Nguyễn An Ninh (1900 – 1943) là một nhà báo, một nhà văn và trước hết là một nhà yêu nước tiến bộ nổi tiếng đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp và tên tuổi của ông gắn liền với những buổi diễn thuyết sôi động và những bài báo nổi tiếng đã từng một thời cuốn hút thanh niên và dư luận trong nước. “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” là bài chính luận xuất sắc của Nguyễn An Ninh với bút danh Nguyễn Tịnh đăng trên báo “Tiếng chuông rè” năm 1925. Tác phẩm là tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc. Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ và làm cho nó ngày càng phát triển đồng thời là nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích văn bản đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài phân tích “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” số 5
Nguyễn An Ninh (1899 – 1943) sinh ra ở quê mẹ – xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An), lớn lên ở quê cha – xã Mĩ Hoà, Hóc Môn, Gia Định, nay là ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ ông là nhà thơ yêu nước Nguyễn An Khương. Nguyễn An Ninh là một trí thức yêu nước có học vấn. Ông từng học đại học trong nước rồi sang Pháp học, đỗ Cử nhân Luật năm 1920. Ông từng tìm hiểu nhiều nước châu Âu và có quan hệ khá mật thiết với các nhà yêu nước nổi tiếng như Hồ Chí Minh, Phan Văn Trường.
Từ một trí thức Tây học, ông đến với chủ nghĩa Mác và những người cộng sản. Ông hoạt động cách mạng rất năng nổ, từng nhiều lần bị bắt giam, bị hành hạ và tù đày, cuối cùng ông mất tại Côn Đảo. Sự nghiệp và tên tuổi của Nguyễn An Ninh gắn với những buổi diễn thuyết sôi động và những bài báo nổi tiếng một thời cuốn hút thanh niên và dư luận trong cả nước. Là một trí thức tân tiến, ông phê phán mạnh mẽ đạo Khổng và đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu để xây dựng một nền văn hoá đặc sắc riêng của nước nhà. Văn phong của Nguyễn An Ninh khúc chiết, trong sáng, vừa có độ sâu về tư duy văn hoá vừa tràn đầy nhiệt huyết của con người yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.
Trong bài văn, Nguyễn An Ninh đã cực lực phê phán những kiểu học đòi chạy theo “Tây hoá”:– Đó là việc: “Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình”, bởi họ cho đó là “một dấu hiệu thuộc kẻ giai cấp quý tộc”. Nhiều người khác lại hùa theo những “kiểu kiến trúc và trang trí lai căng” của phương Tây. Theo tác giả: “Nhiều người An Nam bị Tây hoá hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của phong hoá châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương”. Tuy nhiên, thực tế thì họ “chẳng có được một thứ văn minh nào”. Không những thế, “Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”.
Theo tác giả, tiếng nói vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc. “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Nhận định của tác giả là hoàn toàn có căn cứ bởi tiếng nói là tinh thần của dân tộc, là văn hoá của dân tộc và như chính tác giả đã khẳng định: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi […]. Vì thế đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình […]”.
Tác giả đã đưa ra ba dẫn chứng để khẳng định rằng tiếng nước mình không nghèo nàn: “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?”. Tác giả đặt ra một câu hỏi mang tính khẳng định. Ngôn ngữ của Nguyễn Du là ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều – một kiệt tác văn chương được đánh giá là đã thể hiện được 1 cách sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người nhất là đời sống nội tâm. Truyện Kiều là một minh chứng về khả năng biểu đạt tài tình của ngôn ngữ mà không ai có thể phủ định được. Đó là một dẫn chứng hoàn toàn thuyết phục.
Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?”. Một sự suy luận rất lô gích và hoàn toàn có lí. Trung Hoa rộng lớn và được coi là một trong các những cái nôi văn hoá của thế giới. Tác phẩm văn học của họ phong phú và cũng vô cùng sâu sắc, thế nhưng ngôn ngữ của ta vẫn đủ sức chuyển dịch được tất cả những điều tưởng như quá lớn lao ấy. Tiếng An Nam đã làm được như vậy thì theo tác giả, không có lí gì để chúng ta không thể viết được những tác phẩm tương tự (bởi ngôn ngữ của chúng ta thừa khả năng biểu đạt được những điều đó).
Dẫn chứng thứ ba được tác giả đưa ra solo giản hơn tất cả. Nó hướng người ta vào hành động và nếu ai còn hoài nghi, thậm chí có thể kiểm tra lại ngay bất cứ lúc nào: “Ở An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”.
Phê phán những kẻ học đòi Tây học nhưng Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài. Theo tác giả: “Chúng ta không thể né tránh châu Âu, vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu”. Như thế, theo tác giả, rõ ràng muốn nước mình độc lập, thì phải hiểu nước ngoài mà muốn hiểu được họ thì trước hết phải nắm được ngôn ngữ của họ. Không phủ nhận, thậm chí, tác giả còn khuyến khích việc để cho “Đồng bào của họ cũng phải được thông phần nữa”. Sự hoà hợp của thế giới là một sự tất yếu. “Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”.
Trong bài viết, Nguyễn An Ninh khẳng định: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị, câu nói trên của tác giả là có lí nhưng không hoàn toàn đúng. Muốn giải phóng dân tộc, chúng ta phải làm một cuộc cách mạng vũ trang với một đường lối đúng đắn, chứ không thể chỉ làm cho ngôn ngữ phong phú được.
Bài phân tích “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” số 2
Là một nhà văn, nhà báo, nhà yêu nước nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn An Ninh đã để lại cho bạn đọc thế hệ sau nhiều bài báo, bài diễn thuyết, những bài chính luận đặc sắc với lối viết khúc chiết, trong sáng, không những có độ sâu về tư duy mà còn tràn đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước. Tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức” đăng trên báo Tiếng chuông rè năm 1925 là một trong các số những bài chính luận xuất sắc của ông.
Trong đoạn văn mở đầu bài viết của mình, tác giả Nguyễn An Ninh đã lên tiếng phê phán lối học đòi “Tây hóa”, “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình” của nhiều người dân An Nam. Với tác giả, dường như, những người có thói học đòi nói tiếng Tây, cóp nhặt “những cái tầm thường của phong hóa châu u” ấy đang lầm tưởng rằng họ có thể trở thành kẻ giai cấp quý tộc, trở thành những người được đào tạo theo kiểu của phương Tây. Nguyễn An Ninh đã nhìn thẳng vào vấn đề và lên tiếng phê phán điều đó. Ông xem việc đó chính là biểu hiện cho “thái độ mù tịt về văn hóa châu u” mà thôi.
Không chỉ phê phán thói học nói tiếng Tây, Nguyễn An Ninh còn phê phán lối sống lai căng trong cách ăn uống và xây dựng, kiến trúc nhà “Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào”. Và để rồi, trên cơ sở những điều đã phê phán, kết thúc đoạn văn mở đầu tác phẩm, tác giả đã nêu lên hậu quả nghiêm trọng của việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ đó chính là “làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nói lo lắng” điều đó có nghĩa là nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến “giống nòi” của người dân An Nam.
Không chỉ dừng lại ở việc phê phán thói học đòi “Tây hóa”, trong phần tiếp theo của bài viết, tác giả Nguyễn An Ninh đã nêu lên những giá trị và vai trò to lớn của tiếng nói đối với vận mệnh dân tộc. Trước hết, tiếng nói là “người bảo vệ quý báu nhất cho nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Nguyễn An Ninh đã đề cao vai trò, giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc trước cuộc xâm lăng của các dân tộc khác, bởi lẽ với ông “bất cứ người dân An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì đương nhiên cũng khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi”. Đồng thời, tiếng nói còn là nhịp cầu tri thức mở mang dân trí, đưa dân tộc ta tiếp xúc với các nền văn minh trên thế giới.
Để làm rõ cho vấn đề này, tác giả đã chỉ ra rằng “nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết và khoa học châu u” thì việc giải phóng dân tộc ở nơi đây chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn. Thêm vào đó, tác giả cũng đi sâu phê phán những than phiền sự nghèo nàn của tiếng mẹ đẻ để biện minh cho hành động học đòi Tây hóa của mình để rồi từ đó nêu lên và khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt, để chứng minh rằng tiếng nước mình không nghèo nàn. Với Nguyễn An Ninh, những người than phiền tiếng Việt nghèo nàn bởi họ “chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ.” Ông đã đưa ra minh chứng về đại thi hào Nguyễn Du và đặt ra câu hỏi “Ngôn ngữ Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Có lẽ câu hỏi ấy của ông đã thêm một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt của chúng ta không nghèo mà nó rất phong phú và để rồi từ đó, kết thúc đoạn văn, ông đã đặt ra một câu hỏi, gợi lên một vấn đề khiến mọi người phải không thôi suy nghĩ “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?”
Cuối cùng, đoạn kết thúc tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức” tác giả đã nêu lên quan điểm, suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với ngôn ngữ nước ngoài. Nguyễn An Ninh không né tránh việc cần thiết phải biết một thứ ngôn ngữ châu u, với ông con người An Nam, nhất là giới trí thức “phải biết ít nhất là một thứ ngôn ngữ châu u để hiểu được châu u” và hơn nữa, họ còn cần chia sẻ những điều họ biết, họ hiểu với dân tộc, với đồng bào mình nữa. Không dừng lại ở đó, ông cũng còn khẳng định rằng, học để biết một thứ tiếng nước ngoài không đồng nghĩa với việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ mà ngược lại nó còn góp phần bồi đắp, làm phong phú, giàu có thêm cho ngôn ngữ nước mình.
Tóm lại, bài viết “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc” của Nguyễn An Ninh với lối lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục đã mang đến cho người đọc một vấn đề quan trọng trong mỗi thời đại – giữ gìn tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc mình. Đồng thời, qua bài viết cũng gợi lên trong mỗi người tình yêu, lòng tự hào và ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng nước mình.
Bài phân tích “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” số 4
Nguyễn An Ninh (1900 – 1943), quê ở xã Mĩ Hoà, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1920, ông tốt nghiệp ngành Luật tại Đại học Xoóc-bon (Pa-ri). Sau đó, ông đi tìm hiểu 1 số nước châu Âu, năm 1922 trở về nước viết báo và diễn thuyết chống đế quốc. Năm 1939, bị kết án, đi đày ở Côn Lôn, ông bị hành hạ đến kiệt sức và chết trong tù.
Nguyễn An Ninh để lại nhiều bài văn chính luận đặc sắc, trong đó có bài Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (1925). Với tinh thần trách nhiệm của một nhà văn, nhà báo, ông viết bài báo với mục đích đánh thức ý thức dân tộc trong mỗi người Việt Nam. Ông đã dùng những lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ để chỉ ra và thuyết phục người nghe về ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt.
Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm tiêu biểu cho thể văn chính luận, một thể văn coi trọng lí luận, trình bày những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Ngay ở nhan đề, bài báo đã chỉ ra vai trò quan trọng và thiêng liêng của tiếng Việt, đó là : nguồn giải phóng của dân tộc. Bài báo có bố cục chặt chẽ, khoa học thể hiện khả năng tư duy logic của một nhà báo hoạt động chính trị; vì vậy, nó vừa có sự hấp dẫn của báo chí, vừa có tính thuyết phục, tư tưởng của một bài diễn thuyết chính trị.
Mở đầu bài viết, tác giả phê phán 1 số người do thiếu hiểu biết, thích khoe khoang nên đã vô tình “từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ”. Phần tiếp theo, tác giả thuyết minh cho tư tưởng nòng cốt của bài viết : Tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với lối viết ngắn gọn, súc tích, tác giả đã chỉ ra 1 cách cụ thể ý nghĩa của tiếng mẹ đẻ, đồng thời khẳng định và chứng minh rằng: Tiếng Việt rất giàu có…
Phần kết thúc, tác giả trình bày vai trò hướng đạo của giới trí thức trong việc phát triển ngôn ngữ dân tộc, quan niệm của mình về mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Cốt lõi của quan điểm đó là: học tiếng nước ngoài trên tinh thần tiếp thu lựa chọn tinh hoa để làm giàu có hơn cho ngôn ngữ nước mình.
Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm tiêu biểu cho thể văn chính luận. Cũng có thể coi bài diễn thuyết này của tác giả Nguyễn An Ninh là một tác phẩm xuất sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Là một trí thức Tây học, với lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm, nhà báo Nguyễn An Ninh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người Việt Nam vốn dòng Lạc hồng. Ông đã xác định rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ “hướng đạo” của một trí thức chân chính.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, phần lớn đội ngũ trí thức Việt Nam xuất thân từ nhà trường Tây học. Họ được học ở trường Tây nên dù ít hay nhiều, họ đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng nô dịch, sùng bái phương Tây. Những kẻ học không đến nơi đến chốn, tư tưởng không đủ sâu hoặc thiếu tình cảm với dân tộc đã mang một tư tưởng rất đáng phê phán: coi trọng Tây phương và coi thường dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy, nhà báo Nguyễn An Ninh đã viết bài báo này để đánh thức những kẻ đang có những hiểu biết rất nông cạn về văn hoá, chỉ ra cho họ thấy sai lầm của mình. Từ đó, giúp họ ý thức rõ hơn trách nhiệm đối với dân tộc, cụ thể là trách nhiệm đối với việc bảo vệ, gìn giữ và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Bởi tiếng nói là linh hồn, là tinh hoa của nền văn hoá dân tộc.
Tác giả bài viết đã dùng lời lẽ rất sắc sảo thể hiện thái độ dứt khoát, mạnh mẽ khi phê phán những kẻ thiếu hiểu biết mà vô tình coi thường dân tộc mình. “Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng mạch lạc bằng tiếng nước mình”. Ngay ở câu mở đầu, tác giả đã phê phán những kẻ sùng ngoại, không thạo tiếng Tây nhưng lại thích ra vẻ người Tây. Tác giả đã dùng hai cụm từ có ý nghĩa đối nhau để chỉ ra cái vô lí của những kẻ thích dùng tiếng Tây mà khoe mẽ: bập bẹ năm ba tiếng Tây và diễn tả ý tưởng mạch lạc. Sắc thái châm biếm thể hiện rõ hơn, gay gắt hơn ở những câu tiếp theo: “Hình như đối với họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương”.
Tác giả đã lựa chọn những từ ngữ, chi tiết giàu khả năng biểu cảm để bộc lộ thái độ của mình trước hiện tượng học đòi 1 cách thiếu hiểu biết của những kẻ luôn muốn tỏ ra là có văn hoá. Tác giả đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình khi đưa ra những lí lẽ đanh thép và lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể về hiện tượng lai căng, học đòi 1 cách thiếu văn hoá. Tác giả đã không e dè khi sử dụng những cụm từ cóp nhặt những cái tầm thường, mù tịt về văn hoá, kiến trúc và trang trí lai căng, được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chẳng có được một thứ văn minh nào… Tác giả đã thể hiện khá gay gắt thái độ phê phán đối với những kẻ quá sùng Tây, học đòi Tây 1 cách thiếu học thức. Ông đã tổng kết đánh giá đồng thời thể hiện thái độ của mình trong câu: “Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”.
Sau khi chỉ ra những sai lầm trong suy nghĩ của nhiều người An Nam đương thời về việc sử dụng tiếng nói dân tộc, tác giả bài viết tiếp tục thể hiện quan điểm và thực hiện mục đích của mình bằng cách chứng minh vai trò, ý nghĩa quan trọng của tiếng mẹ đẻ. Tác giả đã dùng dẫn chứng cụ thể và thuyết phục để chứng minh “tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức”. Luận điểm nghe có vẻ trừu tượng nhưng đã được chứng minh 1 cách cụ thể: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”.
Để làm tăng khả năng tác động tới người nghe, người đọc, tác giả khái quát: “Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với chối từ sự tự do của mình…”. Quan điểm ấy hoàn toàn đúng đắn và đủ sức thuyết phục. Một dân tộc tự do không chỉ là tự do về chủ quyền, về địa lí, về quyền sống mà một dân tộc thực sự tự do, độc lập là dân tộc có nền văn minh riêng với bản sắc văn hoá riêng của mình. Bởi nô dịch về văn hoá sẽ dẫn đến nô dịch về mọi phương diện. Văn hoá, mà trong đó ngôn ngữ là yếu tố quan trọng, đã bị lai căng, đã mất đi bản sắc hoặc bị huỷ diệt thì dân tộc đó đã đánh mất mình và trở thành kẻ phụ thuộc, kẻ “sống nhờ ở đợ”. Cũng chính vì vậy mà những kẻ đi xâm lược luôn rất quan tâm đến vấn đề nô dịch văn hoá, chăm lo cho chính sách nô dịch văn hoá.
Để giải quyết triệt để về tư tưởng, đấu tranh đến cùng với những luận điệu phản dân tộc, tác giả tiếp tục đưa ra những lập luận chặt chẽ và lí lẽ sắc bén. Ông đã bác bỏ 1 cách dứt khoát quan niệm “tiếng nước mình nghèo nàn”, cho rằng “Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả”. Theo ông, đó chỉ là lí lẽ “để biện minh cho việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ”, không phải tiếng mẹ đẻ nghèo mà là do họ thiếu hiểu biết về ngôn ngữ dân tộc mà thôi. Không lí luận nhiều, tác giả chỉ đưa ra liên tiếp ba câu hỏi tu từ :
“Ngôn ngữ của Nguyễn Du giàu hay nghèo?”
“Vì sao người An Nam… tác phẩm tương tự?”
“Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người ?”
Những câu hỏi tu từ đã thể hiện thái độ dứt khoát và quyết liệt của người viết đối với những kẻ cho là ngôn ngữ dân tộc ta nghèo nàn. Có thể dễ dàng nhận thấy quan niệm của Nguyễn An Ninh về việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ giàu hay nghèo là do khả năng và trình độ của người sử dụng. Ngôn ngữ nghèo với những người thiếu hiểu biết về ngôn ngữ và không hiểu rõ về điều mình muốn trình bày. Đây là tư tưởng lớn và có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với vấn đề chính trị mà ông đang trình bày mà còn là một quan điểm đúng đắn để người sử dụng tiếng nói làm phương tiện giao tiếp quan tâm suy nghĩ. Cách lập luận của tác giả ở đây không chỉ thuyết phục mà còn khiến người đọc phải trăn trở, phải suy nghĩ.
Đoạn kết thúc đã giải quyết 1 cách toàn diện tư tưởng của bài viết. Phần đầu, tác giả phê phán quan điểm sùng tiếng Tây, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Bởi vì, bảo vệ và gìn giữ tiếng nói dân tộc không có nghĩa là từ chối sử dụng các ngôn ngữ khác. Tác giả Nguyễn An Ninh đã kết thúc bài viết của mình bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ của dân tộc khác. Việc học thêm ngôn ngữ của dân tộc khác là cần thiết, nhất là giới trí thức : “vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu”. Vậy, tiếng nước ngoài cũng rất cần thiết với mọi người, “Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”.
Về điều này, chúng ta nên tự hào và nên học tập cha ông chúng ta, những người đã làm cho ngôn ngữ của chúng ta giàu có như ngày nay. Trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, suốt thời phong kiến, cha ông ta sử dụng tiếng Hán trong nhà trường, trong công việc hành chính. Vậy mà, tiếng Việt không bị Hán hoá, ngược lại, quá trình Việt hoá tiếng Hán lại đạt được thành tựu đáng tự hào mà ngày nay chúng ta đang được hưởng thụ. Quan điểm của Nguyễn An Ninh thể hiện trong bài viết Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tiếng Việt cần phải được bảo vệ và gìn giữ.
Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là một văn bản chính luận xuất sắc từ đề tài, nội dung đến hình thức thể hiện. Bài viết thể hiện rõ chính kiến của người viết về một vấn đề chính trị – xã hội bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm… Bài viết đã chứng minh khả năng thuyết phục xuất sắc của một nhà báo và tâm huyết với dân tộc của một nhà hoạt động chính trị.
Bài phân tích “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” số 1
Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức thuộc hệ thống các bài viết của Nguyễn An Ninh nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc bằng cách vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nước ngoài vừa biết bảo vệ, gìn giữ và phát triển tiếng mẹ đẻ. Đây được coi là bài chính luận xuất sắc của ông với bút danh Nguyễn Tịnh đăng trên báo Tiếng chuông rè (1925).
Đoạn trích mở đầu bằng sự phê phán thói “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình “. Đây là kiểu học đòi nói tiếng Pháp thường được gọi là kiểu Pháp bồi, chỉ chuyên đi ” cóp nhặt những cái tầm thường ” để tạo ra một hình thức để bắt buộc những người khác “tin là họ đã tạo theo kiểu Tây phương”. Những người học đòi theo kiểu bồi đó không hiểu được rằng họ không những không đủ trình độ hiểu biết cần thiết mà cũng không thể hiểu được đầy đủ chính xác các nền văn hóa “ngoại bang ” khác. Nguyễn An Ninh gọi điều đó là “Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu”.
Ông phê phán cách học như vậy và chỉ ra sự lai căng mà những kẻ ” Tây học” kiểu đó cố tình tạo ra : “Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào”. Hệ quả của việc làm đó là: “Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”.
Tiếp đó, Ông phân tích bản chất của tiếng mẹ đẻ, của ngôn ngữ dân tộc. Ông chỉ ra lợi ích thiết thực của việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ, của việc dùng tiếng mẹ đẻ: “Tiếng nói là lời bảo vệ quý báo nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. “Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình”. Vì sao lại thế ? Bởi vì : “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Như vậy, học châu Âu không phải để thu được vài tiếng bồi mà là tiếp thu khoa học, các học thuyết lớn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để tìm ra con đường đi thích hợp cho dân tộc mình, là lấy lí luận của phương Tây để phản bác lại phương Tây.
Ông chỉ trích những người chê bai tiếng Việt nghèo nàn và chỉ rõ những lời trách cứ như vậy đều không có cơ sở. Bởi vì những người đó : “Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Từ đó ông đưa ra câu hỏi buộc những người có lương tâm với dân tộc đều phải suy nghĩ : “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người ?”. Ở đây, ông chỉ rõ thái độ vô trách nhiệm, thái độ phủ nhận 1 chiều của những người cam tâm làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân, bởi lẽ chê bai đất nước 1 cách thụ động, giản đơn, một chiều, sẽ dẫn tới thái độ khinh rẻ đất nước, dẫn tới sự tự ti dân tộc.
Từ đó, ông chủ trương học người để làm cho mình lớn lên: “Chúng ta không tránh né châu Âu, vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu. Nhưng những kiến thức thu thập được, họ không phải giữ riêng cho mình. Đồng bào của họ cũng phải được thông phần nữa. Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”. Thực tiễn của mấy chục năm sau khi đất nước độc lập đã chứng minh điều mong muốn này của Nguyễn An Ninh. Từ đây, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ và việc tiếp thu văn hóa nước ngoài không hề loại trừ nhau hay mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau.
Nổi bật lên ở đây là nghệ thuật lập luận dẫn dắt vấn đề. Trước hết, cũng cần nói tới khả năng của tư duy lí tính theo mô hình tư duy phương Tây, đặc biệt là kiểu hình tư duy khoa học của người Pháp mà tác giả Nguyễn An Ninh đã tiếp thu được từ nhà trường Pháp, cũng có đóng góp quan trọng cho việc nhìn nhận và lí giải vấn đề tiếng mẹ đẻ này. Tiếp đó, tác giả lần lượt đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề tiếng mẹ đẻ và đặt ra trách nhiệm chung cho toàn xã hội, đặc biệt cho những người có học, những người Tây học, là phát triển hơn nữa tiếng mẹ đẻ, tiếng nói chung của dân tộc. Bảo vệ tiếng mẹ đẻ không chỉ dừng lại ở mức độ biết hoặc thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ mà phải làm cho tiếng mẹ đẻ đó phát triển đi lên, bằng cách tiếp nhận các khái niệm mới, bổ sung, hoàn thiện vốn từ ngữ của dân tộc, dùng tiếng mẹ đẻ để chuyển tải những học thuyết tiến bộ về “đạo đức và khoa học” để mở đường đi lên cho dân tộc.
Việc lập luận chặt chẽ này có tính thuyết phục cao bởi đối tượng quan trọng mà tác giả hướng tới là đội ngũ trí thức Tây học, nhằm thức tỉnh họ, đặt họ trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc. Do đó, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ cũng chính là một hành động yêu nước, thương nòi.
Bài phân tích “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” số 3
Nội dung chính của bài chính luận Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức cho thấy Nguyễn An Ninh là người am hiểu sâu rộng trong lĩnh vực ngôn ngữ nói chung. Tác giả đã có những nhận xét tinh tế về việc người An Nam sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (ở đây là tiếng Pháp); những lý giải thấu đáo và những giải pháp đúng đắn trong việc học tiếng nước ngoài của giới trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.
Điều quan trọng nhất là bài chính luận đã nêu lên quan điểm đúng đắn của Nguyễn An Ninh về tiếng nói dân tộc trên nhiều phương diện. Ông chống lại thói Tây há lố lăng của không ít người An Nam lúc bấy giờ. Thói quen này làm tổn hại đến tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Nguyễn An Ninh phê phán quan niệm sai lầm cho rằng tiêng nước mình nghèo nàn. Tuy đề cao tiếng Việt nhưng ông vẫn khuyến khích giới tri thức học tiếng nước ngoài.
Ông có quan niệm hết sức đúng đắn rằng “Sự cần thiết phỉa biết một ngoại ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài cho mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”. Ông đề cao sức mạnh của tiếng nói dân tộc, coi đó là người bảo vệ cho nền đọc lập dân tộc, như là yếu tố quan trọng để giải phóng dân tộc. Những ý kiến của Nguyễn An Ninh về tiếng mẹ đẻ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là từ gốc độ văn hóa.
Ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều một kiệt tác văn chương được đánh giá đã thể hiện 1 cách sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người. Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”. Một sự suy luận logic và hoàn toàn có lí. “Ở An Nam cũng như mọi người khác đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”
Tuy nhiên, trong bài luận của mình, có lúc Nguyễn An Ninh đề cao quá mức vai trò của tiếng mẹ đẻ, đôi lúc thể hiện sự tuyệt đối hóa: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Hai chữ nhất trong đoạn văn rõ ràng quá nhấn mạnh vai trò của tiếng mẹ đẻ trong câu khái quát chung.
Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí còn khuyến khích việc “để cho đồng bào họ cũng phải được thông phần nữa”. Việc biết thêm ngôn ngữ nước ngoài phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình. Trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân giai cấp thì câu nói “Nếu người An Nam hãnh diện… vấn đề thời gian” có lí, nhưng không hoàn toàn đúng. Chúng ta muốn giải phóng thì cần cuộc cách mạng vũ trang chứ không solo thuần chỉ làm cho ngôn ngữ phong phú
Khi cụ thể hóa vấn đề vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ông lại viết: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Nói như vậy là tự đặt tiếng nói dân tộc lên vị trí quá cao, tách rời và xem nhẹ các yếu tố khác trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đó chính là hạn chế của bài chính luận này.
Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh cu thể thì bài viết này đã đánh thức được lòng tự hào dân tộc, phát huy sức mạnh tinh thần của dân tộc. Đó chính là dụng ý của tác giả khi viết bài chính luận này.
Có thể bạn thích: