Xuất hiện trong phong trào Thơ mới như một làn gió mới, Vũ Đình Liên đã để lại ấn tượng với người đọc bằng bài thơ Ông đồ – một tác phẩm về sự hoài niệm, hoài … xem thêm…cổ cho những giá trị xưa của dân tộc. Đọc bài thơ, người đọc chúng ta không khỏi thương cảm cho hình ảnh của những ông đồ “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” đã cũ xưa kia. Và hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ là hình ảnh của ông đồ già khi thời Nho học còn đang được trọng vọng khiến chúng ta cảm nhận được cái giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Dưới đây là những bài văn cảm nhận khổ 1, 2 bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên sách Ngữ văn 8 hay nhất mà TopChuan.com đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 6
Mỗi dịp tết đến xuân về, người Việt xưa thường có thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó, viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Người có hoa tay, viết chữ mà tưởng như vẽ bức tranh.
Đầu thế kỉ XX, trên các phố phường Hà Nội còn lưu giữ lại hình ảnh những cụ đồ nho cặm cụi đậm tô từng nét chữ “tròn, vuông tươi tắn” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đón Tết. Hình ảnh ấy đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản dị mà sinh động:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua
Cấu trúc “mỗi…lại” cho ta thấy sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đã trở thành sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy nói “hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương.
Dẫu chỉ chiếm một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh thơ này, ông đò lại trở thành tâm điểm. điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái quý giá nhất mà ông có. đoạn thơ hai mươi chữ giới thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ sau:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Từ phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đò ngồi viết chữ.Câu thơ ấm ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chất phiếm định “bao nhiêu” và tính từ “tấm tắc”biểu đạt sự thán phục, ngợi ca, trân trọng. Người xưa quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền. Học chữ ấy không phải để kiếm sống mà mục đích cao nhất là để làm người, để có thể phò vua, trợ nước, giúp đời.
Đầu thế kỉ XX, tình hình đất nước Việt Nam có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực. Tình trạng “Âu học chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” rồi khoa thi cuối cùng của triều đình phong kiến đã làm tiêu tan bao giấc mộng vinh quy bái tổ của các đệ tử của Khổng sân Trình.
Để tìm kế sinh nhai, họ chỉ còn một cách duy nhất là đi bán chữ như hoàn cảnh của ông đồ trong bài thơ. Dẫu việc đánh đổi chữ thánh hiền để lấy miếng cơm manh áo chỉ là việc cùng bất đắc dĩ, chẳng phải vui sướng, danh giá gì nhưng cái tấm tắc ngợi khen của người đời cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời. Họ súm sít thuê ông viết chữ, trầm trồ trước cái tài hoa của ông cũng có nghĩa là còn biết trân trọng tài năng và cái đẹp.
Hai câu tiếp theo, nhà thơ miêu tả cận cảnh, đặc tả nét bút tài hoa của ông đồ:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng mua rồng bay
Câu thơ gợi ta nhớ đến một hình ảnh tương tự mà Đoàn Văn Cừ ghi lại được trong phiên chợ tết:
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Người đọc tưởng như nhìn thấy trước mắt bàn tay có những ngón thon dài nhỏ nhắn của ông đồ uốn lượn cây bút. Theo đà đưa đẩy của bút lông từng nét chữ còn tươi màu mực dần dần hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay”. Dường như trong nét chữ ấy ông đồ gửi gắm tất cả cái anh hoa, khát vọng và lí tưởng của mình.
Bài tham khảo số 5
Ông đồ hình ảnh quen thuộc trong mỗi dịp tết xưa, nhiệm vụ của ông trong mỗi dịp tết đó là viết câu đối chúc tết bán cho người dân trang trí nhà cửa để mong một năm mới may mắn, an lành. Vị trí Ông đồ chính là tầng lớp trí thức được nhiều người tôn trọng.
Những hình ảnh ông đồ xuất hiện như một quy luật:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Sự xuất hiện của ông đồ báo hiệu xuân về, gắn liền với vòng quay của thời gian luôn lặp lại, từ “mỗi” xuất hiện cho thấy hình ảnh này luôn quen thuộc với mọi người dân, màu đỏ của giấy màu đen của mực cùng với sự đông vui của phố xá giáp tết càng khiến không khí thêm rộn ràng. Thơ nhẹ nhàng nhưng vẫn toát lên được niềm vui của không gian xuân đang tràn ngập, trong đó hình ảnh ông đồ là trung tâm.
Ông đồ thảo những nét rồng bay phượng múa cho mọi người:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
Với tài năng của mình ông được rất nhiều người thuê viết, họ đều thể hiện kính trọng, yêu mến, có thể nói ông chính là trung tâm thu hút chú ý của mọi người. Nét chữ đẹp của ông được so sánh với những gì tinh túy và đẹp nhất “như phượng múa rồng bay”. Tác giả sử dụng hình ảnh so sánh đẹp, có giá trị tạo hình, mô tả hết những nét chữ đẹp, tao nhã. Với hình ảnh so sánh đó tác giả đã ca ngợi ông đồ là một người tài năng và hết lòng vì nghệ thuật.
Trong khổ thơ 1, 2 đó chính là hình ảnh của ông đồ thời xưa, ông xuất hiện làm công việc mỗi năm dịp tết để viết câu đối cho mọi người và tài năng nghệ thuật đó được nhiều người quý trọng, đây chính là nét đẹp của ông đồ thời xưa.
Bài tham khảo số 7
Ông đồ, một hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Việt Nam thời xưa. Đó chính là biểu tượng của những nhà nho không đỗ đạt làm quan, thường đi dạy học. Sau khi chế độ khoa cử của Nho học bị bãi bỏ, ông đồ bị gạt ra ngoài xã hội đành phải đi viết chữ thuê trong những ngày tết đến.
Thời gian dần trôi, sự vật đổi thay, ông đồ cũng vắng bóng dần đến một chỉ còn là cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn. Với ngòi bút tài hoa, sắc sảo Vũ Đình Liên đã bộ lộ niềm thương cảm của mình trước ngày tàn của nền Nho học qua bài thơ Ông đồ. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh “ông đồ” quen thuộc.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Trong không khí tươi vui, nhộn nhịp của ngày Tết, ông đồ già với mực tàu, giấy đỏ lại ngồi bên góc đường để chờ có người đến thuê viết những câu thơ, câu đối. Xưa nay người ta cho chữ, chứ có ai bán chữ bao giờ. Vậy mà giờ đây ông đồ phải đem chữ ra bán. Giọng thơ trầm trầm tạo không khí buồn buồn làm cho lòng người xao xuyến. Nhưng lúc này, ông đồ cũng còn an ủi lắm bởi mọi người còn thích nét chữ hình tượng ấy để trang trí trong những ngày Tết. Cho nên đã có:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Với nghệ thuật so sánh tài tình, nhà thơ đã khái quát lên được sự khéo léo, tài hoa trên nét chữ của ông đồ. Những nét thảo ấy cứ như phượng múa rồng bay. Nó đẹp ở màu sắc lẫn đường nét. Mọi người ai cũng tấm tắc ngợi khen tài. Lúc ấy, ai cũng thích trong nhà có câu đối đỏ để làm đẹp thêm trong những ngày xuân mới.
Những lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp khoa bảng. Đỗ các thành quan nghè, quan thám, đỗ thấp thì cũng ông cử, ông tú, chứ ông đó là chưa đỗ đạt gì, công chưa thành, danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có lần Tản Đà đã làm.
Ngày tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con yêu quý và cũng thán phục cái thú chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen lao đến vậy. Lời khen này không mang lại vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời vào hồi vận mạt của ông.
Tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm mới có một lần chứ nhiều nhặn gì đâu, giấy đỏ mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng, hãy nghĩ trên cương vị người bán, thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động này.
Bài tham khảo số 3
Xuất hiện trong phong trào Thơ mới như một làn gió mới, Vũ Đình Liên đã để lại ấn tượng với người đọc bằng bài thơ Ông đồ – một tác phẩm về sự hoài niệm, hoài cổ cho những giá trị xưa của dân tộc. Đọc bài thơ, người đọc chúng ta không khỏi thương cảm cho hình ảnh của những ông đồ “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” đã cũ xưa kia. Và hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ là hình ảnh của ông đồ già khi thời Nho học còn đang được trọng vọng khiến chúng ta cảm nhận được cái giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài
Hoa tay thảo những nét
Như rồng múa phượng bay”
Ông đồ vốn là những người thi cử không đỗ đạt nên trở về quê nhà dạy chữ Thánh hiền cho lớp trẻ thơ. Tuy không thành danh, nhưng họ vẫn là những con người tài hoa, hay chữ nghĩa, thế nên được mọi người vô cùng kính trọng yêu mến.
Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong thơ Vũ Đình Liên đi kèm với hình ảnh của những đóa “hoa đào nở”, đây là một hình ảnh quen thuộc với những con người của những thế kỉ trước, nó ăn sâu vào tiềm thức của con người, là những gì tự nhiên, thân thuộc nhất. Hoa đào xuất hiện báo hiệu thời khắc chuyển giao của năm mới, và chính lúc đó, ông đồ xuất hiện cùng với giấy đỏ, bút lông và nghiên mực bên phố giữa dòng người tấp nập mua sắm. Ông xuất hiện như một quy luật theo vòng xoay của thời gian, là một nét rất riêng của dân tộc Việt mỗi khi Tết đến xuân về. “Mỗi năm – lại” – đó là cái quy luật đều đặn với sự xuất hiện của người thầy đồ già trên con phố, nó như một cái gì đó thật thân thương, an lành nhất mỗi thời khắc giao mùa thiêng liêng. Sự xuất hiện của ông là một điều gì đó hiển nhiên, quen thuộc quá, trầm lặng giữa phố phường xô bồ ấy vậy mà chẳng mất đi sự thu hút với mọi người:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài”
Vũ Đình Liên đã vẽ lên một bức tranh sinh động với hình ảnh người thầy đồ là trung tâm và xung quanh là biết bao người đang đứng ngắm nhìn từng dòng chữ trên giấy đỏ, Những con chữ bay bổng với bao điều tốt lành có lẽ là hình ảnh đẹp nhất trong kí ức mùa xuân ngày xưa. Ai cũng muốn có được một đôi câu đối đỏ mà treo trong nhà ngày tết, để mà hãnh diện tự hào, còn để thêm may thêm mắn. Người ta tranh nhau xin cái chữ, cái đẹp từ người thầy đồ già ấy. Đó là điều khiến cho người thầy đồ cảm thấy được sự quan trọng, ý nghĩa của cuộc đời mình. Từng lời khen tấm tắc, từng câu “ngợi khen tài” khiến cho ông đồ già càng thêm ấm lòng, càng thêm động lực để từng con chữ bay bổng hơn “như rồng múa phượng bay”. Mỗi người đến với ông đồ để xin chữ đều là những con người trọng chữ nghĩa, yêu mến cái tài hoa của ông. Có thể nói, thời kì này, ông đồ là trung tâm của mọi sự chú ý. Để làm được điều đó, ông đồ phải là một con người tài hoa với những nét chữ xuất sắc và Vũ Đình Liên đã dùng hai câu thơ để chứng minh cho cái tài hoa của người thầy đồ ấy:
“Hoa tay thảo những nét
Như rồng múa phượng bay”
Với những người am hiểu về thư pháp, Nho học, mỗi con chữ là một bức tranh, là một tác phẩm nghệ thuật mà không phải ai cũng có thể sáng tạo nên mà phải có được kiến thức uyên bác cũng như sự khéo léo của đôi bàn tay. Hình ảnh người thầy đồ khoan thai viết từng con chữ múa lượn trên giấy đỏ, những nét thanh, nét đậm, nét sổ vừa bay bổng lại vừa dứt khoát đẹp đẽ vô cùng khiến ai cũng phải thán khâm phục. Từng nét chữ ấy không chỉ chứa đựng sự tài hoa của thầy đồ mà còn chứa đựng cả những tâm tư, tinh hoa, khát vọng, lý tưởng của ông nữa.
Ông đồ thời kì này trở thành một hình ảnh, một nét văn hóa đặc sắc trong lòng người dân Việt Nam, khi mà Nho học còn đang trong thời kì phát triển rực rỡ. Đó là thời kì mà mỗi người cho chữ, người nhận chữ đều trân trọng những giá trị văn hóa Nho học mà phát huy cái nét văn hóa thanh cao, đẹp đẽ ấy.
Hai khổ thơ đầu Ông đồ của Vũ Đình Liên như một lời khen ngợi, như một niềm hoài cổ những giá trị xưa của văn hóa Việt ta. Giờ đây, hình ảnh ông đồ đã không còn, thế nhưng với hai khổ thơ đầu ấy, chúng ta – những thế hệ sau như được sống lại trong bức tranh dịp Tết đến xuân về với hình ảnh người thầy đồ ngồi cùng giấy đỏ, bút lông, nghiên mực, bình dị giữa phố xá tấp nập người qua.
Có thể bạn thích: