Nguyễn Thi là nhà văn Quân đội đã anh dũng hi sinh tại mặt trận Sài Gòn năm 1968. Truyện và kí xuất bản 1978 là tuyển tập của Nguyễn Thi, trong đó có truyện “Những đứa con trong gia đình” được ông viết vào tháng 2 năm 1966. Bên cạnh những nhân vật như má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, còn có nhân vật Việt được tác giả xây dựng khá thành công, tiêu biểu cho một đứa con tốt đẹp của gia đình, một chiến sĩ quả cảm, anh hùng của quê hương. Tác phẩm này đã cho thấy một số nét đặc sắc về nghệ thuật viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thi. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Những đứa con trong gia đình” số 4
“Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày đầu chiến đấu ác liệt chống đế quốc Mĩ xâm lược của đồng bào miền Nam. Nguyễn Thi người Bắc nhưng lại trở thành Nhà văn của nông dân Nam Bộ. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật trần thuật – kể chuyện. Đó là nét đặc sắc của tác phẩm, có tác dụng xây dựng kết cấu truyện và khắc họa tính cách các nhân vật của nhà văn.
Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có một lối tự sự mang khá nhiều nét riêng. Câu chuyện được nhà văn thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu nhịp theo dòng hồi tưởng miên man, đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng thương nằm lại ở chiến trường.
Cách thức trần thuật như thể mang lại cho tác phẩm màu sắc trữ tình đậm đà, tự nhiên, sống động; đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhà văn có thể nhập sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. Diễn tiến của câu chuyện chính vì thế mà cũng hết sức linh hoạt; mạch kể qua lại thoải mái giữa quá khứ — hiện tại; giữa cái đang ở trước mặt và cái đã trở thành kỉ niệm xưa; giữa những chi tiết thoáng đến, thoáng đi chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại gắn với tư tưởng, tình cảm lớn lao và trọng đại.
Dẫn chứng: “Việt tỉnh lại lần thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Mắt Việt bị thương không nhìn thấy mà chỉ cảm thấy… Tiếng máy bay, tiếng động cơ duy nhất trên bãi chiến trường đã trở nên vắng lặng,… chỉ còn tiếng ếch nhái kêu. Chính âm thanh này đã dẫn Việt về với quá khứ ngày còn ở quê, những đêm mưa như đêm nay, hai chị em xách đèn soi, lóp ngóp ra đồng đi bắt ếch: ”Cười từ lúc đi cho tới lúc về”. Và khi ”đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Mạch hồi tưởng miên man tràn đến chú Năm và cũng rất tự nhiên chuyển sang chuyện cuốn sổ gia phả do chú ghi chép… rồi Việt lại ngất đi…
Dòng hồi tưởng lại tiếp tục khi ”Việt choàng dậy” đêm qua đi, ngày lại tới, tiếng trực thăng phành phạch trên đầu, tiếng súng nổ từng loạt phía xa… “tiếng chim cu rừng gù gù đâu đây’‘ gợi cho Việt nhớ đến chiếc ná thun hồi còn ở nhà đi bắn chim. Từ chiếc ná thun lại dẫn Việt về vối người mẹ giàu lòng vị tha, hết lòng vì chồng con, cuộc đời chồng chất những nỗi khổ đau uất hận mà rất đỗi kiên cường, bất khuất… Việt lại đột ngột ngất đi…
Cứ như thế dòng hồi tưởng đứt lại nối; qua đó mà dần dần mở rộng đối tượng được miêu tả, được kể mỗi lúc một hấp dẫn. Và càng đi sâu hơn vào đời sống nội tâm nhân vật, làm hiện lên vừa cụ thể, vừa sinh động những gương mặt tiêu biểu của một gia đình từ ông nội, chú thím Năm, ba má Việt đên thế hệ trẻ là Việt và Chiến hôm nay trong buổi đăng kí tòng quân và đêm trước của ngày lên đường.
Dòng tâm tư trong truyện chảy trôi khi đến gần bờ hiện tại lại lượn xa tít tắp về quá vãng. Nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thực tự nhiên như nó vốn có trong đời sống. Nhưng chính nhờ hiện thực tâm trạng ấy mà cái hiện thực khách quan kia đã được tổ chức, cải tạo lại những khoảng thời gian rất xa, bây giờ được đồng hiện bên nhau, soi chiếu dưới một thứ ánh sáng kì diệu, khiến cho câu chuyện thêm nhiều màu vẻ, phong phú, bất ngờ.
Lối kể theo dòng kí ức vừa liên tục, vừa gián đoạn như thế của nhà văn đã làm cho kết cấu truyện thêm linh hoạt, sống động; thêm những ngã rẽ, những khúc quanh, người đọc không dễ dự đoán, dự kiến ra. Bởi dòng hồi tưởng của một nhân vật bị thương nặng, phải đối mặt giữa cái sống và cái chết, cô độc trên chiến trường hoang vắng thì điều duy nhất là người ấy sẽ nghĩ đến gia đình, những người thân yêu nhất của mình, để từ đó có thêm sức mạnh sống tiếp, đi tiếp.
Kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng của nhân vật là một công phu sáng tạo về hình thức tác phẩm của nhà văn. Nhưng ý nghĩa sáng tạo của hình thức ấy lại ở chỗ: nó góp phần đắc lực nhất trong việc biểu hiện khám phá nội dung; trong việc xây dựng kết cấu tác phẩm và khắc họa tính cách nhân vật của nhà văn Nguyễn Thi – Nhà văn của nông dân Nam Bộ với biết bao tình thương mến.
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Những đứa con trong gia đình” số 6
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm của Nguyễn Thi từ khi ông trở lại miền Nam (1962) thường bắt nguồn từ hiện thực nóng bỏng, ác liệt ở mặt trận miền Đông Nam Bộ. Nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của ông là những người nông dân vùng đất này, những con người bản chất vừa hồn nhiên, bộc trực, trung hậu vừa có lòng căm thù giặc sâu sắc; vô cùng gan góc, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Nguyễn Thi là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo. Văn Nguyễn Thi vừa giàu chất hiện thực, đầy những chi tiết dữ dội, ác liệt của chiến tranh, vừa đằm thắm chất trữ tình với một ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ. “Những đứa con trong gia đình” là một truyện ngắn xuất sắc thể hiện rất rõ bút pháp, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Nét nghệ thuật đặc sắc ấy được thể hiện qua cách kể chuyên, cách xây dựng nhân vật và cách sử dụng ngôn ngữ.
“Những đứa con trong gia đình” được trần thuật chủ yếu qua dòng hồi tưởng miên man đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng thương nằm lại ở chiến trường. Trong một trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch, nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi và tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, về chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh…
Cách thức trần thuật như thế đã đem đến cho tác phẩm màu sắc trữ tình đậm đà, tự nhiên, sống động, đồng thời có thể tạo cho nhà văn có điều kiện nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. Diễn biến của câu chuyện cũng chính vì thế mà hết sức linh hoạt, không phụ thuộc vào thời gian của tự nhiên, có thể xáo trộn, từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường mà gợi ra những dòng hồi tưởng, liên tưởng đến quá khứ khi gần khi xa, từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên của nhân vật. Qua đó, ta thấy được Nguyễn Thi đã chọn lựa cách trần thuật rất đặc sắc.
Đặc sắc của truyện là đã dựng nên hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ. Những con người này có những nét rất chung thống nhất. Đó là, họ căm thù giặc sâu sắc; gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc; giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung son sắt với quê hương và Cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Chỉ bằng một vài chi tiết, một vài hình ảnh, mỗi nhân vật hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Thi đã ghi được những dấu ấn rất riêng trong lòng độc giả. Chú Năm hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình.
Tâm hồn chú Năm bay bổng, dạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Đó là má Việt, một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng… Cuộc sống của má Việt lam lũ, vất vả, chồng chất đau thương nhưng lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Đó là nhân vật Chiến với câu nói cùng em trai trước ngày nhập ngũ còn khắc ghi mãi trong lòng độc giả: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất”. Đó là Việt, nhân vật chính trong câu chuyện. Việt có nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc, tính tình còn rất trẻ con, rất vô tư. Một cậu thanh niên “không sợ giặc mà lại sợ ma”, “bên cạnh cây súng còn có cây ná thun”…
Văn của Nguyền Thi đầy chi tiết cụ thể làm nổi rõ góc cạnh của cuộc sống, tạo được không khí hết sức chân thực và làm cho tất cả bỗng trở nên có linh hồn. Trong truyện Những đứa con trong gia đình, tác giả đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ của người nông dân Nam Bộ. Tác giả đã khéo léo trong việc chọn lựa những từ ngữ mang đậm màu sắc và không khí Nam Bộ: ba má, trọng trọng, việc thỏn mỏn, kiếng, ná thun, tèm lem, rê thuốc… Ngoài những từ ngữ đậm màu sắc Nam Bộ, tác phẩm có những câu văn làm xúc động lòng người. Đó là những câu văn miêu tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”.
Nguyễn Thi là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo. Ông có khả năng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật, phân tích và diễn tả chính xác những quá trình tâm lí tinh vi của con người. Truyện “Những đứa con trong gia đình” đã tập trung nhất nét đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Thi về kể chuyện, về xây dựng nhân vật và về sử dụng ngôn ngữ. Những nét đặc sắc nghệ thuật đã góp phần tạo nên sức sống của tác phẩm trong lòng độc giả.
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Những đứa con trong gia đình” số 2
Mỗi tác phẩm văn học đều được các tác giả xây dựng với những đặc sắc nghệ thuật riêng. Nó là kết tinh về tài năng của các nhà văn. Và tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” cũng để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc với những đặc sắc nghệ thuật hấp dẫn.
Trước hết, nghệ thuật đặc sắc của “Những đứa con trong gia đình” là nghệ thuật trần thuật mà Nguyễn Thi thể hiện trong tác phẩm này. Truyện ngắn được kể theo ngôi số 3 nhưng lại nương theo điểm nhìn và giọng điệu của nhân vật Việt. Việt là một chiến sĩ giải phóng quân, sau một trận chiến đấu ác liệt anh bị thương nặng, lạc đồng đội, phải nằm lại nơi chiến trường. Việt ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh dậy rồi lại ngất đi. Tác giả men theo dòng hồi tưởng của nhân vật Việt để kể lại dưới hình thức lời nửa trực tiếp. Những lời văn và giọng điệu kể chuyện dưới điểm nhìn của Việt.
Với hình thức kể chuyện này để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhà văn có thể vừa nhập tâm vào thế giới nội tâm của nhân vật để diễn tả các cung bậc cảm xúc, các trạng thái phức tạp, sâu kín của tâm hồn.Qua cách trần thuật kể chuyện như vậy, Nguyễn Thi cũng tạo nên những trang văn giàu chất trữ tình. Những trang văn đầy ắp cảm xúc của nhân vật Việt. Đấy cũng là lí do mà tác phẩm để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đồng thời, cách kể chuyện như vậy cũng giúp nhà văn không bị lệ thuộc vào trình tự thời gian. Các sự kiện nhà văn có thể xáo trộn mà không phải tuân theo bất cứ một trình tự thời gian nào. Vừa có quá khứ, hiện tại được đan xem vào trong những dòng cảm xúc của nhân vật. Dòng nội tâm của nhân vật Việt khi đứt khi nối, các sự việc luôn được đan xen giữa quá khứ và hiện tại rất tự nhiên và linh hoạt. Cũng từ điểm nhìn của nhân vật Việt mà Nguyễn Thi tạo nên cảm giác gần gũi thân thiện khách quan cho câu chuyện với độc giả.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một thành công của tác phẩm. Cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi cũng chẳng thể lẫn với bất cứ nhà văn nào khác. Chiến và Việt tuy cùng sinh ra trong một gia đình nhưng cả hai nhân vật này lại có những tính cách rất trái ngược nhau. Nguyễn Thi chú ý tô đậm đến từng tính cách của các nhân vật. Nếu như Việt hiện lên với những nét hồn nhiên tinh nghịch và có những hành động vô cùng đáng yêu. Thì chị Chiến lại hiện lên là một cố gái mới lớn với đầy những tinh tế cùng lòng yêu nước căm giặc, lo toan tính toán từng việc nhỏ nhất trong gia đình.
Nguyễn Thi cũng thể hiện biệt tài trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Tâm lí của Việt trước đêm tòng quân, đặc biệt là lần tỉnh dậy thứ tư. Khi bị thương Việt hồi tưởng lại nhiều kỉ niệm và ngay cả khi bị thương mà tinh thần chiến đấu vẫn luôn sục sôi. Để rồi, khi nghe thấy tiếng súng của quân ta thì Việt lại trở về đúng với tính cách của một đứa trẻ.
Bên cạnh đó, “Những đứa con trong gia đình” còn thể hiện ngôn ngữ mang đậm hơi thở đời sống và giàu chất Nam Bộ. Tác giả kết hợp hài hòa giữa vốn ngôn ngữ phổ thông và với những sắc thái mang tính địa phương. Ví dụ như cách xưng hô “mầy-tao”, “má”…Sự xuất hiện của nhiều phương ngữ như vậy cho thấy tác phẩm mang đậm hơi hướng Nam Bộ không thể trộn lẫn. Nguyễn Thi sử dụng với mức độ hợp lí, tinh tế và linh hoạt. Do vậy, khi bước vào tác phẩm, tác giả như được tiếp xúc và nói chuyện với những con người Nam Bộ. Và cũng phải sống và gắn bó sâu sắc với người dân Nam Bộ thì tác giả mới am hiểu sâu sắc đến như vậy.
Có thể thấy rằng, “Những đứa con trong gia đình” thành công với nhiều yếu tố nghệ thuật sâu sắc. Và cũng chính những đặc sắc ấy mà Nguyễn Thi cho thấy ông lôi cuốn người đọc cùng với những trang văn hào hùng về một thời đấu tranh giải phóng dân tộc.
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Những đứa con trong gia đình” số 5
Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.
Tiếng hò chú Năm: Tiếng hò thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật. Qua tiếng hò ấy, chú Năm gửi gắm tâm sự của một con người yêu nước, căm thù giặc… Nó là lời nhắn nhủ của thế hệ đi trước với thế hệ sau: phải tiếp nối truyền thống cha anh, là nỗi lòng thiết tha của bậc cha chú truyền sức mạnh cho con cháu ngày ra trận (chú ý các từ: hiệu lệnh, lời thề…). Về nghệ thuật, chi tiết tiếng hò cho thấy khả năng khám phá tâm lí của Nguyễn Thi. Những cảm xúc tâm lí khó nắm bắt, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn người chú (đã lớn tuổi, là người giàu tình cảm nhưng ít và khó bộc lộ tình cảm trực tiếp) đã được bộc lộ qua tiếng hò. Hình tượng nhân vật hiện lên nhờ thể cũng tự nhiên, sinh động hơn, tính cách nhân vật cũng được khám phá dưới nhiều góc độ: vừa anh hùng, vừa chân chất, mộc mạc… Tiếng hò tạo màu sắc Nam Bộ cho tác phẩm: Ai đó đã nói thức ăn tinh thần chính của người Nam Bộ buổi đầu tiên là tiếng hò câu hát. Âm thanh tiếng hò vang lên giữa không gian sông nước, vườn cây trái mênh mông… rất giàu sức gợi về một không gian văn hóa đặc trưng Nam Bộ.
Cuốn sổ gia đình của chú Năm: Chú Năm viết chữ không đẹp vì mới thoát nạn mù chữ. Nhưng với cuốn sổ gia đình, chú không ghi qua loa mà rất cụ thể: “thím Năm chèo xuồng đi rọc lá chuối bị đại bác bắn bể xuồng, khi chết còn mặc cái quần mới, trong túi có hai đồng bạc”, bà nội bị lính Tổng phòng bắt, vết đạn bắn thằng giặc trên sông Định Thủy của Chiến và Việt,…Cuốn sổ gia đình ấy đã ghi dấu lại truyền thống yêu nước của gia đình qua các thế hệ. Nó là niềm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của một gia đình Nam Bộ. Nhưng bên cạnh đó, nó còn là bản án ghi lại rành rành tội ác của kẻ thù. Để những thế hệ đi sau mỗi khi đọc lại vẫn còn cảm nhận được máu và nước mắt đang nóng hổi trên từng trang giấy mà khắc sâu lòng căm thù và quyết tâm trả thù.
Cảnh khiêng ban thờ má: Chỉ trong gần nửa trang giấy nhưng đoạn văn trên đã gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Xúc động bởi đoạn văn đã chạm tới một miền tâm tưởng thuộc thế giới tâm linh của người Việt. Trong đời sống tinh thần, người Việt tin rằng có một thế giới khác, thế giới mà con người sẽ trú ngụ sau khi rời khỏi chốn dương gian. Quan niệm như vậy cho nên họ luôn cho rằng người đã chết chỉ thác về thể xác còn linh hồn thì vẫn tinh anh. Linh hồn vẫn có thể đi về giữa hai thế giới ấy. Từ đó người Việt lập ra bàn thờ để cùng người đã khuất. Bàn thờ trở thành nơi gặp gỡ của Vong linh người đã khuất với những người thân trong gia đình.
Trong buổi sáng trước giờ lên đường tòng quân, hai chị em Chiến, Việt đã cho mượn hoặc đem cho hết đồ đạc trong nhà riêng bàn thờ má thì đem gửi. Điều đó chứng tỏ bàn thở má là những gì thiêng liêng nhất trong cuộc sống mà hai chị em đều trân trọng, giữ gìn, nâng niu. Mà đã mất nhưng trong giờ phút khiêng bàn thở mà đem gửi, hai chị em cảm nhận được sự hiện diện gần gũi của má đâu đây. Hai chị em dường như đang nói cùng màu “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập, chúng con lại đưa má về”. Những cảm nhận của hai chị em Chiến, Việt cho ta hiểu đã không còn khoảng cách của hai thế giới của người còn sống và người đã khuất.
Những đứa con đã thấy hình bóng mẹ trở về trong tâm tưởng, trong không gian thoáng mùi hoa cam. Và hình như còn có cả bước chân lội đồng bì bõm của má trên con đường quen thuộc xưa mà đi và nay hai chị em đang bước qua. Đoạn văn xúc động bởi tác giả cho chúng ta tin rằng đã có một cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai chị em Chiến Việt và người mẹ đã khuất. Còn cuộc gặp gỡ nào cảm động hơn cuộc gặp gỡ ấy!
Sự phối hợp các thủ pháp nghệ thuật đã giúp tác giả tái hiện sinh động lịch sử bi thương mà hào hùng của một gia đình cách mạng. Nó phản ánh lịch sử của dân tộc, của vùng đất Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến.
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong “Những đứa con trong gia đình” số 3
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, người Nam Hà. Ông vào Nam từ năm 1945, gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Khọc Tấn. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai, viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi. Năm 1968, ông hy sinh tại Sài Gòn trong lúc ngòi bút còn đầy sung sức và nhiệt huyết. Là nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng. Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công nghệ thuật đồng hiện ở truyện Những đứa con trong gia đình (1966).
Theo nghĩa đen “đồng hiện” là “cùng thể hiện”. Trong truyện, đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm, một yếu tố thuộc về hình thức. Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai trò quan trọng trong công việc này. Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo. Từ đó, cốt truyện, nhân vật, chủ đề được thể hiện, gây hiệu quả nghệ thuật tác động đến độc giả… Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự kiện, các tình tiết, các nhân vật (hay các nét tính cách của nhân vật) được thể hiện trong một thời gian, một không gian hay trong một mảnh thời gian và không gian khác nhau.
Trong truyện “Những đứa con trong gia đình” nghệ thuật đồng hiện được thể hiện khá tinh tế. Dựa trên kết cấu lấy dòng suy tưởng làm nền. Nguyễn Thi đồng thể hiện các sự kiện trong một thời điểm, các nhân vật (và các nét tính cách của nó) trong cả hai mảnh thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả.
Trước hết xin nói về cách đồng hiện các sự kiện trong một thời điểm ở truyện Những đứa con trong gia đình. Sau cuộc giao tranh ác liệt giữa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mỹ, Việt bị thương nặng, ngất đi. Việt tỉnh dậy, trận địa vắng tanh, “trừ tiếng máy bay”. Chiến trường vẫn còn nguyên vẹn với những chiếc xe tăng, xe bọc thép cháy, những vỏ đạn tanh máu, xác lính Mỹ bốc mùi… “Việt cho mũi lê đi trước”, “Lên đạn”… sẵn sàng “phụ với các anh”, trận đánh được miêu tả hình như chưa kết thúc. Thời điểm để nhà văn chọn miêu tả thời gian trước và sau trận đánh hình như là thời điểm ở giữa thời gian này? Mặt khác, những chi tiết truyện, theo phân tích trên, không phải là đã kết thúc, cũng không phải là đang xảy ra. Nó là sự kiện đang xảy ra. đã xảy ra và được nhìn trong cái đã kết thúc, sắp kết thúc. Nói cho dễ hiểu hơn, người ta thấy được trận đánh đã và sẽ xảy ra như thế nào ở một thời điểm ở trong nó. Nhìn vào những gì xảy ra ở thời điểm đó, người ta thấy tất cả.
Bây giờ thì Việt đã ở quân y viện. Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại, nhớ lại. Thành ra anh có thể thấy được cả mảng đời trong hiện tại của mình và có thể nhớ lại cả mảng đời của gia đình mình trong quá khứ. Anh như lần về quá khứ từ gần đến xa lắc. Thông qua dòng độc thoại diễn ra trong Việt ở các thời điểm nằm ở quân y viện kia bao nhiêu sự kiện vui buồn, bao nhiêu số phận con người trong chiến tranh như cùng về một lúc. Lần lượt nhưng không theo một trình tự nào, Những đứa con trong gia đình giàu truyền thống cách mạng của anh được tái hiện ở những nét tính cách chung và riêng rẽ như họ đang ở trước mặt.
Nhân vật trung tâm là Việt. Dù ở thời gian, không gian nào, nhân vật cũng được khắc họa song song hai nét tính cách cơ bản: chiến sĩ – trẻ thơ. Ở quân y viện “Hai mắt còn khăng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm. Việt “với cây viết chì… mò mò viết thử”. Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị. Anh sợ cái tiếng “cậu tư”. Sợ mất “chị ba” quyết chiến. Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”. Thật là ngây thơ! Cái ngây thơ đáng yêu của một anh lính trẻ, dũng cảm thật đấy mà cũng khờ khạo thật đấy trước cuộc đời. Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo lối tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật!
Trên chiến trường ngổn ngang xác giặc, Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức, người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện. Thế mà khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”, Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi, lóp ngóp đi” soi ếch cùng chị. “Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình “, em cũng không chịu nhường ai đi trước, chú Năm phải đứng ra “xin trên cứ ghi tên cho cả hai”…
Qua một vài điều đã nói trên, ta thấy thủ pháp nghệ thuật để thực hiện nghệ thuật đồng hiện trong khi khắc họa nhân vật Việt, chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng, phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác; từ chi tiết, nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia… Trong sự liên kết đó, dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất. Từ chi tiết anh em trong quân y viện gọi anh là “cậu tư”. Việt chợt nhớ tới chị Chiến, nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh. Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thế viết được vì hai mắt vẫn còn bị băng kín. Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom, nhớ lại trận đánh của chính mình. Việt nhớ lại trong trận đánh, anh đã ngất đi; tỉnh lại, bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó, tuổi thơ, những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ… Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện: Đôi mắt của Nam Cao. Ở đó, câu chuyện cũng diễn ra theo dòng hồi tưởng của nhân vật Độ. Khác chăng là Nam Cao để Độ xưng “tôi” và tự kể. Còn ở đây, Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng Việt. Ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa để cho tâm trạng ấy nói lên câu chuyện mình muốn kể. Có lẽ đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo, sáng tạo.
Vẫn bằng cách trên, theo dòng độc thoại của nhân vật Việt, tác giả lần lượt cho xuất hiện và đồng hiện các nhân vật Chiến, chú Năm, ba má Việt, Tánh. Cũng như Việt, Chiến tòng quân và chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương. Chị đã chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc”, ‘như ta đang ngủ vậy”. Chiến chỉ khác Việt ở chỗ, là người chị cả trong gia đình nên sớm trường thành. Chị theo mẹ nuôi và dạy dỗ em, lo toan tính toán tất cả mọi việc trong nhà. Là người chị cả của gia đình, Chiến dứt khoát không nhường em là việc ghi tên để tòng quân. Nhớ và nghĩ về người chị, dòng tâm tưởng của Việt như cố dừng lại ở những kỉ niệm đẹp khó quên.
Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng, gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến địa đã im tiếng súng.. Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về, chú đều “kiếm con trọng trọng đem về nhậu”. Có hai đoạn văn đẹp như thơ là đoạn chú Năm “nhậu vào ba hột là chú nói tới”, hay “hò lên mấy cáu”. Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước. Đoạn văn khác kể về cuốn sổ gia đình chú ghi, hầu để sau này “giao… cho chị em bây”. Cuốn sổ lần về quá khứ lẫn trong hiện tại, không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại, chéo lại bởi cái nhìn, cái cảm, cái yêu, cái ghét của một tính cách Nam Bộ trọng nghĩa, bộc trực, sôi nổi, yêu đời.
Ba và má Việt hiện về trong Việt như những kỉ niệm về lòng yêu thương và căm thù. Tình yêu của ba má, con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể không lên đường cứu nước. Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết nên bằng nước mắt. Đọc, thấy xúc động cùng nhân vật; đau nỗi đau cùng nhân vật…
Hai nét chính yếu của Nghệ Thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình mà ta vừa phân tích trên, có nhiều tác dụng đối với truyện. Chính nó làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng, đậm đà tình người… tưởng như chập chờn, đứt nối, rời rạc., liền lại trong mạch ngầm tâm tường khá chặt chẽ. Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trận hồi chiến tranh. Các mảng sự kiện, những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau, bố sung cho nhau một cách hợp lí, làm cho tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét và chủ đề truyện được bộc lộ khá nổi bật. Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lí nhân vật. Nó cũng đòi hỏi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc, am hiểu và đồng cảm với nhân vật. Tất cả những điều này, Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công.
Nghệ thuật đồng hiện trong “Những đứa con trong gia đình” có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện. Thực ra lôi kết cấu này không mới. Cái mới ở đây là nó được thực hiện khá toàn diện và đạt được những đỉnh cao. Những đỉnh cao này ghi dấu những đóng góp quý báu của Nguyễn Thi trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là bộ phận văn học viết về đề tài chiến tranh và cách mạng.
Có thể bạn thích: