với con, bà cụ Tứ đã cố nén bao nỗi buồn lo, động viên con tin tưởng ở sự sống và tương lai. Bà cụ đã dọn dẹp, sửa sang nhà cửa: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có ca khẩm khá hơn… Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”.
Câu 6
Đặc sắc nghệ thuật của Vợ nhặt thể hiện ở:
– Tạo được một tình huống độc đáo và cảm động;
– Cách trần thuật dựng đốiì thoại tự nhiên hấp dẫn;
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo.
a. Tình huống truyện độc đáo và cảm động
Chỉ riêng tên truyện cũng đủ cho thấy một tình huống éo le độc đáo: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn và càng ngẫm nghĩ càng thấy “ai oán xót thương”. Đó cũng là một tình huống thâm đẫm tình người, có sức lôi cuốn chú ý của người đọc: Vợ nhặt, “nhặt” được vợ.
b. Cách trần thuật chuyện, dựng đối thoại tự nhiên, hấp dẫn
– Tác giả đảo lộn trật tự thời gian một cách hợp lí để trần thuật tự nhiên và hấp dẫn: bắt đầu bằng sự việc Tràng đưa vợ về nhà trong lúc cả xóm ngụ cư nhìn theo kinh ngạc. Đến nhà rồi chính Tràng cũng kinh ngạc khi nhìn thị ngồi ngay giữa nhà. Chính lúc ấy nhà văn mới theo dòng hồi tưởng của Tràng mà trần thuật lại đầu đuôi câu chuyện anh này nhặt được vợ. Sau đó ông mới để mạch chuyện chảy xuôi cho đến hết.
– Tác giả dùng lối trần thuật qua đối thoại giữa các nhân vật. Nhiều đoạn đối thoại thật tự nhiên, hóm hỉnh và hấp dẫn như đoạn đối thoại giữa đôi vợ chồng Tràng hay đoạn giữa mấy người đàn bà trong xóm về người vợ mới của Tràng. Từ ngữ trong đốỉ thoại cũng rất hợp với lời nói cửa miệng hằng ngày của người dân nghèo trước đây. Như đoạn Tràng và vợ trên đường về, hai người hầu hết đều nói câu cụt ngủn, thiếu chủ ngữ. Cách nói của Tràng theo lốii bông phèng bình dân: Vợ mới vợ miếc, lên giường lên giếc. Bà cụ Tứ đôi chỗ dùng thành ngữ tục ngữ “phải duyên phải kiếp”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Nói chung các trường hợp trên đều rất tự nhiên và hấp dẫn.
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo
Truyện có ba nhân vật chính:
– Vợ Tràng: Tuy vì đói khát cùng đường đến mức bốp chát, chua ngoa, liều lĩnh và trơ trẽn, không còn chút e thẹn cố hữu của người phụ nữ nhưng cũng đã trở nên hiền hậu, chịu thương chịu khó khi trở thành nàng dâu mới.
– Tràng: Chợt vui khi đưa vợ về nhà qua lối xóm mặt phớn phở, hai mắt sáng lấp lánh. Chợt buồn khi cùng với vợ về đến nhà thấy cảnh nhà xơ xác, quạnh hiu, bừa bộn.
Anh vui vì bỗng dưng mà được vợ nhưng buồn vì lo không biết mẹ mình có chấp nhận không và cảnh nhà có vượt qua được cái đói nghèo không.
Sau đó, anh thấy lòng đầy yêu thương, vui sướng vì mình đã nên người. Sự gắn bó tình cảm trong cảnh khổ, tình yêu thương với vợ, hạnh phúc gia đình khiến anh hướng tới tương lai, thấy mình phải đứng đắn hơn và có trách nhiệm hơn với vợ, với mẹ, không thể sống ơ thờ, tùy tiện như trước nữa. Trong đầu óc anh hai lần hiện ra lá cờ đỏ thật to và đám người cùng nhau đi phá kho thóc.
– Bà cụ, mẹ Tràng: là một người mẹ rất mực thương yêu con nhưng vì hoàn cảnh nghèo khổ, không thể lo toan được hạnh phúc cho con. Bà cụ biết mình không làm tròn bổn phận người mẹ là phải lo lấng sao cho con cái nên vợ nên chồng, ăn nên làm nổi, sinh con đẻ cái nở mặt với đời. Bởi vậy, nay con bỗng dưng lấy được vợ bà vừa vui vừa mừng vừa nghĩ lại mà tủi cho con mình. Không những thế, bà còn lo âu: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
Nói chung, Kim Lân đã thê hiện tâm lí của cả ba nhân vật chính trên một cách chân thực và sinh động qua bộ điệu, ngôn ngữ hoặc trực tiếp diễn tả tâm trạng ý nghĩ của họ một cách điêu luyện tài tinh.
Bài soạn “Vợ nhặt” số 5
I- Tìm hiểu chung về truyện ngắn Vợ nhặt
1. Tác giả
Kim Lân sinh ra ở mảnh đất Kinh Bắc nên con người ông giản dị, thuần hậu nhưng vẫn ánh lên nét tài hoa, hóm hỉnh
Ông vừa viết văn, vừa kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau, cuộc sống lam lũ, vất vả
Kim Lân có sở trường ở thể loại truyện ngắn, ông viết rất chân thực, sinh động về đời sống nông thôn và hình ảnh những người nông dân vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ
2. Tác phẩm
“Vợ nhặt” in trong tập truyện “Con chó xấu xí”, tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
II- Soạn bài Vợ nhặt
Câu 1 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Phần 1: từ đầu đến tự đắc với mình : Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.
Phần 2: tiếp đến đẩy xe bò về: Tràng hồi tưởng lại cảnh hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng
Phần 3: tiếp đến nước mắt chảy ròng ròng: Tình thương của người mẹ nghèo khó
Phần 4: phần còn lại: buổi sáng hôm sau và niềm tin vào tương lai tương sáng
=> Mạch truyện được dẫn dắt xoay quanh sự việc trung tâm là anh Tràng nhặt được vợ
Câu 2 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy anh Tràng đi cùng một người đàn bà xa lạ về nhà vì trong thời buổi đói kém, miếng ăn cũng không đủ no, chẳng ai nghĩ đến chuyện lập gia đình
Sự ngạc nhiên của dân làng, của bà cụ Tứ và của Tràng cho thấy tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo:
Người ta lấy vợ, còn Tràng nhặt được vợ
Đám cưới thiếu mọi lễ nghi cần thiết, lời cầu hôn chỉ là câu nói đùa vu vơ, sính lễ chỉ là 4 bát bánh đúc và chiếc thúng con
Sau 2 lần gặp gỡ, Tràng và người đàn bà xa lạ đã nên duyên vợ chồng
Đám cưới diễn ra trên nền cảnh đám ma
=> Tình huống truyện đó đã góp phần thể hiện nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:
Lên tiếng tố cáo xã hội hủy diệt sự sống, hạ thấp giá trị con người
Trong cùng cực đói khát, những người dân lao động vẫn hướng về sự sống, khát khao hạnh phúc và tin vào tương lai
Câu 3 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Giới thiệu nhan đề Vợ nhặt: Vợ nhặt là người vợ không được cưới hỏi, người vợ theo không
=> Nhan đề gợi sự thê thảm của con người trong đói khát, giá trị con người bị rẻ rúng đến mức người ta có thể nhặt về như nhặt một thứ đồ vật bị bỏ rơi
Câu 4 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Kim Lân đã có những phát hiện sâu sắc và tinh tế khi thể hiện niềm khao khát có tổ ấm của nhân vật Tràng:
Giữa lúc đói khát, Tràng vẫn quyết định đưa người vợ nhặt về nhà
Nghiêm nét mặt khi bọn trẻ con trêu đùa=> ý thức chở che, bảo vệ người phụ nữ bên cạnh mình
Băn khoăn trước nét mặt bần thần của người vợ nhặt
Giới thiệu người vợ nhặt bằng thái độ trân trọng và yêu thương
Có ý thức về trách nhiệm và bổn phận
Câu 5 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ:
Bà vừa mừng vừa tủi: mừng vì con trai lấy được vợ, tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con
Bà thương con trai vì đói khát mới lấy được vợ, xót xa cho con dâu vì đói khát mới bám lấy con trai mình
Bà vừa lo âu vì hoàn cảnh đói kém, vừa hi vọng để hướng các con tới tương lai
=> Bà cụ Tứ là một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, suốt đời tảo tần, lo lắng cho con, biết yêu thương và đồng cảm với những người cùng khổ khác
Câu 6 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân
Xây dựng tình huống truyện độc đáo
Ngôn ngữ giản dị, thuần hậu, mang lời ăn tiếng nói của người nông dân vào văn chương
Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật đặc sắc
III- Luyện tập Vợ nhặt
Câu 1 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Chi tiết gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất là chi tiết nồi cháo cám
=> Nồi cháo cám vừa lột tả hiện thực khó khăn, thiếu thốn lúc bấy giờ, vừa biểu tượng cho lòng mẹ cao cả, tình thương lớn lao và đức hi sinh vĩ đại
Câu 2 trang 33 SGK văn 12 tập 2:
Ý nghĩa đoạn kết của truyện:
Nhà văn đã mở ra một tương lai tươi sáng hơn tên cái nền hiện thực tối tăm của cảnh đói khát, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn, tự giải phóng cho chính mình và có được hạnh phúc
=> Đặc điểm của phương thức sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa
Bài soạn “Vợ nhặt” số 6
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
– Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn.
– Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hoá cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
– Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).
– Năm 2001, Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
– Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê – những thú chơi và sinh hoạt văn hoá cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng.
– Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.
2. Tác phẩm
– Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
– Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề đã thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. Từ nhan đề ta thấy thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
– Bố cục 4 phần:
+ Phần 1 (từ đầu … “tự đắc với mình”): Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà
+ Phần 2 (tiếp … “đẩy xe bò”): chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành chồng
+ Phần 3 (tiếp … “nước mắt chảy ròng ròng”): tình thương của người mẹ nghèo khó
+ Phần 4 (còn lại): niềm tin vào tương lai.
Đọc – hiểu văn bản
1 – Trang 33 SGK
Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Ý chính của mỗi đoạn? Mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào?
Trả lời:
* Dựa vào mạch truyện, tác phẩm có thể chia thành bốn đoạn:
– Phần 1 (từ đầu đến… tự đắc với mình): Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.
– Phần 2 (tiếp đến… đẩy xe bò về): kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
– Phần 3 (tiếp đến… nước mắt chảy ròng ròng): Tình thương của người mẹ nghèo khó.
– Phần 4 (phần còn lại): niềm tin vào tương lai tươi sáng.
* Mạch truyện
Mạch truyện đã được dẫn dắt một cách tự nhiên, hợp logic, chủ yếu theo thời gian tuyến tính và gắn với truyện truyền thống. Tuy nhiên, sự hấp dẫn lại nằm trong nghịch lí mang tính hài hước của truyện kể: giữa ngày đói kém, một anh cu Tràng “quá lứa”, “dở hơi” đưa một người đàn bà “rẻ rúng” về làm vợ.
Mạch truyện bắt đầu từ đó: sự kiện khôi hài này tất yếu gây ra những lời bàn tán hài hước và xót xa; rồi màn bi – hài kịch diễn ra trong nhà cụ Tứ. Cuối cùng, tác giả đã tìm được lối thoát cho truyện: giữa những âm thanh của tiếng trống thúc thuế, dồn người ta đến bước đường cùng, hình ảnh lá cờ Việt Minh và đoàn người phá kho thóc của Nhật trong câu chuyện mơ hồ và xa xôi (Nghe đâu tận Thái Nguyên, Bắc Giang) xuất hiện và ám ảnh trong đầu óc của Tràng.
2 – Trang 33 SGK
Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của các nhân vật trong truyện cho thấy nhà văn đã sáng tạo được tình huống truyện như thế nào? Tình huống đó có những tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của thiên truyện?
Trả lời:
* Người dân xóm ngụ cư và các nhân vật khác trong truyện như bà cụ Tứ, và cả bản thân Tràng đều đã ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa.
– Tràng là một người có ngoại hình xấu, lời ăn tiếng nói cũng cộc cằn, thô kệch. Gia cảnh của Tràng nghèo khổ, lại là dân xóm ngụ cư (không có ruộng đất). Nguy cơ ế vợ đã rõ, lại gặp nạn đói khủng khiếp, cái chết đang đeo bám, mọi người đều nghĩ đến lấy gì mà ăn để sống qua ngày, vậy mà đột nhiên Tràng lại lấy vợ. Trong cảnh đói, Tràng “nhặt” được vợ là “nhặt” thêm một miệng ăn, cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
– Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cũng nghĩ: “biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không?” và họ cũng im lặng.
– Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi “cúi đầu im lặng” với nỗi lo riêng mà rất chung: “Biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
– Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn đang ngờ ngợ”. Thậm chí, sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
* Sự ngạc nhiên cho thấy tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ, vừa nghịch lí nhưng cũng vừa có lí.
– Người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, hơn hai triệu người chết đói, cái giá của con người thật rẻ rúng, người ta có thể “nhặt” được vợ một cách dễ dàng.
– Thế nhưng họ vẫn khát khao có được tổ ấm gia đình, vẫn hi vọng vào tương lai, ngay cả lúc đói khát, cận kề cái chết.
* Qua tình huống đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
– Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
– “Nhặt vợ” là “nhặt” được hạnh phúc, nhưng khi nó không còn là hạnh phúc nữa mà trở thành cái khốn cùng của cuộc sống.
Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn. Chỉ vì đói quá mà người đàn bà tội nghiệp này ăn luôn và “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Chỉ cần vài lời nửa đùa nửa thật chị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
– Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc…
Điều mà Kim Lân muốn nói là trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn cứ vươn lên để tiếp tục sống, để sinh con đẻ cái, để hướng tới tương lai. Người đàn bà đi theo Tràng đã chạy trốn cái đói, cái chết để hướng đến sự sống. Bà cụ Tứ, một bà lão luôn nói đến chuyện tương lai, chuyện sung sướng về sau, nhen lên niềm hi vọng cho con. Đặc biệt là nhân vật Tràng, giữa cảnh chết đói, anh ta vẫn lấy vợ, vẫn nghĩ đến tương lai và hạnh phúc. Đúng như tác giả đã nói, đại ý: những người nghèo khổ, ngay bên cạnh cái chết, họ vẫn không ngừng tìm đến hạnh phúc.
– Về nghệ thuật: tình huống độc đáo khiến truyện phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.
3 – Trang 33 SGK
Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua tình huống trong truyện, anh/chị hiểu gì về tình cảm và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945?
Trả lời:
– Nhan đề Vợ nhặt có nghĩa là “nhặt được vợ” (không phải cưới hỏi theo phong tục).
+ Vợ gợi lên thiên chức cao cả của người phụ nữ
+ Động từ “nhặt” -> sự rẻ rúng, có thể nhặt một cách dễ dàng
-> “Vợ nhặt” được ghép lại với nhau thành một danh từ nó gợi lên thân phận rẻ rúng như cọng rơm cọng rác của người phụ nữ mà rộng ra là thân phận của con người Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
=> Nhan đề truyện đã thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm, phản ánh thân phận con người bị rẻ rúng như rơm rác, có thể nhặt ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” được vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Nhan đề vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng hướng tới cuộc sống tốt hơn và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
4 – Trang 33 SGK
Cảm nhận về niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng, Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khát khao đó của nhân vật (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ,…).
Trả lời:
Niềm khát khao tổ ấm gia đình, cũng là khát khao hạnh phúc của nhân vật Tràng là khát khao mãnh liệt dẫu rất thô sơ, chất phác, hồn nhiên. Khát vọng đó đã vượt qua cả những nỗi lo âu, sợ hãi và toan tính trước nạn đói và trước cái chết.
– Khi quyết định cho người đàn bà theo về, Tràng cũng liều lĩnh tặc lưỡi: “Chậc, kệ”, cái tặc lưỡi của Tràng vừa là sự ngộ nghĩnh đơn sơ vừa mang được một nội dung tư tưởng: đó là thái độ mạnh mẽ và dứt khoát, dẫu rất bản năng và hài hước của một người lao động khốn khổ trước hai sự lựa chọn: hạnh phúc và nạn đói.
– Trên đường về xóm ngụ cư, Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phơ”, “vênh vênh ra điều”. Trong phút chốc, Tràng quên tất cả tăm tối, “chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên” và cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới.
– Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng biến đổi hẳn “Hắn thấy bây giờ hắn mới nên người”. Tràng thấy trách nhiệm và biết gắn bó với tổ ấm gia đình.
=> Sự sâu sắc của Kim Lân khi thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của người nông dân khốn khổ là ở chỗ, ông đã cho ta thấy: người dân lao động, dẫu đứng trước cái chết vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống và họ không ngừng tìm kiếm hạnh phúc. Đó là giá trị nhân bản sâu sắc nhất của thiên truyện.
5 – Trang 33 SGK
Phân tích tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ, qua đó anh chị hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?
Trả lời:
Tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ:
– Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u bà thấy mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện.
– Khi đã hiểu chuyện, tâm trạng bà cụ vừa: mừng, vui, xót, tủi.
+ “Vừa ai oán, xừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”, thương con phải lấy vợ nhặt, nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ.
+ Thấy tủi vì bản thân chưa làm tròn bổn phận của người mẹ lấy vợ cho con.
+ Thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ
+ Đối với người đàn bà thì “lòng bà đầy xót thương”. Nén vào lòng tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”.
– Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng: “Tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
=> Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng xót xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn… Một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi để cho một bà cụ cập kề miệng lỗ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai.
6 – Trang 33 SGK
Anh chị hãy nhận xét về nghệ thuật viết truyện của Kim Lân (cách kể chuyện, cách dựng cảnh, đối thoại, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ…).
Trả lời:
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo
– Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn.
– Dựng cảnh chân thật, gây ấn tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói…
– Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tự nhiên, chân thật.
– Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với tính cách và thực tế đời sống.
– Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc
Luyện tập
1 – Trang 33 SGK
Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh chị? Vì sao?
Gợi ý:
Học sinh suy nghĩ và tự trả lời câu hỏi này. Khi trả lời lí do yêu thích, cần bám sát và tôn trọng những cảm xúc của riêng mình; cũng có thể vận dụng những hiểu biết về giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Ví dụ:
Chi tiết gây xúc động với em là: Bà cụ Tứ đãi con dâu “chè khoán” nhưng thực chất là cám với sự xót xa “Xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn đấy”.
– Điều này gợi lên cảnh khốn cùng, nghèo đói của giai đoạn đau thương của đất nước (nạn đói 1945)
– Ngày đón dâu đáng ra phải đủ đầy, nhưng cách đón dâu trong cảnh nghèo đói lại càng cho ta thêm thấm thía tình người đùm bọc lẫn nhau trong lúc khó khăn.
2 – Trang 33 SGK
Phân tích ý nghĩa của đoạn kết thiên truyện.
Trả lời:
Ý nghĩa của đoạn kết thiên truyện:
– Đoạn kết là diễn biến tất yếu của mâu thuẫn nội tại của câu chuyện: người dân đang bị lâm vào cảnh chết đói còn nghe tiếng trống thúc thu thuế của chính quyền. Vì vậy, nhân vật như Tràng đã nghĩ đến lá cờ Việt Minh.
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng đã gieo một hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng và gia đình anh, gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽ có lá cờ đỏ kia dẫn đường.
+ Góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
– Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới – nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (truyện được hoàn thành từ năm 1955, phân biệt với các tác phẩm hiện thực phê phán), theo đó các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh… đều trong xu thế vận động đi lên, một sự vận động hướng tới tương lai tươi sáng hơn.
Bài soạn “Vợ nhặt” số 2
Câu 1 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Dựa vào mạch truyện có thể chia tác phẩm thành 4 đoạn:
+ Đoạn 1: từ đầu đến “…thành vợ thành chồng”.: Tràng đưa vợ về nhà.
+ Đoạn 2: tiếp đến “đẩy xe bò về”: kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
+ Đoạn 3: tiếp đến “nước mắt chảy ròng ròng”: cuộc gặp gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới.
+ Đoạn 4: còn lại: buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng.
– Mạch truyện được dẫn dắt hết sức khéo léo. Các cảnh được miêu tả trong truyện đều được xuất phát từ tình huống anh Tràng lấy được vợ giữa những ngày đói.
Câu 2 (trang 33 SGK Ngữ vă 12 tập 2)
– Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên khi Tràng lấy vợ bởi:
+ Một người như Tràng (xấu, nghèo, ngờ nghệch, dân ngụ cư) lại lấy được vợ
+ Trong nạn đói, không biết có nuôi nổi nhau không mà Tràng còn “đèo bòng”
– Sự ngạc nhiên của dân làng, cụ Tứ và chính Tràng cho thấy Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống độc đáo, kì lạ, éo le: tình huống Tràng nhặt được vợ giữa ngày đói.
– Tình huống truyện làm nổi bật nội dung và ý nghĩa của tác phẩm:
+ Giữa nạn đói, thân phận con người trở nên rẻ rúng, bé nhỏ đến đáng thương.
+ Cái đói, cái chết không dập tắt được khát khao hạnh phúc gia đình và lòng tốt của người lao động nghèo khổ.
Câu 3 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Giải thích nhan đề:
+ Vợ là người quan trọng san sẻ cả cuộc đời với người đàn ông. Để có vợ, theo phong tục người ta phải tìm hiểu và cưới xin đường hoàng, trang trọng.
+ “Nhặt”: người ra chỉ nhặt được những thứ nhỏ bé, đánh rơi.
=> “Nhặt vợ”: Nhan đề truyện hé mở tình huống anh Tràng có vợ một cách dễ dàng như nhặt được cái rơm, cái rác ở ngoài đường, cụ thể là Tràng “nhặt được vợ” chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc.
– Chỉ qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, tác giả đã làm nổi bật tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Phơi bày tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, khi mà vấn đề cái đói, miếng ăn trở thành vấn đề sinh tử.
Câu 4 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc về niềm khát khao hạnh phúc gia đình của Tràng:
– Lúc quyết định lấy vợ: Thoạt đầu Tràng có chút phân vân, do dự. Nhưng rồi sau đó anh chàng đã tặc lưỡi “Chậc, kệ”.
– Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư: Phút này, Tràng như đã thành một con người khác, phớn phở lạ thường, môi cười tùm tỉm, mắt sáng hẳn lên, mặt vênh vênh tự đắc, nhưng cũng có lúc cứ “lúng ta lúng túng” đi bên vợ. Nhưng chủ yếu vẫn là cảm giác mới mẻ khác lạ mơn man như một bàn tay vuốt nhẹ.
– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ: Tràng cảm thấy êm ả, lửng lơ, như người vừa trong giấc mơ đi ra, xung quanh mình có cái gì thay đổi mới mẻ khác lạ. Từ cảm giác sung sướng hạnh phúc Tràng ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình “bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với căn nhà của hắn lạ lùng”.
=> Tràng từ con người ngờ nghệch, vụng về trở nên trưởng thành hơn, nhận ra mình phải có trách nhiệm với những yêu thương, ước mong gắn bó, xây đắp hạnh phúc gia đình.
Câu 5 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ:
+ Ngạc nhiên khi thấy người đàn bà lạ trong nhà, lại chào bà là “u”. Khi hiểu ra đó là vợ Tràng, bà “cúi đầu nín lặng”, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
+ Tủi hờn cho thân mình, tủi hờn cho đứa con tội nghiệp lấy vợ giữa nạn đói kinh hoàng. Bà lo lắng “chúng nó có nuôi nổi nhau…đói khát này không”.
+ Thấu hiểu và thương xót cho hoàn cảnh éo le của con dâu, trân trọng hạnh phúc của con trai, ước ao các con vượt qua được nạn đói.
+ Tươi tỉnh, vui vẻ, phấn chấn, lạc quan trong buổi sáng hôm sau: xăm xăm dọn dẹp nhà cửa cùng con dâu, nói toàn chuyện vui chuyện làm ăn. Chuẩn bị nồi “chè khoán” nhưng vị đắng chát của “chè” và tiếng trống thúc thuế khiến bà cụ tủi hổ, lo âu rơi nước mắt.
=> Cụ Tứ là bà mẹ nông dân nghèo khổ nhưng chan chứa tình yêu thương con, giàu lòng nhân hậu, giàu niềm lạc quan tin tưởng và là chỗ dựa cho các con. Bà cụ Tứ là hình ảnh đại diện cho những người mẹ Việt Nam nghèo trong xã hội cũ.
-* Tấm lòng của bà cụ Tứ: Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghịêp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Câu 6 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân qua truyện ngắn Vợ nhặt:
– Cách tạo tình huống truyện độc đáo, tự nhiên, kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo.
– Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
– Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vật.
– Cách kể chuyện tự nhiên, giọng điệu chậm rãi. Cách kể nhiều khi hóm hỉnh, sắc sảo nhưng vẫn đôn hậu.
– Kết cấu truyện khá đặc sắc, kết thúc mở.
Luyện tập
Câu 1 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
*Chi tiết nồi cháo cám trong “Vợ nhặt”
– Vị trí của chi tiết trong truyện ngắn: nằm trong phần cuối của truyện ngắn, đó là món ăn duy nhất của cả nhà trong buổi sáng ngày hôm sau.
– Ý nghĩa
+ Chi tiết trên thể hiện tình trạng cùng cực của người dân lao động trong nạn đói 1945
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
● Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực.
● Tràng: là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy, một tiệc cưới sang trọng ; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
● Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
+ Nồi cháo cám trong buổi sớm đầu tiên đón cô dâu mới thật sự nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Chi tiết thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
Câu 2 (trang 33 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
*Ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt
– Ý nghĩa nội dung
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
– Ý nghĩa nghệ thuật
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.
Tóm tắt
Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui. Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán.
Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phất phới.
Nội dung chính
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau
Có thể bạn thích: