O Hen-ri là một nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn, nổi tiếng với những tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, tình yêu thương những con người nghèo khổ. “Chiếc lá cuối cùng” là một truyện ngắn thấm đẫm tinh thần nhân văn như thế: kể lại việc làm mang đầy ý nghĩa nhân đạo của cụ Bơ-men – vẽ chiếc lá thường xuân cuối cùng để cứu sống Giôn-xi. Câu chuyện để lại dư âm mãi trong lòng người đọc về tình yêu thương nhân loại cảm động và chân thành. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 1
Trong một xã hội nhiễu nhương, đồng tiền ngự trị trên tất cả, con người dường như sống chẳng còn tình người. Nhưng chính trong cuộc sống ấy lại có những con người tuy nghèo khổ mà biết thương yêu nhau, hi sinh vì nhau. Điều đó được nhà văn O Hen-ri phản ảnh lại một cách cảm động trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng. Nếu nói văn học là nhân học như Mác-xim Go-rơ-ki thì quả thật Chiếc lá cuối cùng đã để lại một cách kín đáo mong muốn của mình: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đây chính là tác phẩm để lại trong em niềm xúc động sâu sắc nhất.
Trong truyện tác giả đã kể lại cuộc sống nghèo khổ của các họa sĩ Mỹ tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh-tơn. Đó là hai nữ họa sĩ trẻ tuổi Xiu và Giôn-xi cùng với Bơ-men, một họa sĩ già suốt đời chưa bao giờ thành đạt. Họ sống rất vất vả và chật vật trong những gian buồng chật chội, sát mái, ăn uống thiếu thốn làm việc cật lực để kiếm tiền. Nhưng về mặt tinh thần, về đời sống tình cảm họ lại là những người có tình yêu thương sâu sắc đằm thắm.
Ở đây chúng ta cảm nhận được tình bạn vô cùng chân thành và cảm động. Đó là tấm tình trong sáng thuỷ chung của Xiu đôi với Giôn-xi. Hai người từ 2 khoảng đất rất xa nhau cùng tới Oa- sinh-tơn. Vì có cùng sở thích về nghệ thuật, về rau xà lách, về ống tay áo ngoài nên Xiu và Giôn-xi đã trở nên thân thiết nhau. Khi Giôn-xi bị ốm nặng, ta mới hiểu hết tình bạn thắm thiết của Xiu. Cô đã không bỏ rơi bạn, ngược lại Xiu còn làm việc hết sức mình để kiếm tiền nuôi bản thân và chạy chữa cho Giôn-xi. Cô đã trông nom, săn sóc từng li cho Giôn-xi, lúc nào Xiu cũng cố gắng động viên để Giôn-xi tin tưởng mình sẽ hết bệnh. Cô đã tìm mọi cách để gạt bỏ sự yếu đuối của bạn. Với những việc làm của Xiu, cô đã chứng tỏ cho ta thấy được một tình bạn thuỷ chung: Lúc vui buồn đều có nhau, lúc hoạn nạn lại không thể thiếu nhau, không thể bỏ rơi nhau. Xiu hoàn toàn không vụ lợi, không gợn một suy tính nhỏ nhen, Xiu chỉ có một ước nguyện duy nhất: Giôn-xi khỏi bệnh, tiếp tục ước mơ vẽ bức tranh về vịnh Na-plơ.Những người bạn như thế thật đáng quý, đáng trân trọng xiết bao!
Cảm động hơn, Chiếc lá cuối cùng còn là bài ca ca ngợi tấm lòng nhân đạo cao cả của bác Bơ-men. Bác là một họa sĩ già đã ngoài sáu mươi tuổi nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật. Bác chỉ là người ở cùng nhà với hai nữ họa sĩ. Nhưng khi biết tin Giôn-xi bị bệnh, lại đang trong trạng thái tâm lí tuyệt vọng không muốn sống nữa, bác đã vô cùng bực tức, Bác la mắng Xiu và giận dữ kêu lên: Trên đời này có người nào lại ngớ ngẩn chết vì những chiếc lá rụng từ cái dây leo đáng nguyền rủa ấy hử? Bác vẫn chưa hề nghe thấy chuyện như vậy… Và cuối cùng bác đã tìm ra viên thần dược lấy lại niềm tin yêu cuộc sống cho Giôn-xi: Bức tranh vẽ chiếc lá cuối cùng. Đây là bức tranh đặc biệt nhất trong các bức tranh được vẽ trên thế giới. Nó được vẽ trong đêm đen, giữa mưa tuyết và giá lạnh, dưới ánh sáng một cái đèn bão.
Người vẽ nó là một họa sĩ già bệnh tật ốm yếu đang trong cơn viêm phổi nặng. Người họa sĩ ấy đã bao nhiêu năm tháng qua ao ước vẽ được một kiệt tác. Nhưng sáu mươi năm đã qua, chưa bao giờ ông thành công, mãi mãi ông vẫn chỉ là bóng mờ của nghệ thuật. Thế mà hôm nay, với bức vẽ cuối cùng của ông, bức vẽ chiếc lá giữa đêm mưa lạnh rét mướt lại đưa ông tới đỉnh cao của nghệ thuật, được thừa nhận là kiệt tác. Bức vẽ chiếc lá ấy chính là sản phẩm của tấm lòng yêu thương sâu sắc con người của ông. Nó thể hiện một tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim nhân đạo đầy tình người bao la. Ở đầu ngọn bút không phải là màu vẽ mà là sự sống của ông, là máu của con tim, là sự tha thiết giành lại sự sống cho Giôn-xi từ tay thần chết.
Đến lúc này nghệ thuật đã nhập vào với cuộc đời và phát huy hết sức mạnh kì diệu của nó. Chiếc lá không rụng. Giôn-xi đã trở lại với cuộc đời và Bơ-men đã trút hơi thở cuối cùng sau khi thành công kiệt tác ấy. Một hình ảnh làm rung động lòng người. Có thể nói Bơ-men đã trao lại sự sống của mình cho Giôn-xi. Người họa sĩ già ấy đã nhường hơi thở cho tài năng trẻ tiếp tục sự nghiệp nghệ thuật của mình. Bác Bơ-men đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm kích chân thành.
Cả hai nhân vật Xiu và Bơ-men là hình ảnh tiêu biểu cho tình thương yêu bạn bè, đồng loại. Cuộc đời của họ, hành động của họ luôn tỏa sáng trong tâm hồn người đọc. Thế mới biết trong sự nghèo khổ cùng cảnh ngộ người ta đã thương nhau như thế nào! Chính những hình ảnh đẹp ấy đã có sức chinh phục và lay động lòng người, hướng con người tới một cuộc sống trong sáng đầy tình nghĩa không gợn những tính toán nhỏ nhen. Hai con người ấy là biểu tượng của tình bạn cao đẹp thủy chung, của lòng nhân đạo cao cả. Bơ-men đã nằm xuống nhưng trong lòng mọi thế hệ người đọc, ông vẫn còn sống mãi cùng bức kiệt tác của mình. Qua tác phẩm, với bức tranh Chiếc lá cuối cùng nhà văn đã thể hiện kín đáo tâm sự của mình, O Hen-ri muốn gởi tới người đọc lời kêu gọi chân tình: con người hãy yêu thương nhau, hãy quan tâm đến nhau.
Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: Người yêu người sống để yêu nhau, Chiếc lá cuối cùng là truyện ngắn thể hiện được tình yêu thương ấy. Tác phẩm đã toát ra một mong muốn sâu sắc: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đó là vấn đề mà những nghệ sĩ chân chính quan tâm nhất. Rõ ràng văn học đã đưa chúng ta đến cái thiện, cái đẹp, nó giúp ta bỏ đi cái xấu, cái hèn luôn ẩn chứa trong ta.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 4
Là một tác phẩm thuộc trào lưu văn học hiện thực ở Mĩ đầu thế kỉ XX, Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri không chỉ đem đến cho ta những hiểu biết về xã hội Mĩ thời điểm tác phẩm ra đời. Chiếc lá cuối cùng còn giúp ta cảm nhận được chất nhân đạo cao cả được tác giả tập trung thể hiện. Giữa xã hội đồng tiền ngự trị, chi phối các giá trị của con người thì câu chuyện cảm động về ba họa sĩ nghèo thực sự là một thứ ánh sáng của niềm hi vọng về tình người trên hết là ước muốn con người sống với nhau ngày một đẹp hơn.
Trong truyện tác giả đã kể lại cuộc sống nghèo khổ của các họa sĩ Mĩ tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh-tơn. Đó là hai nữ họa sĩ trẻ tuổi Xiu và Giôn-xi cùng với Bơ-men, một họa sĩ già suốt đời chưa bao giờ thành đạt. Họ sống rất vất vả và chật vật trong những gian buồng chật chội, sát mái, ăn uống thiếu thốn, làm việc cật lực để kiếm tiền. Nhưng về mặt tinh thần, về đời sống tình cảm họ lại là những người có tình yêu thương sâu sắc đằm thắm.
Ở đây chúng ta cảm nhận được tình bạn vô cùng chân thành và cảm động. Đó là tấm tình trong sáng thủy chung của Xiu đối với Giôn-xi. Hai người từ 2 khoảng đất rất xa nhau cùng tới Oa-sinh-tơn. Vì có cùng sở thích về nghệ thuật, về rau xà lách, về ống tay áo ngoài nên Xiu và Giôn-xi đã trở nên thân thiết nhau. Khi Giôn-xi bị ốm nặng, ta mới hiểu hết tình bạn thắm thiết của Xiu. Cô đã không bỏ rơi bạn, ngược lại Xiu còn làm việc hết sức mình để kiếm tiền nuôi bản thân và chạy chữa cho Giôn-xi. Cô đã trông nom, săn sóc từng li cho Giôn- xi, lúc nào Xiu cũng cố gắng động viên để Giôn-xi tin tưởng mình sẽ hết bệnh. Cô đã tìm mọi cách để gạt bỏ sự yếu đuối của bạn. Với những việc làm của Xiu, cô đã chứng tỏ cho ta thấy được một tình bạn thủy chung: Lúc vui buồn đều có nhau, lúc hoạn nạn lại không thể thiếu nhau, không thể bỏ rơi nhau. Xiu hoàn toàn không vụ lợi, không gợn một suy tính nhỏ nhen, Xiu chỉ có một ước nguyện duy nhất: Giôn-xi khỏi bệnh, tiếp tục ước mơ vẽ bức tranh về vịnh Na- plơ. Những người bạn như thế thật đáng quý, đáng trân trọng xiết bao!
Cảm động hơn, Chiếc lá cuối cùng còn là bài ca ca ngợi tấm lòng nhân đạo cao cả của cụ Bơ-men. Cụ là một họa sĩ già đã ngoài sáu mươi tuổi nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật. Chỉ là người ở cùng nhà với hai nữ họa sĩ, nhưng khi biết tin Giôn-xi bị bệnh, lại đang trong trạng thái tâm lí tuyệt vọng không muốn sống nữa, cụ đã vô cùng bực tức, la mắng Xiu và giận dữ kêu lên: Trên đời này có người nào lại ngớ ngẩn chết vì những chiếc lá rụng từ cái dây leo đáng nguyền rủa ấy hử? Bác vẫn chưa hề nghe thấy chuyện như vậy… Và cuối cùng người họa sĩ già đã tìm ra viên thần dược lấy lại niềm tin yêu cuộc sống cho Giôn-xi: Bức tranh vẽ chiếc lá cuối cùng. Đây là bức tranh đặc biệt nhất trong các bức tranh được vẽ trên thế giới. Nó được vẽ trong đêm đen, giữa mưa tuyết và giá lạnh, dưới ánh sáng một cái đèn bão.
Người vẽ nó là một họa sĩ già đã bao nhiêu năm qua ao ước vẽ được một kiệt tác, nhưng sáu mươi năm đã qua, chưa bao giờ cụ thành công, mãi mãi cụ vẫn chỉ là cái bóng mờ của nghệ thuật. Vậy mà hôm nay, với bức vẽ cuối cùng của cụ, bức vẽ chiếc lá giữa đêm mưa lạnh rét mướt lại đưa cụ tới đỉnh cao của nghệ thuật, được thừa nhận là kiệt tác. Bức vẽ chiếc lá ấy chính là sản phẩm của tấm lòng yêu thương sâu sắc con người của cụ. Nó thể hiện một tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim nhân đạo đầy tình người bao la. ở đầu ngọn bút không phải là màu vẽ mà là sự sống của cụ, là máu của con tim, là sự tha thiết giành lại sự sống cho Giôn-xi từ tay thần chết.
Đến lúc này nghệ thuật đã nhập vào với cuộc đời và phát huy hết sức mạnh kì diệu của nó. Chiếc lá không rụng. Giôn-xi đã trở lại với cuộc đời và cụ Bơ-men đã trút hơi thở cuối cùng khi hoàn thành kiệt tác ấy. Một hình ảnh làm rung động lòng người. Có thể nói cụ Bơ- men đã trao lại sự sống của mình cho Giôn-xi. Người họa sĩ già ấy đã nhường hơi thở cho tài năng trẻ tiếp tục sự nghiệp nghệ thuật của mình. Cụ Bơ-men đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm kích chân thành.
Cả hai nhân vật Xiu và Bơ-men là hình ảnh tiêu biểu cho tình thương yêu bạn bè, đồng loại. Cuộc đời của họ, hành động của họ luôn tỏa sáng trong tâm hồn người đọc. Thế mới biết trong sự nghèo khổ cùng cảnh ngộ người ta đã thương nhau như thế nào! Chính những hình ảnh đẹp ấy đã có sức chinh phục và lay động lòng người, hướng con người tới một cuộc sống trong sáng đầy tình nghĩa không gợn những tính toán nhỏ nhen. Hai con người ấy là biểu tượng của tình bạn cao đẹp thủy chung, của lòng nhân đạo cao cả. Bơ-men đã nằm xuống nhưng trong lòng mọi thế hệ người đọc, ông vẫn còn sống mãi cùng kiệt tác của mình. Qua tác phẩm, với bức tranh Chiếc lá cuối cùng nhà văn đã thể hiện kín đáo tâm sự của mình, O Hen-ri muốn gởi tới người đọc lời kêu gọi chân tình: con người hãy yêu thương nhau.
Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: Người yêu người sống để yêu nhau, Chiếc lá cuối cùng là truyện ngắn thể hiện được tình yêu thương ấy. Tác phẩm đã toát ra một mong muốn sâu sắc: con người ngày một sống tốt đẹp hơn. Đó là vấn đề mà những nghệ sĩ chân chính quan tâm nhất. Rõ ràng văn học đã đưa chúng ta đến cái thiện, cái đẹp, nó giúp ta bỏ đi cái xấu, cái hèn luôn ẩn chứa trong ta. “Văn học là nhân học” đúng như lời của nhà văn M.Gooc-ki.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 8
Chiếc lá cuối cùng là 1 trong những những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn O’Hen-ri. Cậu chuyện là hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những cuộc đời nghèo khổ. Tuy vậy, nhà văn lại tìm thấy và khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn những con người ấy qua những tình huống truyện bất ngờ, cảm động.
Câu chuyện kể về cuộc sống nghèo của ba người hoạ sĩ nghèo: Xiu, Giôn-xi, Bơ-men. Cụ Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được, đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền còm nuôi thân. Xiu vẫn mòn mỏi với những bức vẽ. Giôn-xi bị sưng phổi, dần mất niềm tin vào cuộc sống: cô đếm từng chiếc lá rơi, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ ra đi…
Mỗi ngày trôi đi với mưa gió lạnh lẽo và khắc nghiệt, cây thường xuân cứ thế trút dần những chiếc lá trên cành để rồi còn một chếc duy nhất. Giôn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Sự sống của cỗ bỗng trỏe nên mong manh hơn bao giờ hết. Cô bất lực và buông xuôi, càng khiến cho cụ Bơ-men và Xiu lo lắng: “Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì. Đặc biệt là Xiu. Cô âu lo thổn thức, bồn chồn “tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ”.
Đêm mưa gió dữ dội, chiếc lá kia chắc cũng đã bị vùi dập. Cái khoảnh khắc Giôn-xi nhìn tấm mành kéo xuống thật đáng sợ. Không một ai có thể khiến cho cô từ bỏ suy nghĩ sẽ lấy số lá còn sót lại trên cành thường xuân làm thước đo mạng sống của mình. Bản thân Xiu có lẽ cũng không thể chịu nổi cái ý nghĩ rằng đã đến lúc phải chia tay người bạn đồng nghiệp của mình trong mãi mãi. Nhưng điều kì diệu đã xảy ra: vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Niềm vui trong Xiu như vỡ òa. Còn đối với Giôn-xi, cô cũng có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng chấp nhận sự thật để rồi lại chìm đắm trong suy nghĩ từ bỏ cuộc đời : “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”. Ta thấy Giôn-xi vừa đáng trách mà lại đáng thương.
Mùa đông khắc nghiệt vẫn kéo dài. Thế nhưng chiếc lá thường xuân vẫn còn đó. Rồi một ngày kia, mưa gió tràn về trong đêm. Vậy mà “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó”. Chống chọi với thiên nhiên khắc nhiệt, chiếc lá vượt qua mọi khó khăn, bám vững trên cành cây khẳng khiu. Giôn-xi cảm thấy khó hiểu, và cũng như bừng tỉnh. Cô mơ ước: “một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na- plơ”. Điều đó chứng tỏ cô đã có niềm tin vào cuộc sống. Chiếc lá thường xuân kia đã tiếp thêm cho cô sức mạnh vô hình để chống chọi bệnh tật.
Kết thúc câu chuyện đã khiến cho cả người trong cuộc lẫn độc giả phải bất ngờ. Chiếc lá cuối cùng còn sót lại tren cây thường xuân kia, hóa ra là một tác phẩm tài hoa của một người nghệ sĩ lão làng. Đó chính là cụ Bơ-men. Vì sự sống của một cô gái, cụ đã vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết, để mang lại cho cô chút niềm tin vào cuộc sống. Người họa sĩ già với mong ước cả một đời được vẽ nên một kiệt tác, và cuối cùng điều đó cũng trở thành hiện thực. Tác phẩm của ông chân thật và sống động đến không ngờ. Không chỉ vậy, nó đã cứu rỗi tâm hồn của một cô gái trẻ đang đưa tay về Thần Chết. Không một ai biết được sự thật này cho đến khi ra đi. Cụ Bơ-men quả thật không chỉ là một người họa sĩ tài năng, mà còn là một người nghệ sĩ chân chính với tâm hồn cao cả.
“Chiếc lá cuối cùng” mang đậm tình cảm giữa con người với con người trong tình cảnh nghèo khó. Đồng thời, tác phẩm còn mang đến một thông điệp: Nghệ thuật vị nhân sinh. Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn ắp tràn tình thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính.
Câu chuyện kể về cuộc sống chật vật của những người hoạ sĩ nghèo: hai nữ họa sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men. Những khó khăn về vật chất đã vắt kiệt sức sáng tạo, khiến họ lâm vào cảnh bi đát. Cụ Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được, đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền còm nuôi thân. Giôn-xi bị sưng phổi, bệnh tật và nghèo túng đã lấy nốt của cô niềm tin vào cuộc sống. Chỉ còn lại Xiu mòn mỏi với những bức vẽ và ám ảnh bởi suy nghĩ của Giôn-xi: cô gái bệnh tật ấy đang đếm từng chiếc lá rơi để chờ định mệnh phán quyết mạng sống của chính mình, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ ra đi… Không gian cuộc sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo u ám như mùa đông, nặng trĩu những buồn lo.
Đáng sợ làm sao khi mỗi ngày trôi đi trong gió tuyết và những cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, những chiếc lá thường xuân tiếp tục rơi xuống, chỉ còn lại một chiếc lá cuối cùng để Giôn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy rối lòng, bất lực trước một con người đã buông xuôi, chán sống. Bởi thế nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của Xiu và cụ Bơ-men lúc Giôn-xi đang ngủ: “Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”. Có lẽ trong giây phút đó, họ đã nhìn thấy nhánh thường xuân cuối cùng trụi lá rồi chăng? Dường như cùng với cái khắc nghiệt của trời đông, mưa gió, họ có thể đoán trước được điều gì khi Giôn-xi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng.
Trong hoàn cảnh này, người đau khổ nhất không phải là Giôn-xi mà chính là cô gái trẻ Xiu. Bởi lẽ, cô là người sẽ phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch sắp diễn ra vào sáng hôm sau khi Giôn-xi lại nhìn ra cửa sổ. Nhà văn không mô tả cụ thể tâm trạng Xiu, chỉ cho biết cô “tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ”,như vậy có nghĩa là cô đã phải trải qua một đêm trắng đầy âu lo thổn thức, trong sự bồn chồn và bất lực. Một đêm mưa gió ngoài trời dữ dội, một chiếc lá mong manh bám trên bức tường gạch chắc chắn sẽ bị vùi dập tơi tả, không chống chọi nổi sự tàn phá của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sau phút kéo mành lên, Giôn-xi sẽ nhìn thấy cái chết của chính mình. Nhưng Xiu cũng không thể chịu được khoảnh khắc nhìn thấy “Giôn-xi đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống”. Không kéo mành lên cũng không được, vì như vậy Xiu sẽ mang mặc cảm chính mình mới là người gây ra cái chết của Giôn-xi. Ta hiểu tâm trạng của cô khi làm theo một cách chán nản, bản thân cô cũng không còn phương cách nào giúp cho người đồng nghiệp, người em gái kia từ bỏ suy nghĩ điên rồ đáng sợ kia.
Chính vào lúc ấy, một hình ảnh bất ngờ đã làm đảo lộn mọi dự đoán, đảo ngược cả tình huống tưởng như chắc chắn trong dự định của Giôn-xi, trong nỗi lo của Xiu và trong sự thất vọng của mọi người. Tình huống ấy đã thắp lại niềm hy vọng như một phép màu: vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Có lẽ người vui mừng nhất lúc này là Xiu, vì chiếc lá cô nhìn thấy không phải là một ảo ảnh: “Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”. Còn Giôn-xi? Cô cũng nhận ra: “Đó là chiếc lá cuối cùng”, thừa nhận sự thật một cách miễn cưỡng và tiếp tục suy nghĩ: “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”.
Giôn-xi thật đáng thương nhưng cô cũng thật đáng trách khi vẫn đeo đuổi ý định từ bỏ cuộc sống. Cô chìm đắm trong ý nghĩ kỳ quặc của mình, mặc kệ những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một.Cô đã phụ lòng của Xiu, bởi lẽ cô đã xem nỗi đau của mình lớn hơn tất cả mọi sự quan tâm lo lắng của mọi người. Trong thời điểm ấy, sẽ không ai có thể giúp đỡ cô, ngoại trừ chính bản thân cô. Thời gian một ngày kéo dài đằng đẵng để Giôn-xi chứng kiến chiếc lá thường xuân chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Chiếc lá bướng bỉnh ấy không chấp nhận sự buông xuôi của một cô gái còn quá trẻ. Thế nhưng, khi con người ấy đã chấp nhận đầu hàng số phận, thì sức mạnh của màn đêm buông xuống, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ lại có một uy lực khiến cho Giôn-xi không còn một niềm tin nào vào sự sống của chính mình. Sự cố chấp ấy quả thật đáng chê trách.
Nhà văn đã tạo ra một tình huống thử thách trước số phận của Giôn-xi, để rồi, cuối cùng người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm: “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó”. Chiếc lá mong manh ấy đã chiến thắng được thời tiết khắc nghiệt, để tạo ra một bước ngoặt trong nhận thức của Giôn-xi. Cuối cùng, cô gái ấy đã nhận ra sự ích kỷ tồi tệ của bản thân mình. Chiếc lá cuối cùng đã cứu sống một sinh linh. Trước hết là thức tỉnh khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm hồn của Giôn-xi, để cô nhận ra: “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội.”. Phép nhiệm màu đã xảy ra, vượt qua tất cả những quy luật thường tình của thiên nhiên tạo hoá, khiến Giôn-xi không hiểu và không sao hiểu được. Phải chăng, Thượng đế chí công và nhân từ không nỡ để một cô gái trẻ phải sớm giã từ cuộc sống? Không những thế, sau thời khắc bừng tỉnh, cô gái Giôn-xi đã lại bắt đầu mơ ước về tương lai: “một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na- plơ”. Thượng đế thật công bằng, vị thượng đế ấy có tên là… Bơ-men.
Người hoạ sĩ già khốn khổ ấy không có quyền năng tối thượng của Thượng đế, nhưng ông có một trái tim giàu lòng thương cảm. Hoá ra, trong thời điểm làm mẫu cho Xiu, con người ấy đã đi đến một quyết định táo bạo, đoạt quyền của Đấng-toàn-năng bằng chính khả năng của mình. Con người đã bốn mươi năm theo đuổi kiệt tác mà không thành công đã tạo nên một kiệt tác cuối cùng của đời mình: chiếc lá cuối cùng! Khi bắt tay vào công việc, người nghệ sĩ chân chính ấy đã âm thầm hành động với ước nguyện thật cao cả: trả lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi. Không ai được biết có bao nhiêu tinh hoa đã phát tiết trong giờ phút vẽ nên chiếc lá trên tường của cụ Bơ-men. Tất cả đều diễn ra quá bất ngờ, đến nỗi cả Xiu là người đã chứng kiến giờ phút chiếc lá cuối cùng rụng xuống cùng cụ Bơ-men cũng phải bàng hoàng. Ta chợt hiểu những lời nói hối hả của cô với Giôn-xi: “Em thân yêu, thân yêu. Em hãy nghĩ đến chị, nếu như em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?”. Cô đã hiểu tất cả, nhưng không dám nói rõ cho Giôn-xi, bởi lẽ cô chưa thể hình dung ra phản ứng của Giôn-xi trước một sự lừa dối bắt nguồn từ lòng tốt của người hoạ sĩ già. Lời nói ấy còn bộc lộ một niềm sung sướng vô biên của Xiu trước giải pháp tình thế mà cụ Bơ-men đã nghĩ ra trong đêm chiếc lá cuối cùng thực sự đã rụng xuống. Bởi thế, lần kéo mành vào hôm sau, ta không còn gặp tâm trạng chán nản đến cùng cực của Xiu nữa.
Vì sự sống của một cô gái, cụ Bơ-men đã bất chấp thử thách của thời tiết khắc nghiệt, quên đi sự sống của bản thân mình. Có lẽ bản thân cụ cũng không ngờ đó là bức vẽ cuối cùng của cuộc đời mình, nhưng chắc chắn một điều khi người hoạ sĩ ấy vẽ chiếc lá, bức vẽ ấy không nhằm để lưu lại tên tuổi nghệ sĩ với đời. Điều đáng quan tâm lúc đó là sự sống đã tắt trong tâm hồn một cô gái trẻ, làm thế nào để cô thôi không bị ám ảnh bởi quy luật lạnh lùng của tạo hoá, để rồi vươn lên giữa cuộc đời bằng chính sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô. Đó là lúc người hoạ sĩ già ấy hiểu thấu sứ mạng vinh quang và cao cả của nghệ thuật: hướng về con người chứ không phải là nhằm tạo chút danh tiếng hão huyền, nghệ thuật chỉ thật sự bắt đầu khi sáng tạo của người nghệ sĩ giúp ích cho đời.
Cuối cùng thì Giôn-xi đã vượt qua cửa ải của chính mình, trở lại với niềm tin sự sống nhờ niềm tin vào sức sống mãnh liệt từ chiếc lá cuối cùng – tác phẩm của cụ Bơ-men. Nhưng người nghệ sĩ già ấy đã phải trả một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình. Giôn-xi chỉ được biết điều ấy khi đã thật sự bình phục bằng nghị lực của chính mình. Qua lời thuật lại của Xiu, ta hiểu được lòng biết ơn của Xiu đối với người hoạ sĩ cao cả ấy, và cô muốn nhắc nhở Giôn-xi không thể vô ơn trước sự hy sinh của một con người chân chính, vì sự sống của đồng loại đã không ngần ngại xả thân. Cụ Bơ-men đã nhiễm chính căn bệnh sưng phổi của Giôn-xi vào lúc tạo nên chiếc lá cuối cùng giữa một đêm đông mưa gió lạnh lẽo. Chi tiết xúc động này khiến ta tin rằng Giôn-xi dù biết rằng chiếc lá ấy là một loại sản phẩm nhân tạo, nhưng chắc chắn cô sẽ không bao giờ hối hận trước một sự lừa dối cao cả như thế, Người hoạ sĩ già Bơ-men là hiện thân của sự cao thượng, lòng vị tha, đức hy sinh của một con người chân chính.
Câu chuyện kết thúc bằng một sự đảo ngược tình huống lần thứ hai. Chiếc lá cuối cùng là một sự lừa dối, nhưng lại là một sự lừa dối cao cả để đem lại niềm tin vào sự sống cho con người. Kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già đã được ra đời nằm ngoài tất cả mọi dự đoán của công chúng. Nhưng chiếc lá cuối cùng ấy mãi mãi là bằng chứng của tấm lòng yêu thương con người. Bởi thế, Chiếc lá cuối cùng sẽ mãi bất tử với thời gian.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 6
Yêu thương, gắn bó thân thiết nhưng cũng rất nóng bỏng kịch tính là tất cả những gì ta có thể cảm nhận được ở đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn O Hen-ri. Câu chuyện như một nét phác thảo chân thực, đẹp đẽ về “Tinh đời trong chiếc lá”, phải chăng đây chính là điều nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh chiếc lá thường xuân lại trở thành nhan đề cho truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Mĩ nổi tiếng này. Xuyên suốt mỗi câu, mỗi chữ là một màu xanh rời rợi, là sự sống kiên cường, thiết tha của chiếc lá, là tình cảm bạn bè đầy yêu thương, chăm lo tận tình và cả sự hi sinh cao cả của những nghệ sĩ nghèo nước Mĩ. Phải chăng đó là chi tiết vừa cảm động nhưng cũng vừa bất ngờ, độc đáo của một ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc ?
Chiếc lá trong mỗi hoàn cảnh, mỗi con người lại ẩn chứa một ý nghĩa, một tâm tình khác nhau. Giôn-xi ngây thơ đến lạ lùng khi cô cho rằng sẽ buông xuôi tất cả và lìa cõi đời này vào lúc chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Bệnh tật hành hạ và sự nghèo khó đã dập tắt niềm tin và ý chí muốn sống trong lòng cô gái trẻ. Tuyệt vọng đã khiến cô đặt cược cả cuộc đời và số phận cho một chiếc lá nhỏ nhoi. Nhưng rồi chiếc lá vô tri đó đã trở thành niềm hi vọng của Giôn-xi khi mà cô còn giữ được “lửa” trong trái tim mình, khiến cô tìm lại được tình yêu cuộc sống với những mơ ước, khát khao. Khi ấy, Giôn-xi tin vào cuộc đời bằng một tình yêu cuộc sống mãnh liệt đã giúp cô vượt qua lưỡi hái tử thần. Cô tin rằng chiếc lá sẽ mãi còn đó, mãi xanh tươi như sự sống bất diệt, cô tin rằng trái tim mình cũng sẽ đập mãi, tâm hồn mình cũng sẽ trẻ mãi và tràn đầy ước mơ về bức kiệt tác “vịnh Na-plơ”. Đó là lúc cô khỏi bệnh, sống một cuộc đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất. Niềm tin yêu đó thật đáng quý biết bao. Như vậy, sự sống của chiếc lá đã thăng hoa tình cảm thiết tha yêu cuộc sống trong trái tim cô gái yếu đuối này.
Nỗi tuyệt vọng của Giôn-xi như nhát dao đâm vào trái tim thổn thức của người bạn thân thiết, gần gũi nhất – Xiu để rồi chiếc lá lại thực hiện tốt vai trò của mình, gợi nên sự quan tâm, lo lắng, yêu thương của Xiu dành cho bạn mình. Giôn-xi quả là một người tàn nhẫn với Xiu và với chính mình khi cô mỗi khi thức dậy đều muốn mở cửa sổ để chờ đợi chiếc lá cuối cùng lìa cành. Xiu làm sao có thể không buồn bã, không lo lắng khi thấy người bạn gái mỗi lúc một tuyệt vọng, héo mòn, tiều tuỵ và đang chờ chết. Bệnh tật, sự tuyệt vọng của Giôn-xi hành hạ Xiu về cả vật chất lẫn tinh thần. Cuộc sống vốn trước đây đã rất khó khăn giờ chỉ còn mình cô gánh vác, lại cần có tiền thuốc thang chữa bệnh cho bạn. Xiu không muốn kéo mành lên để bạn nhìn thấy sự sống níu kéo từng giây từng phút trên chiếc lá còn sót lại nhưng cô khó có đủ ánh sáng mà vẽ tranh, lấy tiền chữa trị cho Giôn-xi khi cửa so là nguồn sáng không phải trả tiền duy nhất đối với những người nghèo khổ như cô. Xiu day dứt, băn khoăn giữa hai sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Chính trong những lúc thế này ta mới thấy hết được cái tình, cái nghĩa mà Xiu dành cho Giôn-xi, chiếc lá một lần nữa lại chứa nặng nỗi lo lắng khôn nguôi của cô gái trẻ, nó nhân lên trong cô sức mạnh của nghị lực, thăng hoa trong trái tim cô một tình yêu vô bờ bến với người bạn trẻ.
Lo lắng khiến Xiu không thể chịu đựng nỗi đau buồn một mình, cô đã tìm đến và chia sẻ nỗi niềm với cụ Bơ-men, người hoạ sĩ già sống ở dưới tầng trệt. Ông cụ đã tìm thấy lí tưởng sống, khát vọng tuổi trẻ, hoài bão lớn lao mà đên giờ cụ vẫn đang theo đuổi ở hai cô hoạ sĩ này. Nên chẳng biết tự bao giờ và tự lúc nào cụ đã coi hai cô bé như con ruột của mình. Điều đó càng khiến cụ đau xót biết ngần nào khi hiểu rằng Giôn-xi đang tuyệt vọng buông xuôi cuộc sống. Người hoạ sĩ già đã bối rối, vụng về đến nỗi trở nên bực tức, gắt gỏng, cảm xúc thương xót vô bờ bến nghẹn ngào trong trái tim ông. Bất lực và xa xót, cụ chỉ còn biết thắp lên “ngọn lửa” trong trái tim Giôn-xi, lấy lại niềm tin trong sáng của cô từ tay tử thần. Chiếc lá là mấu chốt của vấn đề sống còn lúc này. Định đoạt được vận mệnh của chiếc lá là giành lại sự sống cho Giôn-xi khỏi lựỡi hái tử ihần. ở đây, chiếc lá lại một lần nữa thể hiện thành công tình yêu thương thiêt tha cao cả đến kì diệu của cụ Bơ-men.
Người đọc thực sự cảm động trước hình ảnh một cụ già 60 tuổi run rẩy trong đêm mưa to gió lớn, tuyết ngập khắp đường, 1 cánh tay bám vào chiếc thang đã mục, tay kia vừa cầm đèn bão vừa cầm bảng màu với hai sắc xanh vàng và bút vẽ để leo lên tường nơi cửa sổ phòng Giôn-xi nhìn ra. Bàn tay già nua miệt mài vẽ. Bằng nét vẽ tài hoa và chân thực hoà vào cùng với tình thương yêu cháy bỏng của “người cha”, cụ đã đem đến cho chiếc lá thường xuân bình thường một sức sống bất tử. Để đáp lại đức hi sinh cao cả của người hoạ sĩ già, chiếc lá đã trở thành kiệt tác của cuộc đời cụ Bơ-men, thể hiện hoàn hảo và sinh động nhất tình yêu thương lớn lao, cao cả. Điều mà hơn 40 năm theo đuổi nghệ thuật không lúc nào trái tim cụ không ngừng hướng tới với một mong ước ráo riết, nồng nàn.
Bằng một chi tiết độc đáo, cây bút văn xuôi đương đại nổi tiếng nước Mĩ – O Hen-ri đã để ba nhân vật trong truyện nhắn nhủ với chúng ta những điều đáng quý về tình yêu cuộc sống và trân trọng những tình cảm đã làm nên cuộc sống tươi đẹp.
Chiếc lá đã cứu sống Giôn-xi, tạo nên kiệt tác bất tử cho cụ Bơ-men. Hay nghệ thuật chân chính đã mang lại niềm tin mãnh liệt vào sự sống ngàn lần yêu quý. Một lần nữa, cái chân lí : nghệ thuật vì cuộc sống con người mới là nghệ thuật đích thực lại toả sáng trong cụ Bơ-men. Thế mới biết, nghệ thuật đích thực chính là sự kết tinh, lắng đọng của tình yêu thương sâu sắc ; là sự quên mình tuyệt đối vì mọi người.
Thực ra, chiếc lá cuối cùng đã rụng, nhưng còn mãi mãi trên tường và trong trái tim độc giả là chiếc lá của tình yêu thương, của sự hi sinh cao cả. O Hen-ri đã rời xa chúng ta nhưng câu chuyện của ông luôn sống mãi trong lòng người đọc bởi ẩn chứa trong chiếc lá là tình đời sâu nặng và nồng thắm mà ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào đều đáng được trân trọng và ngợi ca…
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 3
Kết thúc truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của tác giả O-hen-ri người đọc không chỉ lưu lại trong trí óc mình về một bức tranh kiệt tác vẽ về chiếc lá cuối cùng mà còn lắng đọng tâm hồn vào những giá trị nhân đạo sâu sắc của câu chuyện. Giá trị nhân đạo ấy xuất phát từ chính tình bạn, tình yêu thương và hơn hết đó là tình người trong cuộc sống. Cả ba nhân vật: Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men tuy là hai thế hệ khác nhau nhưng cùng chung một nghề nghiệp và chung một hoàn cảnh. Họ là những người họa sĩ nghèo, sống khốn khổ tại một khu nhà trọ nhỏ, cuộc sống sinh hoạt của họ thiếu thốn và luôn phải làm việc cật lực kiếm tiền.
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy cô bé Giôn-xi còn mắc bệnh nặng, mất hết niềm tin và nghị lực sống, cô đã buông xuôi và lựa chọn cách nằm chờ chết trên giường bệnh, cô nằm đợi chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân kia rụng xuống rồi cô cũng sẽ chết. Thế nhưng kiệt tác để đời cũng là tác phẩm cuối cùng của cụ Bơ-men đã cứu vớt tâm hồn và cuộc sống của cô, trong đêm mưa bão tuyết người họa sĩ già biết chắc chiếc lá kia không thể trụ lại, cụ đã âm thầm lặng lẽ xách đèn và vẽ bức tranh chiếc lá trong đêm mưa gió ấy để mang đến động lực sống cho Giôn-xi. Chính vì muốn cứu cô gái trẻ Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi, cụ đã đánh đổi cả tính mạng của mình để mang đến sự sống mới cho người khác.
Trước hết, giá trị nhân đạo dễ nhận thấy nhất trong truyện chính ở tình bạn đẹp giữa Xiu và Giôn-xi, khi Giôn-xi ốm nặng Xiu là người chăm sóc, động viên và luôn bên cạnh. Yêu thương và đùm bọc nhau giống như những người thân trong gia đình, họ coi nhau như chị em và sẻ chia khó khăn với nhau, cùng dìu nhau vượt lên nghịch cảnh. Càng trong hoàn cảnh khốn khó ta càng thấy tình bạn ấy cao đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao, nhưng cái đáng ca ngợi hơn chính là tình người, lòng nhân ái giữa những con người với nhau.
Cụ Bơ-men và Giôn-xi sống cùng trong khu trọ nghèo của những người nghệ sẽ, chỉ quen biết nhau nhưng cụ lại có thể hết lòng yêu thương, thậm chí hy sinh tính mạng của mình để đổi lấy niềm tin vào cuộc sống cho Giôn-xi. Có thể thấy kết truyện vừa có hậu lại vừa không có hậu, tuy Giôn-xi đã tiếp tục sống và mơ ước nhưng lại mất đi cụ Bơ-men. Ở đây ta thấy tác giả đã bày tỏ sự cảm thông của mình đối với từng nhân vật, Giôn-xi được sống tiếp còn cụ Bơ-men để lại một kiệt tác nghệ thuật, đó là thứ mà cụ đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm và thực hiện, cuối cùng đã hoàn thành được tâm nguyện.
Chính cụ và kiệt tác “Chiếc lá cuối cùng” của cụ đã khẳng định rất rõ ràng về sức mạnh của tình yêu thương, tình yêu thương của con người có thể chữa lành mọi vết thương, giúp con người vượt lên nghịch cảnh và có thêm niềm tin, hy vọng vào cuộc sống.
Quả thực, đọc truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” ta không tránh khỏi sự xúc động, càng xúc động bao nhiêu ta càng thấm nhuần giá trị nhân đạo của tác phẩm bấy nhiêu. Tác giả O-hen-ri không cần khoa trương, phô diễn nhưng vẫn cho người đọc thấy được mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp cho con người, mong cho cuộc sống của mọi người đều được tốt đẹp.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” số 5
Đọc các tác phẩm tự sự – như đoạn trích hồi kí Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng, truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-đéc-xen, chúng ta vô cùng xúc động trước những tình cảm gia đình (mẹ con, cha con, bà cháu) sâu nặng. Đó là những tình cảm ruột thịt, thể hiện bản chất cao quý của con người mà văn học đã ngợi ca. Nhưng bài ca tình người trong văn chương không chỉ dừng lại ở tình máu mủ, ruột thịt như thế, mà bao la vô tận. Bởi vì tình thương yêu giữa con người, tấm lòng vị tha cũng là một nét nhân bản cao quý từng xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc trên trái đất này. Đọc và suy ngẫm về truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri, nhà văn Mĩ sống và sáng tác cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chúng ta biết thêm một câu chuyện về tình người cao quý ấy.
Chuyện kể về ba người hoạ sĩ, hai cô gái trẻ và một hoạ sĩ già, sống nghèo khổ trong một nhà chung cư gần công viên Oa-sinh-tơn giữa mùa đông lạnh giá. Họ không phải là người ruột thịt, nhưng đã yêu thương nhau như người ruột thịt, hi sinh cả cuộc sống của mình để giúp nhau vượt qua cái chết. Đọc truyện ngắn ấy, người đọc không chỉ xúc động bởi nội dung câu chuyện mà còn bị lôi cuốn bởi nghệ thuật xây dựng tình huống và chi tiết truyện hết sức độc đáo của nhà văn. Đoạn cuối của tác phẩm (trích trong sách Ngữ văn 8) đã để lại cho chúng ta những ấn tượng không thể phai mờ là hình ảnh chiếc lá và tấm lòng của cụ Bơ-men. Đó là chiếc lá dũng cảm, là tình người bao la. Tình người ấy biểu hiện trước hết ở nhân vật cụ Bơ-men, rồi đến nhân vật Xiu, nhân vật Giôn-xi.
Cụ Bơ-men không phải nhân vật chính, cũng không xuất hiện nhiều trong văn bản. Nhưng chỉ qua vài nét chấm phá của nhà văn, người đọc đã hình dung khá rõ về người hoạ sĩ này. Đó là một cụ già ngoài sáu mươi, thân hình nhỏ nhắn, râu tóc loà xoà dữ tợn. Suốt đời cầm bút, ông cụ luôn mơ ước vẽ được một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu và tự cho mình là “một người thất bại trong nghệ thuật”. Vậy mà lần này cụ đã làm được một việc kì diệu, đã sáng tạo được một tác phẩm hội hoạ đích thực, một kiệt tác.
Khi lên gác, cảm nhận rõ giấc ngủ yếu đuối của Giôn-xi, rồi nhìn qua cửa sổ, thấy những chiếc lá trên cây thường xuân rụng gần hết, cụ Bơ-men đã nhìn Xiu – cô chị kết nghĩa của Giôn-xi, lặng lẽ chẳng nói năng gì. Tuy không nói, nhưng trong tâm trạng ông cụ hẳn đang nung nấu một ý nghĩ, một quyết định nào đó vô cùng quan trọng. Đối với Bơ- men, hai cồ hoạ sĩ nghèo hàng xóm là những người thân yêu gần gũi như ruột thịt. Cụ thường ngồi làm mẫu cho cô chị vẽ. Cụ hiểu rất rõ tình trạng bệnh tật và tâm hồn yếu đuối của Giôn-xi. Cụ đã từng “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai hoạ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên” kia mà ! Do đó, ông cụ đã…
Nhà văn không kể tiếp cụ Bơ-men đã nghĩ gì, làm gì ngay trong đêm mưa gió ấy, mà dùng thủ pháp buông thả nhân vật, giấu kín sự việc, ngắt đoạn, đảo ngược thời gian để kể câu chuyện về hai chị em Xiu và Giôn-xi. Cho đến giây phút quan trọng nhất của cuộc đời Giôn-xi – giây phút chiến thắng cái chết, dần dần trở về với sự sống – Giôn-xi và người đọc chúng ta mới biết rõ công việc của cụ Bơ-men. Thì ra, giữa cái đêm lạnh giá, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ, người hoạ sĩ già ấy đã vẽ chiếc lá thường xuân thay cho chiếc lá cuối cùng vừa lìa cành trên bức tường đối diện ở phòng của Giôn-xi. Một mình ông cụ đã bắc thang trèo lên tường, cầm đèn bão, mang đầy đủ bút lông và bảng pha màu,… để sáng tác tác phẩm của mình.
Tuổi cao, sức yếu mà dám đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt, làm việc âm thầm như thế, thật là một con người dũng cảm. Nhưng không chỉ là một hành động dũng cảm, vẽ chiếc lá thường xuân trên tường giữa đêm mưa gió như thế thực sự là một quá trình sáng tạo gian khổ mà hào hứng của cụ Bơ-men. Ngỡ như người hoạ sĩ đã dồn hết tâm hồn, khát vọng và sức lực của đời mình cho tác phẩm. Do đó, đúng như lời nhận xét của Xiu, hình ảnh chiếc lá thường xuân trên bức tường kia “chính là kiệt tác của cụ Bơ-men”. Gọi đó là kiệt tác vì chiếc lá ấy giống in như chiếc lá thật, thậm chí còn hơn cả một chiếc lá thật. Nó đã dũng cảm bám vào cuống lá, bám chắc trên tường, mặc cho mưa tuôn, bão thổi, mặc cho khí lạnh hoành hành.
Chính sức sống kiên cường ấy của chiếc lá đã thổi vào tâm hồn cô hoạ sĩ Giôn-xi hơi ấm của niềm tin và nghị lực, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên chiến thắng bệnh tật, vượt qua cái chết, trở về sự sống. Trong lí luận hội hoạ, kiệt tác không phải là bức tranh giống thật kiểu “sao chép”, “chụp ảnh” đối chọi thuần mà phải là những đường nét, những sắc màu, những bố cục, chất liệu tác phẩm chứa đựng sự sống, toát ra sức sống, tác động tích cực đối với cuộc sống, lay động tâm hồn, tình cảm của người xem rồi thức tỉnh họ,… Bức tranh “Chiếc lá thường xuân” ấy của hoạ sĩ Bơ-men đã mang đầy đủ các yếu tố của một kiệt tác hội hoạ. Trong một phút xuất thần, bằng tình thương yêu mạnh mẽ đối với Giôn-xi, bằng quyết tâm cứu sống cô gái, một nữ hoạ sĩ còn trẻ, đang hứa hẹn nhiều sáng tạo nay mai, cụ Bơ-men đã vẽ thành công tác phẩm, thoả nguyện những ước mơ ám ảnh của cả cuộc đời. Sau đó, cụ đã lặng lẽ ra đi. Người hoạ sĩ già ấy đã hiến dâng sự sống của mình để giành lại sự sống và tuổi trẻ cho Giôn-xi.
Cái nghĩa cử ấy của cụ Bơ-men cũng là một kiệt tác. Kiệt tác này không có đường nét, sắc màu, bố cục cụ thể và cũng không hiện lên trước mắt mọi người đến mức độ kì diệu. Có thể nói, với hình ảnh chiếc lá được vẽ ở trên tường và cách “sáng tác” âm thầm, lặng lẽ của nhân vật cụ Bơ-men, nhà văn O Hen-ri đã ngợi ca tình thương, tấm lòng vị tha cao cả của những con người nghèo khổ trên đất Mĩ đầu thế kỉ XX nói riêng, trên mọi đất nước của trái đất này nói chung, ngày xưa cũng như ngày nay. Điều đặc sắc hơn nữa của ngòi bút O Hen-ri là ông không trực tiếp kể chuyện và cũng không,kể vào cái đêm chiếc lá được vẽ mà để cho Xiu thuật lại với Giôn-xi, sau khi Giôn-xi khoẻ lại nhằm khích lệ cô gái, tạo sự hấp dẫn, bất ngờ cho người đọc và làm nổi bật đức hi sinh, tấm lòng vị tha như thánh thần của người hoạ sĩ già.
Cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu, cô hoạ sĩ nghèo, cũng được nhà văn khắc hoạ và ngợi ca bằng những sự việc, chi tiết truyện thật cảm động. Tuy chỉ là chị em kết nghĩa, nhưng đối với Giôn-xi, Xiu đã thương yêu chăm sóc như đối với đứa em ruột thịt. Cảnh ngộ của Xiu cũng đói nghèo, thiếu thốn giống Giôn-xi. May mắn hơn em, Xiu không bị đau ốm. Song cô luôn lo lắng thấp thỏm trước tình trạng sức khoẻ và tâm trạng bi quan của em. Ngày ngày, thấy Giôn-xi đếm từng chiếc lá rụng, Xiu tưởng như thần chết đang từng bước đến gần căn phòng của hai chị em. Cho đến ngày cuối cùng, ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây tầm xuân – chắc rằng trên cành chỉ lơ thơ một hai chiếc lá – Xiu thực sự đã sợ sệt, nhìn cụ Bơ-men một lát mà “chẳng biết nói năng gì”.
Giống như sự im lặng của cụ Bơ-men mà chúng ta đã đoán định ở trên, hẳn tâm trạng Xiu lúc này đang trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu trước giờ phút sức lực của Giôn-xi đang tàn dần. Do đó, sáng hôm sau, khi nghe Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo tấm mành lên để nhìn xem còn chiếc lá nào trên tường, Xiu đã làm theo một cách chán nản, gần như tuyệt vọng. Nhưng, ô kìa, sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt đêm vẫn còn một chiếc lá bám trên tường gạch. Một chiếc lá đối chọi độc, mỏng manh đã hiện lên và những dự cảm như tuyệt vọng của Giôn-xi (“Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”) như những giọt tuyết giá lạnh gieo vào lòng Xiu. Cô cúi khuôn mặt hốc hác xuống thì thào với em : “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em… Chị sẽ làm gì đây ?”. Đối với Xiu, mất Giôn-xi là mất nửa cuộc đời, mất Giôn-xi, mọi việc làm sẽ chẳng còn ý nghĩa nữa. Vì thế, mặc dù rất xót thương và lo lắng, Xiu vẫn cố hết sức chăm sóc em. Cô nấu cháo, pha sữa để bồi dưỡng sức lực cho Giôn-xi.
Cô mời bác sĩ và luôn thường trực bên cạnh Giôn-xi, tận tình cứu chữa và chiều chuộng Giôn-xi. Ngỡ như mỗi nhịp đập của trái tim Giôn-xi cũng là nhịp đập trong trái tim Xiu. Tinh bè bạn, tấm lòng nhân ái, vị tha của Xiu bao la, sâu nặng vô bờ. Tinh cảm cao đẹp ấy đã được đền đáp. Suốt cả ngày hôm đó, cho đến sáng hôm sau, trải qua một đêm mưa gió ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ và rơi lộp độp xuống đất,… chiếc lá dũng cảm, chiếc lá cuối cùng kia vẫn không rụng. Khi Xiu kéo tấm mành lên, cô thấy “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó” và cô đã. sung sướng vô ngần khi nghe Giôn-xi gọi lại đòi ăn cháo, uống sữa, pha rượu vang, hẹn sẽ “vẽ vịnh Na-plơ”. Sung sướng hơn nữa là lúc Xiu nghe người bác sĩ báo : “Chăm sóc chu đáo thì sẽ chiến thắng… Cô ấy đã khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng”. Lời nói của người thầy thuốc ấy thật có ý nghĩa.
Phải chăng, cùng với sự khích lệ của “Chiếc lá dũng cảm” – kiệt tác của cụ Bơ-men, tình thương và sự chăm sóc tận tuỵ, hết mình của Xiu đã giúp cho Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, chiến thắng những yếu mềm trong tâm hồn. Trong thắng lợi này của cô em yếu đuối, có phần quan trọng của chị Xiu nên cũng có thể coi Xiu chính là người chiến thắng. Tinh thương và tấm lòng vị tha đã chiến thắng. Khắc hoạ nhân vật Xiu, nhà văn sử dụng một giọng kể thủ thỉ, tâm tình như quạt một làn hơi ấm dịu dàng giữa những đêm đông giá buốt. Nhìn thấy chiếc lá cuối cùng bám mãi trên tường trong đêm mưa gió, Xiu đã rất ngạc nhiên. Cô reo thầm trong lòng : “Nhưng, ô kìa”… Thế thôi, nhà văn không kể tiếp về thái độ này của Xiu mà lái sang những việc khác. Cho đến hai ba ngày, sau khi chắc chắn Giôn-xi khỏi bệnh, Xiu mới khoan thai, nhỏ nhẻ kể hết mọi sự việc về chiếc lá dũng cảm kia cho em nghe. Cách ngắt đoạn, đảo ngược thời gian như thế khiến cho nhân vật Xiu trở nên tinh tế, vai trò người chị của Xiu đối với Giôn-xi càng thêm nổi bật. Và đối với người đọc, hình tượng Xiu thêm hấp dẫn. Rõ ràng, cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu góp những sắc màu nhỏ nhẹ, trong sáng làm đẹp thêm bức tranh tình người bao la, kì diệu của câu chuyện Chiếc lá cuối cùng độc đáo.
Còn nhân vật Giôn-xi, hình tượng trung tâm của bức tranh đẹp ấy, thì góp đường nét màu sắc gì ? Cảnh ngộ của cô bé thật đáng thương. Cô bị bệnh nặng, lại nghèo nên thuốc tháng chắc cũng thiếu thốn. Do đó, cô mang tâm trạng yếu đuối gần như bất lực trước bệnh tật. Trong cô chỉ có một niềm trông đợi là chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân trước mặt kia lìa cành thì cô cũng đi xa. Nhưng khi nghe chị Xiu thì thẩm vừa như trách mắng, vừa như thở than “Em hãy nghĩ đến chị, nếu không có em… chị sẽ làm gì đây”, thì Giôn-xi như cũng cảm thấy tâm trạng cô đối chọi và thấm thía nỗi buồn thương khi nghĩ tới sợi dây ràng buộc mình với bạn và thế gian cứ lơi lỏng dần. Vào chính cái giây phút cô đơn, buồn thương nhất ấy, cô gái đã nhìn thấy chiếc lá thường xuân dũng cảm sau một đêm mưa bão vẫn bám riết vào cuống lá, vẫn kiên gan đậu trên tường…
Và dường như trong cô gái bỗng trỗi dậy một sức sống mới, một nghị lực mới. Cô nằm nhìn chiếc lá hồi lâu. Cái nhìn ấy dần dần hâm nóng trái tim yếu đuối giá lạnh của cô. Rồi cô gọi Xiu, cô tâm sự, hay cũng là một cách sám hối : “Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”. Thế là Giôn-xi hồi lại dần dần. Cô thèm ăn cháo, muốn uống sữa, uống rượu và ao ước một ngày nào đó sẽ tiếp tục sáng tác, sẽ “được vẽ vịnh Na-plơ”. Cuối cùng, Giôn-xi đã khỏi bệnh, chiến thắng thần chết và chiến thắng những phút giây bi quan mềm yếu của tâm hồn. Nếu trong chiến công này, cụ Bơ-men và Xiu là người trao tặng, người dẫn dắt thì Giôn-xi là người được nhận, người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu chống lại kẻ thù, chống lại cái chết. Từ tình thương của hai người bạn Bơ-men và Xiu, sức mạnh ngoại lực, nếu Giôn xi không có một nội lực cần thiết làm sao cô gái có thể giành chiến thắng ? Do đó, quá trình diễn biến tâm trạng, cũng có thể nói là quá trình đấu tranh bản thân của nhân vật Giôn-xi đã góp phần hoàn thiện bức tranh tình thương giữa con người với con người, tô đậm vẻ đẹp kì diệu của nhân vật cụ Bơ-men, làm sáng lên nét giản dị trong sáng của nhân vật Xiu. Nhà văn kết thúc câu chuyện bằng lời kể của Xiu mà không cần kể thêm Giôn-xi đã nghĩ gì, nói gì. Áng văn dừng lại, nhưng dư âm còn vương vấn…
Cùng với nghệ thuật khắc hoạ ba nhân vật với những đặc điểm tâm lí và hành động khác nhau đầy ấn tượng như chúng ta đã tìm hiểu và suy ngẫm ở trên, nhà văn O Hen-ri đã xây dựng được hai tình huống đảo ngược bất ngờ, rất thú vị. Thứ nhất : Từ đầu câu chuyện, Giôn-xi, cô hoạ sĩ trẻ, cứ như đang dần dần tiến đến cái chết. Nhưng cuối cùng, cô gái khoẻ lại, yêu đời, vươn dậy, chiến thắng bệnh tật, chiến thắng cái chết. Tinh huống thứ hai : Cụ Bơ-men đang khoẻ mạnh bình thường, ai ngờ đến cuối truyện ông cụ lại qua đời. Hai tình huống đảo ngược trái chiều nhau – một cụ già đi từ sự sống đến cái chết để dẫn dắt một cô gái từ cái chết trở lại với sự sống – đã được nhà văn kể lại thật tự nhiên, lô gích như sự tuần hoàn tự nhiên, lô gích của cuộc đời. Cả hai tình huống ấy đều liên quan tới bệnh sưng phổi và chiếc lá cuối cùng, đểu gắn kết với những vẻ đẹp của ba nhân vật. Tất cả những điều đó đem lại cho thiên truyện một dư vị khó quên.
Tóm lại, chỉ đọc mấy trang cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mĩ O Hen-ri, chúng ta thấy rõ : truyện được xây dựng bằng nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ, khéo léo, khắc hoạ nhân vật rõ nét, kết cấu đảo ngược tình huống hai lần thật độc đáo và hấp dẫn. Nổi bật hơn tất cả là hình ảnh chiếc lá dũng cảm và chân dung những con người tuy nghèo khổ nhưng tình thương thì bao la, vô tận. Truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng là bài ca cảm động, giàu chất nhân văn ngợi ca tình người, rất đáng đọc, đáng suy ngẫm.
Có thể bạn thích: