Lỗ Tấn (1881- 1936), là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc. Truyện ngắn “Cố hương” là một trong các những truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập “Gào thét”. Trong truyện ngắn “Cố hương”, thông qua việc thuật lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi”, những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ, Lỗ Tấn đã phê phán xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến. Từ đó đặt ra vấn đề con đường đi của người nông dân và của toàn xã hội để mọi người suy ngẫm. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 4
Lỗ Tấn (1881-1936), là nhà văn nổi tiếng người Trung Quốc, từng học nhiều ngành nghề khác nhau, thế nhưng qua một sự kiện khi ông học tập ở Nhật, Lỗ Tấn đã nhận ra một bàn chân lý rằng chữa bệnh cho con người ở thể xác không bằng chữa bệnh cho con người ở tinh thần. Từ đó ông đã đổi hướng từ học y khoa sang làm văn chương để thay đổi tư tưởng cổ hủ, lạc hậu đậm chất phong kiến của người dân Trung Quốc giai đoạn bấy giờ, nhằm thay đổi xã hội 1 cách triệt để, nhằm cách mạng hóa đất nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông bao gồm tập truyện ngắn như AQ chính truyện, Bàng hoàng, Gào thét,… Các đề tài chính của Lỗ Tấn chủ yếu xoay quanh người nông dân, người lao động trong xã hội Trung Quốc cũ. Truyện ngắn Cố hương là một tác phẩm nằm tập truyện ngắn Gào thét in năm 1923. Trong tác phẩm ngoài sự xuất hiện của nhân vật chính còn có một nhân vật khác góp phần làm nên nội dung chính của câu chuyện ấy là Nhuận Thổ, người bạn từ thuở tấm bé của nhân vật “tôi”. Mà trong lần trở về sau hai mươi năm xa cách quê hương, nhân vật “tôi” đã đặt rất nhiều những hy vọng, mộng tưởng về cuộc hội ngộ tốt đẹp, thì sự thay đổi của Nhuận Thổ khi trưởng thành đã khiến anh vô cùng thất vọng và buồn rầu.
Sau hai mươi năm sinh sống học tập và làm việc ở nơi xa, nhân vật “tôi” trở về quê hương để bán đi ngôi nhà cũ và đưa cả gia đình đến nơi ở mới. Cuộc trở về ấy đối với tác giả không hề vui vẻ gì, bởi nốt lần này nữa thôi có lẽ anh sẽ không còn quay lại đây nữa, nơi vốn đã gắn bó với nhân vật “tôi” trong suốt những ngày thơ ấu. Cảnh vật quê hương xơ xác tiêu điều, hoang vắng, im lặng dưới vòm trời vàng úa, một thực cảnh in dấu sự thê lương. Và tại đây tác giả không chỉ chứng kiến sự thay đổi của cảnh vật mà còn phải chứng kiến cả sự thay đổi mạnh mẽ của con người, trong đó nhân vật Nhuận Thổ chính là nhân tố làm nên cái hồn của tác phẩm. Khi nghe tin Nhuận Thổ sẽ đến thăm, vốn tâm trạng đang buồn rầu của tác giả trước thực cảnh của quê hương lại trở nên phấn khởi và vui mừng, trong lòng nhân vật “tôi” vô cùng háo hức mong chờ cái lúc được hội ngộ với người bạn từng thân thiết năm nào.
Trong lúc ấy ký ức của nhân vật chính liên tục tràn về những ngày gia đình còn khá giả sung túc, vào cái ngày giỗ tổ linh đình 30 năm mới có một lần và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa trẻ ngây thơ. Trong ký ức của nhân vật “tôi” Nhuận Thổ khi ấy là một đứa trẻ có ngoại hình đáng yêu, tràn đầy sức sống “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bí tí teo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”, rồi thì bàn tay “hồng hào, lanh lẹn, mập mạp”. Tác phong thì nhanh nhẹn, hay nói hay cười, hiểu nhiều biết nhiều, biết bẫy cả chim khổng tước, lại biết cả bờ biển có những vỏ sò tuyệt đẹp, hay việc canh tra khỏi vào ăn dưa hấu,… Tất cả những điều ấy khiến cho một cậu thiếu gia cả ngày chỉ sống trong 4 bức tường bọc vuông lấy cái sân như nhân vật “tôi” vô cùng thích thú, và hai đứa trẻ con mau chóng trở nên thân thiết mà không hề có khoảng cách. Điều đó thể hiện rõ nhất thông qua cái cách mà nhân vật Nhuận Thổ xưng hô “anh-em” với nhân vật chính, thân thiết gần gũi vô cùng.
Đặc biệt lúc hai đứa trẻ phải chia tay, Nhuận Thổ cứ khóc mãi mà không chịu về, sau đó ở dưới quê cậu còn nhờ bố gửi lên cho người anh em của mình mấy cái lông chim và một bọc vỏ sò, để nhắc nhở về tình cảm thân thiết đáng quý giữa cả hai. Một điểm sáng nữa ở nhân vật Nhuận Thổ lúc bé mà nhân vật “tôi” nhớ mãi và trân trọng ấy chính là cái vẻ thông minh lanh lợi, tự tin toát ra từ trong lời nói, tác phong và hành động của nhân vật này. Ngoài ra còn đáng quý ở chỗ Nhuận Thổ tuy là một cậu bé thế nhưng rất biết giữ lời hứa, trân trọng tình bạn dẫu chỉ ngắn ngủi có một tháng tròn.
Tất cả những hồi ức tốt đẹp về người bạn bé thơ đã xa nhau hơn hai chục năm đang tràn đầy trong tâm trí, khiến nhân vật “tôi” trở nên mong chờ và háo hức với cuộc hội ngộ của cả hai thì hiện thực lại đem đến cho nhân vật này những sự thất vọng và buồn bã, đó là sự thay đổi hoàn toàn của Nhuận Thổ khi trưởng thành về tất cả mọi mặt. Nhuận Thổ đã không còn là Nhuận Thổ khi xưa, có lẽ rằng cuộc sống khó khăn đã mài dũa bào mòn khiến anh dường như biến thành một người khác. Không còn là một cậu bé mập mạp, tràn đầy sức sống như xưa, Nhuận Thổ trở thành một người đàn ông trưởng thành với thân hình cao lớn “nước da vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm, …mi mắt viền đỏ húp mọng lên”, “anh đội một cái mũ lông chiên rách rưới, mặc một chiếc áo lông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một chiếc tẩu thuốc lá dài”, “bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.
Tác phong thì trở nên co ro, khúm núm, mất hẳn cái vẻ linh hoạt nhanh nhẹn lúc bé, “dáng người phảng phất như một pho tượng đá”, trở nên trầm ngâm và lặng lẽ không còn hay nói hay cười như khi còn bé. Tuy nhiên tất cả những thay đổi ấy mới chỉ làm cho tác giả hụt hẫng và buồn rầu đôi chút vì giấc mộng bị sụp một góc nhỏ, thế nhưng chính những thay đổi về tình cảm, thái độ của Nhuận Thổ mới lại chính là cái khiến nhân vật “tôi” trở nên bằng hoàng, khiến tác giả “như điếng người đi” bởi hai tiếng “Bẩm ông!” khuôn phép, khúm núm của Nhuận Thổ. Như vậy đã không còn một Nhuận Thổ suốt ngày líu lo, xưng anh em với nhân vật chính nữa rồi, điều đó khiến ông thấy buồn bã và nuối tiếc vô cùng, không khí trở nên gượng gạo và tất cả những điều nhân vật “tôi” muốn nói dường như nghẹn bứ lại ở cổ, không cách nào nói tiếp được, chỉ còn cách im lặng, nhạt nhẽo.
Bên cạnh đó dưới cái nhìn của nhân vật “tôi” tính cách của Nhuận Thổ cũng không còn như xưa mà trở nên biến đổi dữ dội qua hai mươi năm của cuộc đời sóng gió, khó nhọc và nghèo túng. Sự nhanh nhẹn hoạt bát đã biến mất thay vào đó là sự nhu nhược, sống cam chịu, mất hẳn cái khí thế xông pha, tay cầm đinh ba sẵn sàng đâm con tra ăn trộm dưa lúc nhỏ. Giờ đây người ta chỉ thấy ở người đàn ông khốn khổ cái sự chậm chạp, trầm lặng, ngu độn bởi bị cái nghèo đói đày đọa. Và rồi điều khiến tác giả buồn bã hơn cả ấy là không chỉ trở nên đần độn mà Nhuận Thổ giờ đây lại còn sinh ra cả tính gian dối, khi vùi mấy chục bát vào đống tro bếp để toan khi xúc tro mang đi thì lấy luôn.
Như vậy nguyên nhân chính dẫn tới sự ngăn cách giữa nhân vật tôi và Nhuận Thổ có lẽ bước đầu xuất phát từ sự khác nhau giữa người tri thức và người lao động, do chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Bên cạnh đó sự thay đổi hoàn toàn của nhân vật của Nhuận Thổ lại chính là bắt nguồn từ chế độ phong kiến của Trung Quốc đã khiến cho con người ta trở nên tha hóa, đánh mất dần hết những vẻ đẹp nguyên sơ, thiên chân của một con người.
Cố hương đã đem lại cho người đọc những trang văn mang hơi hướng hồi ký, không chỉ đơn thuần là thuật lại chuyến hồi hương cuối cùng của tác giả, mà bên cạnh đó qua việc kể lại sự thay đổi của người bạn thuở nhỏ Nhuận Thổ, tác giả còn gián tiếp lên án phê phán xã hội phong kiến, đồng thời đặt ra vấn đề về con đường đi của người nông dân như Nhuận Thổ và xã hội lúc bấy giờ để độc giả cùng suy ngẫm.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 3
Lỗ Tấn (1881 –1936) là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc vào thời kì đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác mà ông để lại cho đời rất đồ sộ và đa dạng, trong đó có 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét (1923) và Bàng hoàng (1926). Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của tập Gào thét là truyện ngắn Cố hương.
Thông qua việc kể lại chuyến về quê lần cuối cùng và những suy ngẫm, rung cảm của bản thân trước sự thay đổi của cảnh vật và con người ở quê hương,đặc biệt là nhân vật Nhuận Thổ, tác giả đã kín đáo phê phán chế độ phong kiến hủ bại, đồng thời đề cập đến con đường giải phóng nông dân ra khỏi những ràng buộc vô hình nhưng nghiệt ngã của xã hội đương thời.
Tác giả nhớ như in hình ảnh của người bạn nhỏ cách đây hai chục năm. Bắt đầu là cảnh Nhuận Thồ xuất hiện vào ngày giỗ lớn cua gia đình tác giả. Đó là cậu bé xinh xắn, khỏe mạnh, khuôn mật tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng,., Tiếp sau đó là những kỉ niệm về người bạn đáng yêu thuở thiếu thời.
Nhuận Thổ hay kể chuyện bảy chim: Làng em toàn đất cát, hễ tuyết xuống là em quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cây que ngắn chống một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào nong hết. Thứ nào cũng có: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng. Hết chuyện bẫy chim đến chuyện rủ“cậu ấm” đi chơi bờ biển : Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng mình ra biển nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sò “mặt quỷ”, sò “tay phật”.
Rồi chuyện về con tra kì lạ như trong cổ tích : Ở làng em, người đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không kề là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy. Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên… Thời ấy, trước con mắt của “cậu ấm” con chủ nhà thì Nhuận Thổ là tiểu anh hùng, là người từng trải : Trời ! Nhuận Thổ hẳn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết! Những chuyện đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó không biết là vì trong khi Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chứng nó, cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!
Tình bạn tuổi thơ giữa tác giả và Nhuận Thổ thật trong sáng và đằm thắm. Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xôn xang, tôi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi căng cổ vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa.
Tác giả đã lấy hình ảnh tươi đẹp trong quá khứ đối chiếu với hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại để nêu bật chủ đề tác phẩm. Sau hai mươi năm cách biệt, nay hai người mới gặp lại nhau: Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đã đổi thành sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mái anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mộng lên. Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại đểai cũng thếcả. Anh đội một cái mủ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông…
Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: Bẩm ông! Sau đó, anh ta rón rén đưa ra một gói giấy và ấp úng: –Ngày đông tháng giá chẳng có gì, chỉcó ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông… Nghệ thuật tả thực của tác giả thật sắc sảo. Ông đã khắc họa sinh động chân dung một nông dân lam lũ, nghèo khó và đầy mặc cảm tự ti. Qua đó, ta có thể hình dung ra cảnh sống cơ cực, điêu đứng của Nhuận Thổ nói riêng và nông dân nói chung lúc bấy giờ. Người bạn nhỏ khỏe mạnh, đáng yêu thuở nào giờ đây là một nông xơ xác, da mặt vàng xám vì nghèo đói. Ngày xưa, Nhuận Thổ là một cậu bé có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, được bố cưng chiều.
Về hình thức, Nhuận Thổ giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, nhưng tận đáy lòng, Nhuận Thổ vẫn giữ nguyên tình bạn sâu nặng với “cậu chủ” ngày xưa. Nghe nói “cậu chủ” đã về nên Nhuận Thổ đến ngay và dù rất nghèo nhưng cũng không quên mang chút quà “cây nhà lá vườn” đến tặng “cậu chủ”. Chính điều đó làm cho những thay đôi trong quan hệ giữa hai người giờ đây trở nên phi lí. Hai biện pháp nghệ thuật chính được tác giả sử dụng trong truyện là hồi ức và đối chiếu được kết hợp 1 cách nhuần nhuyễn, khéo léo để làm nổi bật sự thay đổi của con người và cảnh vật. Đồng thời, tác già đặt ra cho người đọc câu hỏi tại sao lại có sự thay đổi ghê gớm vậy?
Qua truyện, tác giả muốn nói đến tình cảnh đói nghèo của nông dân du nạn áp bức, tham nhũng nặng nề ở nông thôn, song điều ông quan tâm hơn cả là sự thay đổi tinh thần theo chiều hướng xấu của họ, thểhiện qua tính cách của thím Hai Dương, của những người khách mượn cớ đưa tiễn để lấy đồ đạc, đặc biệt là qua tính cách của Nhuận Thổ. Trong mọi thay đổi, điều làm cho tác giả ngạc nhiên, đau xót đến “điếng người đi” chính là mối quan hệ giữa Nhuận Thổ và mình.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 2
Trung Quốc là một nước có nền văn học lâu đời, phát triển trong số đó những nhà văn như Bạch Cư Dị, Lí Bạch, Thôi Hiệu…đã trở thành những cái tên nổi tiếng không chỉ ở Trung Quốc mà còn vượt ra khỏi phạm vi quốc gia mà đến với các khu vực lân cận. Nhưng nhắc đến những nhà thơ, nhà văn tài năng của Trung Quốc không thể không nhắc đến Lỗ Tấn, một nhà thơ tiêu biểu có nhiều những đóng góp quan trọng cho văn học Trung Quốc, thơ của ông luôn thiết tha, tràn đầy cảm xúc, trong số đó có tác phẩm “Cố hương”, đây là tác phẩm viết nhân dịp nhà thơ về thăm lại quê cũ sau hơn hai mươi năm xa quê, ở đây ông đã nhận thấy được sự đổi khác không chỉ của cảnh vật mà còn ở con người, mà cụ thể trong tác phẩm này chính là Nhuận Thổ, người bạn thân thiết thời ấu thơ của nhà thơ.
Sau hai mươi năm Lỗ Tấn mới có dịp về thăm quê, đây cũng là chuyến thăm lại nhà cửa, xóm giềng để đưa gia đình đến nơi đất khách để làm ăn, sinh sống. Sau một khoảng thời gian dài không về thăm quê, tình cảm thương yêu của nhà văn đối với quê hương, con người nơi “chôn nhau cắt rốn” không hề đổi khác, nhưng cảnh vật cũng như con người ở đây cũng đã đổi khác. Trước hết đó là cảnh vật, ngay khi trở về nhà văn đã nhận thấy sự đổi khác này “ Làng cũ của tôi đẹp hơn kia! Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh, ngôn ngữ nào diễn tả được”. Quãng thời gian hai mươi năm đủ dài để mọi vật đổi khác, hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm trí nhà thơ nhưng khi trở về quê cũ, cảnh vật vừa lạ vừa quen này phần nào khiến cho nhà văn cảm thấy bối rối, dù biết đổi khác nhưng không thể nhớ rõ đổi khác ở đâu.
Không chỉ có cảnh vật mà con người cũng đã thay đổi, người bạn thân thiết thời thơ ấu của nhà văn là Nhuận Thổ đã hoàn toàn đổi khác, sự thay đổi này khiến nhà văn ngỡ ngàng. Ngay từ khi Nhuận Thổ xuất hiện thì Lỗ Tấn đã nhận thấy gì đó là lạ, không giống với ấn tượng của mình về cậu bé Nhuận Thổ khi xưa: “ Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức của tôi”. Như vậy là ngay ấn tượng đầu tiên khi trùng phùng với cố nhân thì nhà văn đã ít nhiều linh cảm được sự đổi thay này. Trong ấn tượng của Lỗ Tấn, cậu bé Nhuận Thổ khi xưa là một cậu bé nhanh nhẹn, hồn nhiên với: “Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”.
Đó chính là hình ảnh của cậu bé Nhuận Thổ năm nào, cũng là những kí ức về người bạn thân thời thơ ấu của nhà văn Lỗ Tấn, không chỉ vậy, Nhuận Phát khi xưa còn là một người mạnh dạn, vô cùng tài giỏi, từ bắt cá hay bắt chim thì đều thuần thục, thành thạo, khiến cho Lỗ Tấn đã từng rất ngưỡng mộ và thể hiện sự cảm phục “Trời ơi, Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, không sao kể khôn xiết”. Nhớ về người bạn từ những chi tiết nhỏ nhất cũng cho thấy được phần nào sự coi trọng, yêu quý của nhà văn đối với cậu bé năm nào. Nhưng những ấn tượng hồi nhỏ ấy hoàn toàn tan biến khi nhà văn đối diện với một Nhuận Thổ khi đã trở thành một chàng trai trưởng thành.
Khác với vẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn hồn nhiên lúc nhỏ thì Nhuận Thổ bây giờ đã trở nên dụt dè, e ngại, cho dù người mà mình đang tiếp xúc là người bạn rất thân thiết của tuổi thơ, người bạn mà khi phải chia tay đã lặng lẽ trốn đi mà khóc hết nước mắt. Nhuận Thổ bây giờ là “cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng cạm, lại có những nếp răng sâu hóm” Đấy là những dấu vết của một cuộc sống vất vả, cực nhọc, của những lo toan cơm, áo, gạo, tiền cho cuộc sống, không chỉ vậy mà khuôn mặt, vóc dáng của Nhuận Thổ lúc này cũng giống hệt với cái vẻ khắc khổ của bố anh khi xưa: “Cặp mắt giống hệt với cặp mắt của bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên”. Và điều này nhà văn Lỗ Tấn cũng có thể lường trước được vì “…ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại thể ai cũng thế cả”.
Dáng vẻ của Nhuận Thổ khi này cũng vô cùng khắc khổ, anh mặc một chiếc áo lông mỏng dính, người ci cúm rúm, đội chiếc mũ chiên rách tươm. Và ngay bàn tay cũng không giống trong ấn tượng của nhà văn “hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn” mà trở nên “thô kệch, vừa nặng nề, lại nứt nẻ như vỏ cây thông” Chỉ nhìn vào đôi bàn tay ấy thôi chúng ta cũng phần nào thấy được những vất vả mà người đàn ông ấy đã phải trải qua. Nhưng đâu chỉ có thay đổi về hình dáng và ngay cả tính cách và con người của Nhuận Thổ cũng đã có sự đổi thay. Khác với vẻ thân thiết, cảm giác vui sướng khi được trùng phùng của nhà văn thì Nhuận Thổ lại tỏ ra khúm lúm, e ngại.
Nhuận Thổ cũng vui vì được gặp lại nhà thơ nhưng dường như đã có một bức tường ngăn cách giữa hai người, Nhuận Thổ đứng đó, nét mặt vừa “hớn hở” nhưng cũng vừa “thê lương”, môi mấp máy như muốn nói một lời chào đầy nồng hậu, thân thiết nhưng mấp máy mãi cũng không ra tiếng, cuối cùng anh đã cung kính và chào rất rành mạch “Chào ông”. Tiếng chào ấy mới xót xa làm sao, nó làm cho nhà văn sửng sốt, đau lòng. Nhưng nếu đặt mình vào vị trí của Nhuận Phát thì ta có thể hoàn toàn có thể cảm thông. Bởi cuộc sống quá khó khăn, con đông, mất mùa, thuế má, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đã đầy đọa anh, khiến anh trở thành người đần độn, mụ mẫm như vậy.
Như vậy, qua tác phẩm Cố hương, nhà văn Lỗ Tấn đã thể hiện được sinh động được sự thay đổi của cảnh sắc quê hương cũng như sự đổi thay của người cố hương thân thiết sau hơn hai mươi năm xa cách, đó là sự đổi thay do hiện thực xã hội thay đổi, hoàn cảnh sống có thể biến con người ta từ người mạnh dạn, vui vẻ trở nên dụt dè, e ngại bởi khoảng cách địa vị, bởi những áp lực của cuộc sống, hình ảnh của Nhuận Thổ hiện lên thật đáng thương, làm cho người đọc cảm thấy đồng cảm với con người hiền lành nhưng cũng đầy khắc khổ đấy.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 6
“Cố hương” là một truyện ngắn tiêu biểu trong những truyện ngắn xuất sắc của Lỗ Tấn về nông thôn Trung Quốc. Câu chuyện là kí ức về miền quê yêu dấu của tác giả, Trong một chuyến vê quê, ông nhận thấy làng quê, người thân và bạn bè đều đổi khác. Nhuận Thổ – người bạn niên thiếu là nhân vật có nhiều biến đổi rõ nhất khiến tác giả rất đỗi ngạc nhiên:“Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi”.
Đúng vậy. Nhuận Thổ đã thay đổi rất nhiều. Nhuận Thổ trong kí ức là mội cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi. Còn Nhuận Thổ bây giờ là một nông dân thực thụ, đông con, làm lụng vất vả, người co ro cúm rúm. Trong thời trước Nhuận Thổ là một cậu bé đẹp, khỏe mạnh, hoạt bát, lanh lợi. Mười tuổi, chú bé có “khuôn mặt tròn trĩnh. nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Tuy ít tuổi, nhưng sống cuộc sống của làng quê, Nhuận Thổ tháo vát và hiểu biết rất nhiều điều. Nhuận Thổ biết cách bẫy chim khi tuyết xuống “quét lấy mội khoảng đất trống, dùng một cái que ngắn chống một cái long lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh.
Nhuận Thổ hiểu rất nhiều các loại sò khác nhau, nào sò “mặt quỷ”, sò tay Phật”. Nhuận Thổ giúp bố đi canh dưa, đuổi lợn rừng, nhím, tra… Tấn phải thốt lên đầy khâm phục: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết”. Dường như lúc nào người đọc cũng bắt găp ở Nhuận Thổ vẻ hào hứng, sự am hiểu cũng như tính sôi nổi, hổn nhiên. Hình ảnh Nhuận Thổ cổ đeo vòng bạc. tay lăm lăm chiếc đinh ba đang cố sức đâm theo một con “tra” giữa ruộng dưa trong một đêm trăng tuyệt đẹp in sâu trong tâm trí tác giả. Một chú bé khỏe mạnh, tháo vát. đáng yêu như Nhuận Thổ chắc sẽ có một tương lai tươi sáng.
Nhưng cuộc đời cậu lại trái ngược với những hứa hẹn đó. Sau những năm tháng cách xa, chú bé Nhuận Thổ mặt tròn, da ngăm giờ đây không còn nữa. Thay vào đó là hình ảnh một người đàn ông khuôn mặt vàng xạm vì sương gió. một con người chậm chạp, nặng nề và đờ đẫn. Những nét khỏe mạnh, đẹp đẽ trước đều được thay bằng những nét là lạ. hằn sâu vất vả. ”Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên “. Mũ lông chiên ngày xưa lành lặn, xinh xắn thì nay “anh đội một cúi mũ lông chiên rách tươm”. Trước kia anh ăn mặc gọn ghẽ, tư thế hiên ngang thì bây giờ đây anh “mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm”. Tác giả tiếp tục so sánh những nét thay đổi mà trở nên “vừa thô kệch, vừa nặng lề nứt nẻ như vỏ cây thông”.
Nhuận Thổ đã thay đổi rất nhiều vì thế mới “không phải là Nhuận Thổ trong kí ức” của nhân vật Tấn. Không chỉ thay đổi bên ngoài mà tâm hồn của Nhuận Thổ cũng thay đổi quá nhiều. Trước kia Nhuận Thổ hổn nhiên mạnh dạn thì nay anh rụt rè, e ngại. Được gặp lại bạn. anh rất vui mừng, rất muốn được vô tư nói chuyện cười đùa như ngày xưa. Nhưng có một cái hố đã ngăn cách hai người. Đó chính là sự phân biệt địa vị xã hội. Họ đã xa cách nhau quá nhiều, đã thành người trên kẻ dưới. Người bạn ấu thơ nay trở thành người trí thức ở tầng lớp khác tầng lớp “quan lại” có địa vị trong xã hội. Vì lí do đó mà anh thấy cần thay đổi cách xưng hô: “Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng không nói ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: Bẩm ông”. Không phải là anh khách khí. Trước thực tế phũ phàng, Nhuận Thổ không thể vô tư như khi còn nhỏ dại. ở đây người đọc thấy rõ vẻ mặt đầy mệt mỏi, cam chịu số phận của Nhuận Thổ. Trong cả cuộc nói chuyện, anh chỉ “bẩm” với “thưa”. Anh chỉ biết lắc đầu chán nản khi nói về nỗi khổ bấy lâu nay. Anh không dám nói nhiều, khi không được hỏi anh chỉ còn biết trầm ngâm hút thuốc. Cuộc sống quá khổ cực ở một miền quê biển không chỉ khiến anh tiều tụy ghê gớm mà còn thay đổi cả tinh thần. ý nghĩ của anh. “anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.
Tuy có nhiều nét thay đổi lớn nhưng Nhuận Thổ vẫn là một nông dân thuần phác, tốt bụng. Dường như vẫn còn mội chút gì đó của hình ảnh cậu bé năm nào đọng lại trong anh. Vẫn như ngày nào anh đội mũ lông chiên (có phải năm tháng đã làm cho nó rách bươm?), anh không khách khí. vui vẻ tự mình xuống bếp rang cơm ăn. Và đặc biệt hơn cả anh vẫn dành tình cảm chân thành với gia đình Tấn. Anh gọi con đến chào, anh tặng quà cho bạn: món đậu xanh phơi khô “cây nhà lá vườn”. Vẫn biết tình thế và địa vị có thay đổi, nhưng tình cảm của anh với gia đình Tấn vẫn chân thành không đổi khác.
Nhà văn Lỗ Tấn đã dành cho Nhuận Thổ tất cả những tình cảm yêu mến và thương xót của mình, đã thể hiện 1 cách sống động, chân thực và khắc khổ về anh. Nhuận Thổ là hình ảnh tiêu biểu cho những người nông dân đang phải sống bần cùng dưới sự áp bức bóc lột dã man của chế độ phong kiến Trung Quốc thời bấy giờ. Anh sống khốn khổ nhưng rất chân tình với bạn bè khiến ai cũng thương cảm.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 1
Trong các tác phẩm của văn học Trung Quốc, chúng ta không thể không nhắc tới những cây bút lớn như Đỗ phủ, Lí Bạch, Bạch cư Dị, và có lẽ sẽ là một sai sót lớn nếu chúng ta quên mất cái tên Lỗ Tấn. Ông là một nhà văn lớn với tư tưởng mới, vượt thời đại và thể hiện một cái nhìn hết sức văn minh trong thời kì Trung Quốc đang bước vào chiến tranh. Và một trong các những truyện ngắn của ông đó là Cố hương. Câu chuyện kể lại cuộc quay trở về quê hương của tác giả sau hơn hai mươi năm xa cách. Hiện nay những con người và cảnh vật đã thay đổi nhiều. Nét tàn tạ thể hiện 1 cách rất rõ nét qua những động tác, ngôn ngữ và diện mạo của những người đã từng gắn bó 1 cách sâu sắc với tuổi thơ của ông. Trong đó có Nhuận Thổ – một người bạn thiếu thời của ông. Đây chính là một trong các những điều khiến cho ông cảm thấy đau khổ nhất bởi sự thay đổi trong cách suy nghĩ và trong tính cách của một người bạn cũ.
Nhuận Thổ được miêu tả trong kí ức của tác giả chính là một cậu bé thông minh, khỏe mạnh và đẹp trai. Tuy Nhuận Thổ là cậu bé nhà nghèo nhưng do là con trai lại là người được bố mẹ chiều chuộng cho nen cậu bé lại có gương mặt hết sức bầu bĩnh, đáng yêu. Những chi tiết miêu tả những đặc điểm về ngoại hình của cậu bé là chiếc mũ lông đội đầu với chiếc vòng bạc lấp lánh ở cổ cho cậu bé dễ nuôi lớn. Ngày ấy, nhìn ngoại hình và những hành động của cậu bé, ai cũng nhận xét rằng, đó sẽ là một người có tương lai tốt đẹp.
Khi ấy, Nhuận Thổ là một cậu bé hết sức nhanh nhẹn và thông minh. Cậu bé tuy là con của một người nông dân tới xin làm người ở nhưng câu bé lại rất nhanh chóng hòa nhịp được với cuộc sống ở nơi đây. Chính nhờ có cậu mà tác giả khi còn nhỏ đã bớt cô đơn và có thêm người bên cạnh để bầu bạn. trong lòng của câu bé, không ai có thể thay thế được vị trí của Nhuận Thổ. Nhuận Thổ có thể biết rất nhiều thứ mà cậu bé lớn lên ở thành phố như tác giả không thể nào biết hết được: nào là cách bắt chim sẻ, cách phân biệt những con sò… chính bởi vậy mà khi chia tay, người mà tác giả lưu luyến nhất chính là Nhuận Thổ. Nhưng cậu vẫn luôn nghĩ rằng: Nhuận Thổ trong tương lai sẽ là một đại nam nhi có khí khái, có sự phóng khoáng, cần cù chăm chỉ nuôi cả gia đình. Cũng giống như hình ảnh của cậu khi tay cầm cây đinh ba trông ruộng dưa cho gia đình tác giả.
Thế nhưng nhiều năm sau gặp lại, Nhuận Thổ đã thay đổi, không còn là cậu bé ngày nào nữa. thay vào đó, cậu đã cao gấp hai, gấp ba lần hồi trước, đôi mắt không còn là đôi mắt đen láy, thông minh mà là một đôi mắt lờ đờ đỏ sọng. làn da vốn bầu bĩnh nay trở nên vàng vọt và có nhiều những nếp nhăn. Hình ảnh cậu bé thông minh và nhanh nhen ngày nào không còn nữa, thay vào đó là hình ảnh của một người trưởng thành ít nói, chậm chạp và có phần hèn kém. Điều đó khiến cho tác giả hết sức bất ngờ. giờ đây, Nhuận Thổ chỉ là con người như bao người khác, bị số phận đưa đấy, luôn cúi đầu trước mọi giông bão của cuộc đời. Có lẽ do chàng đã bị ăn sâu vào những tư tưởng phân chia giai cấp mà khi gặp tác giả, lời đầu tiên mà tác giả được nghe chính là hai chữ “thưa ông”. Có thẻ nói là đau đớn, xót xa nhường nào cho sự thay đổi to lớn ấy.
Rõ ràng năm nào Nhuận thổ vẫn còn là một cậu bé vô lo vô nghĩ với những dự định, ước mơ trong tương lai, ấy vậy mà giờ đây, cậu không còn giữ lại được bất cứ điều gì từ những sự nhanh nhẹn hay thông minh khi còn nhỏ nữa. tác giả vô cùng bất ngờ và đã hỏi chuyện thì mới biết Nhuận Thổ cũng chỉ là một trọng những nạn nhân của chế độ, của hiện thực mà thôi. Hàng loạt những khó khăn đã tới với gia đình của Nhuận Thổ: sưu thuế cao, lũ lụt nên hoa màu mất trắng, … một thời gian dài sống trong lo âu, dần dần chúng đã hình thành nên tính cách cùng cách nhìn nhận của Nhuận Thổ về cuộc sống. Nhuận Thổ đã biết đầu hàng số phận. Chàng đã không còn giống như cậu bé đầy nhiệt huyết ngày nào còn khóc thét lên khi phải xa người bạn thân thiết tuổi thơ ấu nữa mà chàng luôn phải sống cúi đầu, luôn lo sợ cho cuộc sống của mình và vợ con. Từ đó, tính cách phóng khoáng tự tin vốn có của chàng cũng không còn nữa.
Qua tác phẩm, chúng ta đã nhận ra rằng, trong cuộc sống không chỉ có một mà có rất nhiều người gặp phải hoàn cảnh như Nhuận Thổ. Chàng chính là điển hình cho những nạn nhân của xã hội. Hoàn cảnh khiến cho chàng không còn làm được những điều mà mình mong muốn, không còn giữ được những tính cách đáng quý vốn có của chàng nữa, tất cả mọi thứ chàng đều đã bị phai nhạt để giờ đây, ngay cả với việc nói chuyện cùng người bạn thời thơ ấu của mình mà chàng cũng phải có sự suy nghĩ và cân nhắc vấn đề vai vế trong xã hội trước tiên, cũng không còn nhận là mình đã từng sống 1 cách tự do, phóng khoáng như trước nữa. Có thể nói, tác phẩm cũng đã phê phán chế độ thời bây giờ đã làm thay đổi bản chất của một con người – đó là điều đáng sợ tới nhường nào.
Bài văn phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong tác phẩm “Cố hương” số 7
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Hoa. Ông thường quan niệm văn học là vũ khí lợi hại để biến đổi tinh thần dân chúng đang ở trong tình trạng “ngu muội và hèn nhát”. Chính vì vậy các tác phẩm của Lỗ Tấn thường có tác dụng thức tỉnh đồng bào của mình đứng dậy làm chủ cuộc đời, hướng về tương lai tươi sáng. Truyện ngắn “Cố hương” trích từ tập “Gào thét” là một ví dụ điển hình. Tác phẩm đã ghi lại những xúc cảm và suy tư của nhân vật Tấn trước những đổi thay của cảnh vật và con người ở quê hương. Qua đó, ta thấy hiện lên hình ảnh người nông dân Trung Hoa nghèo khổ trong quá khứ. Nhân vật Nhuận Thổ từ một cậu bé hồn nhiên và tháo vát đã trở thành một người đàn ông khốn quẩn, bất lực. Đọc lại chuyện ta nhận ra sự thay đổi nhanh chóng ấy.
Quê hương không chỉ là cảnh vật mà trong sâu thẳm tâm hồn của mọi người, quê hương còn là những kỉ niệm về tình bạn thưở thiếu thời. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ dần sống lại trong kí ức nhân vật Tấn. Có thể thấy sự thay đổi sa sút của quê hương ở sự biến dạng của Nhuận Thổ.
Tác giả tạo ra sự tương phản trong thời gian quá khứ và hiện tại để lột tả những thay đổi đáng buồn của Nhuận Thổ, người đã từng là bạn với Tấn từ thủa thiếu thời. Trong kí ức của nhân vật Tấn sống dậy những hình ảnh tuyệt đẹp của quá khứ thần tiên hơn hai mươi năm trước, trong đó nổi bật hình ảnh một Nhuận Thổ khoẻ khoắn, lanh lợi “cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba”, “nước da bánh mật” với biết bao chuyện lạ, bao điều kì thú. Trong quá khứ, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp thông minh, tháo vát.
Đó là hình ảnh một đứa trẻ con nhà cũng không đến nỗi chật vật. So với những đứa trẻ khác cùng tràn lứa, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, dễ thương với “khuôn mặt trờn trĩnh, nước da bánh mật đầu đội mũ long chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Vóc dáng ấy, làn da ấy, phải chăng là kết quả của những lao động từng trải?
Qua câu chuyện của Nhuận Thổ kể cho Tấn nghe: nào là cách thức bẫy chim vào mùa đông tuyết lạnh, nào là những buổi trãa hè nhặt vỏ sò trên biển và cả những đêm trăng đi canh dưa… Ta thấy Nhuận Thổ còn là một đưa trẻ thông minh, tháo vát, lanh lợi, am hiểu. Đối với Tân cũng như bao cậu bé khác, Mọi ngày “chỉ nhìn thấy một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sàn nhà thôi” thì những điều mà Nhuận Thổ biết được là cả một bàn chân trời kiến thức đầy lý thú.
Tưởng chừng như trong cái đầu nhỏ bé ấy là biết bao điều mới lạ, phong phú. Chính nhân vật Tấn đã từng nhận xét: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết, những chuyện ấy bạn bè tôi từ trước tới nay không biết gì cả”. Mỗi lần nhắc đến tên Nhuận Thổ, trong đầu óc Tấn lại hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: “giữa ruộng dưa bát ngát một cậu bé lăm lăm cầm chiếc đinh bà đang đuổi theo con tra. Hình ảnh ấy phần nào bộc lộ tính cách dũng cảm, cương nghị của một tiểu anh hùng”.
Nhuận Thổ là một cậu bé có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Tuy hoàn cảnh hai gia đình khác biệt: 1 bên là chủ một đằng là tớ, nhưng hai đưa trẻ ấy vẫn chẳng màn, chúng vẫn chơi đùa thân thiết với nhau, tình bạn giữa chúng không hề bị vẩn đục bởi một ý nghĩa đen tối nào. Khi nghe tin phải về quê, cậu bé Nhuận Thổ đã khóc mà không chịu về, những giọt nước mắt ấy đã làm xốn xao bao nhiêu tâm hồn độc giả nhỏ tuổi chúng ta.
Dù sau này cách mặt mà họ chẳng xa lòng, hai đứa trẻ vẫn gửi quà cho nhau trong khả năng có được. Làm sao ta có thể quên được những món quà nhà nghèo của Nhuận Thổ món quà gói chọn tất cả niềm thương và nỗi nhớ “một bọc vỏ sò mà mấy cái lông chim thật đẹp” món quà ấy thật vô giá bởi lẽ nó được đánh đổi bằng bao giọt mồ hôi, cống sức của Nhuận Thổ. Để có được bằng ấy, Nhuận Thổ phải vận lộn trong những tháng ngày tuyết lạnh để bẫy chim rồi chọn lựa những chiếc lông thật đẹp, trân trọng nâng niu cất giữ và cũng phải còng lưng vào những trưa hè trên bãi biển để nhặt được những con sò đầy kì thú. Món quà đạm bạc ấy cùng với hình ảnh tiểu anh hùng đã đi theo Tấn trong suốt mười mấy nắm trời.
“Cố hương” của nhân vật Tấn là thế đấy, là người bạn thân và những kỉ niệm thật đẹp, thật khó phai nhạt. Chính vì thế mỗi lần nhắc tới Nhuận Thổ “ký ức Tấn bỗng dưng thấy bừng sáng trong chốc lát và tựa hồ thấy quê hương mình đẹp ở chỗ nào rồi”. Trong hiện tại, hình ảnh Nhuận Thổ trước mắt nhà văn đã hoàn toàn đổi khác. Sau ba mươi năm xa quê, trở lại lần này, Tấn không chỉ nhận thấy cảnh vật đổi thay mà ngay cả con người cũng thay đổi. Từ một đứa trẻ đẹp trai khỏe mạnh, tháo vát ngày nào, Nhuận Thổ hiện tại già nua, thô kệch, nặng nề, da dẻ “vàng xạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm”. Nhuận Thổ bây giờ sống trong một tình cảnh bi đát, khốn khổ, thê luơng: “Con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi!”.
Nước da bánh mật nào giờ đây chở nên vàng sạm, chiếc mũ long chiên bé tí tẹo xinh xắn ngày nao nay đã rách tươm. Cái vòng bạc sáng loáng ngày ấy không còn nữa mà thay vào đó là chiếc áo bông mỏng dính. Ngay cả đôi bàn tay lanh lẹ, mập mạp ngày nào cũng biến dạng, trở nên nứt nẻ như vỏ cây thông. Lớp bụi thời gian tàn nhẫn không chỉ làm thay đổi hình tính mà làm cho nhân tính của con người cũng đổi thay nhiều. Tới nhà Tấn lần này, Nhuận Thổ đã có cử chỉ rụt rè, khép nép đến nỗi những nếp nhăn cũng không động đậy trên gương mặt im lìm như pho tượng đá. Con người ấy, giờ đây trở nên mụ mẫn, đần độn, anh chỉ còn biết phó thác số mệnh của mình vào thần linh. Người nông dân đó chỉ còn biết sung bái tượng gỗ và tin vào đó 1 cách mù quáng.
Nhuận Thổ vẫn nhớ tới bạn nhưng không quên vị trí của mình trong xã hội qua cách xưng hô đầy cách biệt. Giữa Tấn và Nhuận Thổ giờ đây có một khoảng cách quá lớn. Chính hai tiếng “Bẩm ông” đã làm Tấn điếng người, phút chốc không nói được gì. Sự sa xút của người nông dân khiến cho Tấn không thể hình dung về người bạn năm nào. Duy chỉ có vẻ chân thật trong Nhuận Thổ là thoát được sự sa sút, biến dạng vẫn còn nồng ấm: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Anh đem món quà tặng bạn nhưng món quà của anh cùng thái độ cung kính chỉ làm cho Tấn nghẹn ngào xót tủi hơn. Nhưng giá như không có cái điệu bộ khúm núm, không có những sáo ngữ thưa gửi thì đã không đáng buồn đến thế.
Sau mấy mươi năm trời vận lộn với cuộc sống, Nhuận Thổ đã chở nên rụt rè, sợ sệt mất hết vẻ tinh anh. Nguyên nhân trực tiếp gây nên sự đổi thay nhanh chóng và tàn nhẫn ấy là do xã hội Trung Hoa loạn lạc, dẫn đến cảnh đói nghèo lạc hậu, thêm vào đó giai cấp thống trị ra sức bóc lột nhân dân. Dù cảm mến người bạn xưa, muốn được gần hơn nhưng Nhuận Thổ không thể vượt qua ý thức giai cấp trong xa hội vốn đã định hình và ăn sâu trong trí não con người. Nhuận Thổ là con người của quá khứ. Cái quá khứ đẹp đẽ ấy giờ đã phai mờ và khó có thể lấy lại được. Nhuận Thổ cũng là con người của hiện tại, một hiện tại điêu tàn, khốc liệt và tàn nhẫn. Nhân vật Tấn đau xót nhưng vẫn hi vọng ở tương lai. Cái hi vọng là cái chưa có, không ai hi vọng cái đang có bao giờ! Cái hi vọng cũng không là cái đã từng có, người ta phải hướng tới những cái mới, tốt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp đẽ có phần giống những hình ảnh trong hồi ức tuổi thơ của Tấn với Nhuận Thổ hiện ra khi anh đang mơ màng là thực. Trong cuộc đời mới của thế hệ Hoàng – Thuỷ Sinh ngay cả vẻ đẹp ấy cũng sẽ khác. Cuộc đời mới ấy còn ở phía trước, có thể là xa vời, nhưng con người cứ mong ước, mong ước mãi để có được nó. Rồi cuộc sống mới ấy cũng sẽ đến, đúng như chân lí về sự hình thành của những con đường trên mặt đất vậy.
Với lối kể chuyện đầy sáng tạo, tác giả đã khắc họa trong tâm trí chúng ta hình ảnh người nông dẫn chung hoa trong quá khứ mà Nhuận Thổ là nhân vật điển hình. Quảng đời tuổi thơ của nhân vật Nhuận Thổ thật đẹp trong trắng nhưng sao ngắn ngủi quá. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ đẹp, thông minh, am hiểu, tâm hồn luôn sáng trong sao chóng phai nhòa theo năm tháng. Sự vần xoai ấy đã để lại trong lòng em những nuối tiếc vô hạn và niềm chua sót cực kì của một kiếp người, kiếp đời,…
Có thể bạn thích: