Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng lãng mạn rất rõ trong sáng tác. Ông thường sử dụng thủ pháp đối lập để thể hiện tư tưởng của mình. Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, nghệ thuật tương phản cũng đã được sử dụng thành công, đặc biệt nhất là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích sự tương phản đối lập trong truyện ngắn mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Nếu như hoa hồng tồn tại giữa cuộc đời này nhờ hương thơm và màu sắc sặc sỡ, hoa cúc mang một mùi thơm nồng nàn thì có lẽ điều còn lại với mỗi nhà văn chính là giọng điệu riêng của mình. Ai đó đã từng nói rằng “Phong cách văn học trước hết biểu hiện ở cách nhìn cách cảm nhận có tính khám phá ở giộng điệu riêng biệt của tác giả”. Ta biết đến Thạch Lam với những tác phẩm chủ yếu khai thác nội tâm nhân vật và sự biến chuyển của không gian thời gian. Một trong những tác phẩm điển hình cho phong cách ấy chính là Hai đứa trẻ. Hình ảnh ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực về cuộc sống đời thường cùng những xúc cảm vui buồn của những con người ở phố huyện nghèo. Phân tích hình ảnh ánh sáng và bóng tối Hai đứa trẻ sẽ giúp ta hiểu hơn về nội dung tác phẩm.
Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng Việt Nam thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình công chức gốc quan lại, thuở nhỏ chủ yếu sống ở quê ngoại, phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch Lam là người con thứ 6 trong gia đình 7 người con. Ông bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Thạch Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội. Tác phẩm chính của ông bao gồm các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, tiểu thuyết Ngày mới, tiểu luận Theo dòng, tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường. Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Tác phẩm thuộc loại truyện ngắn trữ tình, qua tâm trạng của hai đứa trẻ và cảnh sống nghèo khổ của những người dân nơi phố huyện nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc về thân phận con người.
Trong truyện ngắn, Thạch Lam đã xây dựng thành công hình tượng ánh sáng và bóng tối, đây là thủ pháp quen thuộc của văn học lãng mạn. Hình tượng bóng tối hiện lên nơi phố huyện là bóng tối của thiên nhiên trong tác phẩm đậm đặc trở đi, trở lại như một nỗi ám ảnh không dứt. Bóng tối dường như chiếm lĩnh cả không gian bao la, tĩnh mịch nơi phố huyện. Bóng tối của thiên nhiên gợi lên bóng tối cuộc đời và bóng tối của cuộc sống con người. Bóng tối ấy được hiện lên qua đôi mắt của Liên “ngập dần vào cái buồn của buổi chiều quê”, qua hình ảnh của bà cụ Thi với tiếng cười khuất dần trong bóng tối như cảnh đời đen tối, bức bối, vật vờ của cụ Thi. Đó còn là bóng tối hiện lên qua hình ảnh của mẹ con chị Tý với cái chõng nước và ngọn đèn dầu leo lét…Có thể nói, chừng ấy con người trong bóng tối như những hạt bụi li ti, vô giá trị, bị lãng quên trong sa mạc của cuộc đời mênh mông, bế tắc.
Đối lập với bóng tối là bao phủ ánh sáng và niềm khao khát tội nghiệp của người dân nghèo nơi phố huyện. Đó là hình ảnh nhỏ nhoi, mỏng manh của ánh sáng. Cái hay, cái độc đáo trong nghệ thuật thể hiện của Thạch Lam là nhà văn đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối: Trên trời, ánh sáng xuất hiện với sự lấp lánh của những ngôi sao và những ánh đom đóm lập lòe. Ở dưới đất, ánh sáng được hiện lên với ngọn đèn của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt ra từ những liếp lửa của những ngôi nhà…Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi Liên nhớ về Hà Nội, một thứ siêu cảm giác bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống- một vùng sáng rực và lấp lánh. Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Giữa cái bóng tối dày đặc của không gian, của cuộc đời, ánh sáng nhỏ nhoi trở nên quý giá. Có thể nói tất cả ánh sáng dù nhiên tạo hay nhân tạo đều như vẽ ra những vạch đích khát vọng của những nhân vật chính, phụ trong tác phẩm, đều biểu tượng lấp lánh những cung bậc của ước mơ.
Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng: ánh sáng nơi phố huyện- những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng…tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con người nơi đây. Ánh sáng đô thị- vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là niềm mơ ước của hai đứa trẻ. Ánh sáng con tàu- ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại về quá khứ, rồi hướng tới tương lai. Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu trưng, biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hình tượng ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ “khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay” của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây.
Thông qua việc sử dụng hình ảnh ánh sáng cũng như bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa thành công về cuộc sống nghèo khó cũng như ước mơ và khát vọng vượt ra khỏi không gian nhỏ bé này của những con người phố huyện. Thế nhưng, ánh sáng ấy rất yếu ớt, lay lắt như ngọn đèn trước gió không đủ vượt lên trên tất cả của bóng tối. Để rồi, nỗi buồn cứ thế man mác dai dẳng, để lại trong lòng bạn đọc nhiều nghĩ suy ám ảnh về một cuộc sống lầm lùi, tĩnh mịch.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả cuộc sống phố huyện trong Hai đứa trẻ gắn với ba thời điểm nối tiếp: chiều buông- đêm xuống- khuya về. Có thể thấy rõ ở đây có sự xung đột giữa bóng tối và ánh sáng: bóng tối hay nghèo nàn và cô đơn- ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua. Mở đầu truyện, ánh sáng tắt dần; kết thúc truyện, bóng tối tràn ngập phố huyện, hay tràn ngập thế giới. Thế giới Hai đứa trẻ là thế giới “yên tĩnh”, “tịch mịch”, hai chị em ngủ “một giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Ở cái phố huyện nhỏ này, đến cả tiếng trống cầm canh khô, ngắn cũng chìm ngay vào bóng tối; ga im lặng và tối đen; đêm của đất quê, mênh mang và yên lặng.
Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn dư vị của bóng tối. Trong không gian “bóng tối ngập đầy dần”, Liên đã chứng kiến những con người “đi lần vào bóng tối”, “từ từ đi vào bóng đêm”. Và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng đời chập chờn ánh sáng lay lắt với ngọn đèn, bếp lửa.
Đêm xuống, cả phố huyện chìm trong bóng tối: “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Càng về khuya, bóng tối càng đậm đặc hơn: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê lương, gợi cho ta hình dung bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé bỏng đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất lấp của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quãng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố huyện le lói ánh đèn dầu.
Trong bóng tối tràn lan, dày đặc ấy, ánh sáng thật nhỏ nhoi, leo lét. Đó là cái ánh sáng yếu ớt hắt ra từ khe cửa; đó là cái quầng sáng từ chiếc đèn con của chị Tí và lò lửa của bác Siêu; đó là “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”; đó là cái ánh sáng nhợt nhạt của “những con đom đóm bay là là trên mặt đất”; đó là ánh sáng xa vời vợi của các vì sao trên giải ngân hà. Ánh sáng được miêu tả bằng những danh từ định lượng rất nhỏ: khe sáng, hột sáng, vệt sáng, quầng sáng, chấm lửa nhỏ. Bấy nhiêu thứ ánh sáng ít ỏi ấy như đối lập với bóng tối mênh mông, dày đặc. Chính trên cái nền tối ấy, tồn tại chông chênh những thân phận con người. Sự đối lập giữa bóng tối mênh mông và ánh sáng leo lét, ít ỏi đã làm nổi bật lên hiện thực cuộc sống nơi phố huyện: lay lắt, lụi tàn, tối tăm, tù đọng.
Bóng tối và ánh sáng ở đây vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Phải chăng cuộc sống nghèo nàn, tù túng ở phố huyện cũng là một thứ bóng tối. Những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn dùng được trong ngôi chợ vãn. Hai mẹ con chị Tí ban ngày mò cua bắt ốc, ban đêm dọn hàng nước dưới gốc cây bàng, buôn bán ế ẩm. Bóng bác Siêu bán phở mênh mang ngả xuống đất, kéo dài đến tận hàng rào; món hàng của bác là một thứ quà xa xỉ nên cũng chẳng mấy người mua. Bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách đi lần vào bóng tối. Gia đình bác xẩm trên manh chiếu rách với mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất nhặt rác bẩn. Và hai đứa trẻ với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, lời lãi chẳng là bao, ngồi nhìn cảnh chiều xuống, đêm về với những nỗi buồn mơ hồ, thấm thía. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí cứ trở đi trở lại như một biểu tượng cho những kiếp sống mù tối, lay lắt trong bóng đêm mênh mang của cuộc đời.
Con người luôn hướng về phía ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Đó là thực tế đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của những người dân nghèo. Nhưng dường như ông không muốn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ. Bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc mong manh nhất: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Dù đấy là niềm mong đợi hết sức mơ hồ và cũng không biết bao giờ mới trở thành hiện thực.
Không gian chứa đầy bóng tối xuất hiện hầu hết trong các truyện của Thạch Lam. Nhưng đối lập với bóng tối là ánh sáng, không chỉ là ánh sáng le lói của những ngọn đèn mà quan trọng hơn là ánh sáng của những tâm hồn luôn muốn vươn tới một thế giới tinh thần lành mạnh, giàu tính thiện.
Hình ảnh đoàn tàu với “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường…những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Hình ảnh rực rỡ của đoàn tàu đối lập với cuộc sống lặng lẽ, tối tăm nơi phố huyện.
Đoàn tàu mang đến một thứ ánh sáng khác lạ, rực rỡ và cuộc sống sôi động nhưng chỉ vụt qua trong thoáng chốc, chỉ đủ sức khuấy động không gian yên tĩnh của phố huyện trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Con tàu như mang đến một thế giới khác, thế giới của hồi ức tuổi thơ đẹp đẽ, thế giới của lí tưởng và ước mơ đối lập với cái thế giới hắt hiu, tĩnh lặng của phố huyện, khơi dậy những nỗi niềm mơ tưởng của chị em Liên. Kỉ niệm là “một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá…Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó đánh thức tuổi thơ hạnh phúc khi gia đình Liên còn sống ở Hà Nội, hai đứa trẻ được đi chơi bờ hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, được hưởng những thức quà ngon lạ. Hà Nội sáng rực và lấp lánh trong kỉ niệm càng tương phản với cuộc sống hiện tại nơi phố huyện khiến hai đứa trẻ cứ nôn nao, thấp thỏm một niềm mong đợi mơ hồ.
Như vậy, hai đứa trẻ chờ tàu vừa để sống lại thế giới tuổi thơ đã mất, vừa để thoát khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng, xơ xác, nhàm chán của phố huyện nghèo, hướng đến một cuộc sống tươi đẹp hơn. Thế giới mà Liên mơ tưởng là một thế giới vừa đã qua, lại vừa chưa tới. Đã qua vì nó gợi nhớ đến tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc; nhưng chưa tới vì nó gợi mở, hướng đến một cái gì tươi đẹp hơn ở tương lại. Nguyễn Tuân có nhận xét: “Truyện Hai đứa trẻ có hương vị man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở tương lai”.
Sự đối lập đó đã cho người đọc thấy được tâm hồn trong sáng, chan chứa ước mơ, đau đáu khát vọng nhưng đang chìm trong những kiếp sống mòn. Ở trên, ta nói ánh sáng và bóng tối vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa tượng trưng. Nếu cuộc sống tối tăm, lay lắt, tù đọng nơi phố huyện cũng là một thứ bóng tối thì những ước mơ, khát vọng trong tâm hồn con người lại là một thứ ánh sáng. Ánh sáng đó dẫu nhỏ bé, mong manh nhưng nó lại là nguồn sáng đẹp nhất, bền bỉ nhất. Hy vọng của những kiếp người nghèo dẫu mong manh, mơ hồ nhưng nó sống mãi. Phố huyện tối tăm, đêm tối đậm đặc, ánh sáng le lói, hy vọng mơ hồ nhưng vẫn gieo vào lòng người đọc một niềm tin về tình thương, ước mơ và sức sống bất diệt của con người.
Với nghệ thuật đối lập, Thạch Lam đã khắc họa đậm nét cuộc sống tối tăm, lay lắt, tàn lụi của những con người nơi phố huyện; cho ta cảm nhận về ước mơ, khát vọng của những con người bé nhỏ. Dù chỉ là niềm hi vọng mong manh, mơ hồ nhưng rất đáng nâng niu, trân trọng. Đó chính là tấm lòng thương cảm sâu xa của Thạch Lam đối với những kiếp sống mỏi mòn. Cấu trúc đối lập còn tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo cho câu chuyện.
Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng trong đó có bài Hai đứa trẻ được độc giả đánh giá cao bởi nghệ thuật mà ông sử dụng có ý nghĩa vô cùng mạnh mẽ, nó thu hút sự chú ý của đọc giả và nêu được ý nghĩa tư tưởng của chủ đề tác phẩm.
Hai đứa trẻ là tác phẩm nêu lên hiện thực của một vùng phố huyện nghèo, nơi đó có cuộc sống và những con người đang sống trên cảnh nghèo đói, khổ sở, họ phải chật vật lo cho cuộc sống của mình quanh năm vất vả, với việc buôn ba kiếm từng mảnh cơm… Và để lột tả được những điều đó, tác giả đã thể hiện những biện pháp nghệ thuật tương phản nhằm làm tăng lên giá trị phản ánh trong tác phẩm, những điều đó thể hiện một tư tưởng nghệ thuật cũng như giá trị của tác phẩm mà tác giả đang muốn thể hiện. Tương phản ở đây đó là sự đối lập giữa những phạm trù, và để tăng lên sức chú ý và mức độ ảnh hưởng của nó đến toàn bộ con người và sự vật.
Trong tác phẩm chủ đề và tư tưởng tác giả thể hiện mang một ý nghĩa to lớn trong việc lột tả lên giá trị của tác phẩm, những giá trị đó mang lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc hơn về hiện thực được thể hiện trong tác phẩm. Trong truyện ngắn tác giả đã thể hiện những nét tương phản qua không gian và thời gian, không gian ở đây là trong không gian của vùng phố huyện chật hẹp, có con người đang sống và mọi sinh hoạt vẫn đang diễn ra, một không gian chật hẹp, nó đối diện với những ước mong về một cuộc sống rộng lớn và bao quát lên toàn bộ cuộc đời của nhân vật.
Trong tác phẩm không gian chật hẹp tối tăm còn đối diện với ánh sáng, đó là ánh sáng của cuộc sống tốt đẹp hơn, của những ánh sáng của bóng đèn dầu leo lắt, của hình ảnh của chiếc đèn toa tàu, nó làm sáng rực lên không gian của vùng phố huyện, những cảnh leo lắt, tối tăm đó, nó làm tăng lên sự nghèo đói và khó khăn của những người dân nghèo ở phố huyện, cảnh phố huyện tiêu điều xơ xác với những rác rưởi sau buổi chợ làm cho chúng ta có cảm giác như đang có điều gì đó tăm tối và không có chút sáng sủa.
Không gian nơi phố huyện thật tiêu điều, xơ xác nó làm cho con người có những cảm giác chật hẹp và bị bó chặt vào cùng không gian nơi đây, đó là những cảm giác tăm tối và con người đang phải trải qua những khó khăn và gian nan nhất, cuộc sống của con người bị bó buộc trong không gian vô cùng chật hẹp, nó đã phản ánh được tình trạng đói khổ, và gian nan của con người, con người dường như đang phải chịu những vất vả do cuộc sống gây nên. Chính sự đối lập tương phản nó đã bao trùm lên toàn bộ vùng không gian của nơi phố huyện, đó là những cảnh tối tăm của không gian, của con người, tất cả đang dần chìm vào những gam màu tối, nó đã làm cho cuộc sống của họ không có chút hy vọng nào.
Chính những gam màu chính là gam màu tối nó làm cho tác phẩm ngập tràn trong một vùng không gian với rất nhiều những thứ tồi tệ, đó là cảnh nghèo đói, đó là sự tối tăm của không gian con người, con người đang phải sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt, và có chút ánh sáng tiêu điểm, nó cũng đủ để điểm tô thêm những niềm hy vọng mới cho con người, nhưng đó là những điều mà làm cho con người có thêm chút niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, cuộc sống đang phải tràn ngập và nở rộ những tia hy vọng về một tương lai tươi sáng, ở đó con người có thể sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù ánh sáng nó chỉ là những hình ảnh rất hiếm hoi, leo lắt và tác động nhỏ tới con người, nó không thể bao trùm lên không gian rộng lớn của vùng phố huyện, nhưng nó đủ để tạo nên những niềm tin sâu sắc vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Với cách dùng từ một cách tinh tế, tác giả đã thể hiện được tư tưởng và ý nghĩa chủ đạo trong tác phẩm của mình, với những cách miêu tả tinh tế, con người dường như đang lạc vào một thế giới nhiều màu sắc hơn, mặc dù, nhiều chi tiết như: “phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông ra ngõ đều đen sậm lại”. Tất cả cảnh phố huyện đang tràn ngập trong bóng tối, đó là bóng tối của thiên nhiên, và mặt khác nó cũng thể hiện sự khó khăn trong vật chất của con người, con người có thể mong ước điều gì đó mới mẻ và khác lạ hơn sẽ đến trong chính cuộc sống của mình. Ánh sáng mà tác giả thể hiện mặc dù rất yếu ớt đó là ánh sáng của chiếc đèn dầu của chị em nhà Liên và An, nhưng nó đủ để cho con người cảm thấy ấm lòng, hay hình ảnh của toa tàu khi đang đến nó làm cho không gian nơi đây sáng lên rực rỡ trong phút chốc.
Người luôn mong chờ để đón những tia sáng đến vùng đất của mình để họ có thể cảm nhận và hiểu được những điều tinh tế và tốt đẹp nhất cho con người, con người vẫn đang cần mẫn và phải làm những điều tốt nhất cho chính cuộc đời của mình, trong không gian nơi đây con người dường như đã bị cái tối tăm của không gian bao phủ lấy tâm can, và trái tim của họ, chính vì vậy, cái lớn lao nhất mà họ mong đợi đó là có điều gì đó tốt nhất sẽ đến với chính cuộc đời của họ vượt qua được mọi điều để họ có thể có được điều tốt nhất.
Tương phản còn thể hiện giữa cuộc sống của Liên và An trong quá khứ và hiện tại, quá khứ tươi đẹp, sáng sủa, hiện tại tối tăm… Tác dụng của nghệ thuật tương phản mà tác giả thể hiện đem đến cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc về hiện thực nơi đây.
Truyện kết thúc một cách nhẹ nhàng, nhưng đối với người đọc là cả sự băn khoăn, day dứt, xót thương. Hình ảnh ánh sáng và bóng tối cứ thấp thoáng, cứ ám ảnh người đọc: không biết bao giờ ánh sáng, tương lai và hạnh phúc mới đến với Liên – An và những người dân nghèo nơi phố huyện?
Một tác phẩm tuyệt vời và lưu danh cùng thời gian không chỉ cần sự hấp dẫn về nội dung mà còn cần đến nghệ thuật đặc sắc. Với những chi tiết nghệ thuật độc đáo và sáng tạo, tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã để lại nhiều dư âm trong lòng bạn đọc. Một tác phẩm mà truyện như không có truyện, không sử dụng những cao trào thắt nút mà chỉ có những xúc cảm man mác, những suy nghĩ sâu sắc cũng đủ để tạo nên sự khác biệt.
Trong thiên truyện này, hình ảnh bóng tối hiện lên trước cả. Vì vậy, cảm nhận và phân tích hình ảnh ánh sáng và bóng tối Hai đứa trẻ, chúng ta cần đi theo cốt truyện. Hình ảnh bóng tối của thiên nhiên mang màu sắc đậm đặc, cứ trở đi trở lại như một ám ảnh. Đó là chi tiết “đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông. Các ngõ con vào nhà lại càng đen sẫm hơn nữa…” Nơi phố huyện ấy, bóng tối như chiếm lĩnh và lan tỏa hết cả. Sự tĩnh mịch và bao la của không gian cũng không vượt qua được cái tối đen ấy nơi phố huyện. Một không gian như gợi lên sự thê lương, buồn bã, sầu thẳm.
Bên cạnh hình ảnh bóng tối của thiên nhiên còn là bóng tối về những cuộc đời, những số phận nơi phố huyện nghèo. Hiện lên trong đôi mắt của Liên là những hình ảnh “ngập dần vào cái buồn của buổi chiều quê”. Đâu đó là tiếng cười của bà cụ Thi khuất dần trong bóng tối đen nhẻm. Đó còn là hình ảnh bóng tối hiện lên qua cuộc sống của mẹ con chị Tý cùng cái chõng nước và ngọn đèn dầu heo hắt… Chừng ấy con người đại diện cho biết bao cuộc sống nơi phố huyện nghèo.
Những con người trong bóng tối như những hạt bụi nhỏ li ti, vô giá trị, cũng như đang bị lãng quên nơi sa mạc mênh mông và bế tắc. Phân tích và cảm nhận hình ảnh ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm Hai đứa trẻ thì người đọc có lẽ không thể không lưu tâm về những số phận thấp thoáng trong cái bóng tối ấy. Sự tương phản gay gắt với bóng tối chính là hình ảnh về ánh sáng. Trong quá trình phân tích hình ảnh ánh sáng và bóng tối Hai đứa trẻ, chúng ta thấy sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối hết sức khác biệt.
Đó là hình ảnh ánh sáng cùng niềm khát khao tội nghiệp của biết bao con người nơi phố huyện nghèo. Sự nhỏ nhoi và mong manh của ánh sáng cũng như những mong ước nhỏ bé của họ vậy. Những chi tiết cụ thể như “trên trời, ánh sáng xuất hiện với sự lấp lánh của những vì sao, với đom đóm lập lòe. Dưới đất với ánh sáng từ ngọn đèn dầu của chị Tý, bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng từ những liếp cửa. Những ánh sáng ấy dù là thiên nhiên hay nhân tạo đều thể hiện khát vọng của các nhân vật. Hình ảnh ánh sáng trong truyện chính là biểu tượng của mơ ước, của lấp lánh khát vọng.
Nổi bật hơn cả về hình ảnh ánh sáng chính là chi tiết về đoàn tàu, thứ ánh sáng lớn, đến rất nhanh và cũng đi rất nhanh. Dù chỉ xuất hiện choáng ngợp chốc lát nhưng cũng đủ cho những con người ở đây liên tưởng đến bao nhiêu thứ tốt đẹp, về một nơi xa xôi đầy hạnh phúc và ấm áp. Có thể thấy, hình ảnh ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đó là những cuộc sống quẩn quanh, bế tắc và ước mơ khát vọng về tương lai tươi sáng hơn. Hình ảnh ánh sáng và bóng tối Hai đứa trẻ cũng cho thấy ngòi bút tài hoa cùng tài năng nghệ thuật của nhà văn Thạch Lam. Với phong cách độc đáo, lấy ánh sáng để tả bóng tối và ngược lại, lấy tĩnh để tả động, lấy nội tâm để miêu tả ngoại cảnh…
Cách miêu tả sinh động, cảm xúc chân thực rõ nét, thủ pháp tương phản cùng với quan niệm thẩm mỹ sâu sắc giúp hiện thực hóa về cuộc sống của những con người trong xã hội cũ. Giúp nhà văn khắc họa những kiếp người vô danh, nhỏ bé, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Những con người với cuộc sống mãi bị chôn vùi trong nghèo đói, bần hàn, trong tăm tối và buồn chán nơi phố huyện. Và rộng hơn, đó là hình ảnh của nhiều số phận khác trên đất nước ta thời điểm bấy giờ. Hình ảnh ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được nhà văn thể hiện qua ngòi bút tương phản của chủ nghĩa lãng mạn cùng những chi tiết đắt giá khác đã tạo nên sự hấp dẫn đầy ám ảnh trong tâm tưởng của bạn đọc.
Trong tác phẩm này, đây là chi tiết đắt giá cho thấy ngòi bút tài hoa của Thạch Lam. Mặc dù bóng tối rộng lớn và bao trùm tất thảy, ánh sáng tỏa ra từ nhiều lát cắt những vẫn chưa đủ để khống chế được bóng tối. Cũng như chính cuộc sống của những người dân phố huyện nghèo. Ước mơ và khao khát thôi thì chưa đủ để giúp họ hiện thực hóa về cuộc sống tươi sáng…
Có thể thấy, thông qua việc sử dụng hình ảnh ánh sáng cũng như bóng tối hai đứa trẻ, Thạch Lam đã khắc họa thành công về cuộc sống nghèo khó cũng như ước mơ và khát vọng vượt ra khỏi không gian nhỏ bé này của những con người phố huyện. Thế nhưng, ánh sáng ấy không đủ vượt lên trên tất cả của bóng tối. Để rồi, nỗi buồn cứ thế man mác dai dẳng, để lại trong lòng bạn đọc nhiều nghĩ suy ám ảnh.
Nhà văn Thạch Lam là một cây bút tài ba chuyên viết truyện ngắn và văn xuôi. Các tác phẩm của ông luôn mang một vẻ độc đáo riêng biệt, đó là những truyện ngắn có cốt truyện đơn giản hoặc thậm chí không có cốt truyện, nhưng luôn đọng lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ, hoài niệm. Tiêu biểu trong số đó chính là tác phẩm “Hai đứa trẻ” -một tác phẩm đặc trưng cho phong cách văn thơ của ông. Với nghệ thuật tương phản sâu sắc trên nhiều khía cạnh, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả được sinh động cuộc sống và niềm mơ ước của các nhân vật trong truyện.
Nhân vật chính trong tác phẩm đó chính là hai chị em Liên và An, hai người sống ở một phố huyện nghèo khi gia đình khó khăn phải lui về ở đấy. Khi mới vào tác phẩm, Thạch Lam đã dùng nghệ thuật tương phản để miêu tả rõ nét quang cảnh của buổi chiều tà nơi vùng quê, đó chính là sự đối lập của bóng tối và ánh sáng. Bóng tối cùng màn đêm dần buông xuống, nó bao trùm, ngự trị khắp mọi nơi, mọi ngóc ngách. Phố xá thì tối hết cả, con đường chỉ toàn là những rác rưởi, văng vẳng đâu đó là những tiếng ếch kêu, tiếng vo ve của muỗi. Tất cả mọi thứ làm cho khung cảnh trở nên ảm đạm, tẻ nhạt và vô vị, nó thấm vào sâu thẳm trong cả con người khiến con người ta buồn man mác. Trong gam màu tối chủ đạo ấy, vẫn hiện lên những hình ảnh le lói của những tia sáng yếu ớt. Đó chính là những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà đang tắt dần qua các ngọn núi, là ngọn đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lắt trong nhà ông Cửu, hay đơn giản chỉ là tia sáng phát ra từ những cây nến nhỏ bé.
Những nguồn sáng ấy quá lẻ loi, đơn độc, chẳng thể nào thắp sáng cả một khu phố, cũng giống như số phận của những con người lao động nơi đây, dù có cố gắng, chăm chỉ làm ăn, nhưng cuộc sống vẫn mãi quẩn quanh trong sự đói nghèo và bế tắc. Tiêu biểu là ánh đèn dầu của chị Tí – một người phụ nữ nghèo khổ, làm lụng vất vả, lúc nào cũng nheo nhóc với đứa trẻ con và đống đồ đạc. Ánh sáng phát ra từ cây đèn là một quầng sáng mờ nhạt, leo lắt, chỉ đủ chiếu tỏ một vùng nhỏ bé, đó giống như một hình ảnh ẩn dụ mà thông qua đó nhà văn Thạch Lam muốn khơi gợi về những mảnh đời cơ cực, những kiếp sống nhỏ bé trong một xã hội đầy những bất công và khổ nhục.
Quang cảnh tiếp theo thể hiện sự tương phản đó chính là sự đối lập giữa mặt đất và bầu trời. Bầu trời đẹp đẽ bao nhiêu, rực rỡ toàn sao bao nhiêu thì dưới đất lại bẩn thỉu, ngột ngạt bấy nhiêu. Thạch Lam đã miêu tả: “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía, một mùi âm ẩm bốc lên”, chả có điều gì thơm tho, đẹp đẽ ở đó cả. Những con người trên bề mặt đấy còn khiến ta động lòng, cảm thương hơn nhiều: “Mấy đứa trẻ con nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được từ các người bán hàng để lại”, hay hình ảnh đứa trẻ con nhà bác xẩm bò ra đường “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát” không khỏi khiến con người ta phải cảm thương cho những số phận đang vùi mình trong đêm tối ấy.
Từ sự khác nhau giữa mặt đất và bầu trời ấy, Thạch Lam đã dẫn dắt người đọc sang một nét tương phản khác, đó chính là sự tương phản giữa quá khứ – thực tại và những mơ ước xa xôi. Quá khứ của An và Liên là những ngày tháng tươi đẹp nơi Hà thành, nơi mà hai chị em vô âu vô lo, được mẹ dẫn đi Bờ Hồ chơi, uống những cốc nước xanh đỏ mát lạnh. Ngoài ra những kỉ niệm về Hà Nội đó chính là cả một vùng sáng rực rỡ và lấp lánh. Nhưng giờ đây, hai con người ấy lại phải ngồi ở một nơi đói nghèo, tối tăm, cuộc sống tẻ nhạt, vô vị. Thay vì vui chơi, học hành thì giờ đây Liên đã bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống, về những thứ xa xôi, chính điều ấy đã khiến cô trở nên trưởng thành hơn. Sống trong một cuộc sống như vậy, cho nên Liên lúc nào cũng mơ về một cuộc sống tốt đẹp, sung túc hơn. Những ước mơ của cô thật xa vời nhưng cũng rất giản dị.
Thạch Lam đã mượn hình ảnh đoàn tàu hàng ngày chạy qua nơi phố nghèo để nói lên rõ nhất những ước mơ của hai chị em cũng như toàn thể người dân lao động nghèo nơi đây. Đoàn tàu chính là sự hiện thân của ánh sáng, của những hoài niệm đẹp đẽ, ấm áp nơi Hà Thành “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Đoàn tàu ấy như mang một thế giới hoàn toàn khác đi ngang qua nơi này, một thế giới mà Liên ao ước và hoài niệm. Trong một thực tại tối tăm, nghèo đói, bế tắc, nhưng những con người nơi phố huyện vẫn luôn mơ đến những ước mơ xa xôi, mơ về một cuộc sống sung túc, tươi đẹp. Nhưng rồi, khi đoàn tàu đi qua, bóng tối lại bao trùm, màn đêm buông xuống, tất cả trở lại với thực tại tầm thường.
Bằng bút pháp đối lập tương phản tinh tế, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả một cách khéo léo được quang cảnh nghèo khổ, tẻ nhạt của cuộc sống nơi phố nghèo. Nhưng cũng qua đó mà những nét đẹp của con người Việt Nam đã được tác giả thể hiện, đó chính là sự vô tư, tốt bụng, dù có khó khăn bế tắc thế nào đi chăng nữa nhưng lúc nào cũng chăm chỉ làm ăn, luôn mơ ước về một cuộc sống tươi đẹp ở phía trước.
Thạch Lam là một đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945. Sáng tác của ông thường có cốt truyện đơn giản, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Ngay trong tác phẩm đầu tay (“Gió đầu mùa”), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng… Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp… Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy… (Vũ Ngọc Phan).
Sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và lãng mạn làm nên màu sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam. Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” những đặc điểm phong cách nghệ thuật ấy được hiện lên một cách rõ nét. Thiên truyện mang những thông điệp sâu sắc về cuộc sống con người thông qua một cặp hình ảnh có sức ám ảnh với người đọc, đó là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Những điểm sáng lóe lên trong đêm tối tựa như những ánh diêm soi đêm đông buốt giá sưởi ấm những giấc mơ của đứa nhỏ trong truyện cổ tích Andersen (Thụy Khuê).
Truyện ngắn Hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống của Liên và An ở phố huyện nghèo. Tối đến, sau khi đóng cửa hàng tạp hóa nhỏ, lại ra ngồi chõng ngắm sao, ngắm phố…Trong bóng tối, hai đứa bé nhìn, đếm những ánh sao trên trời và chờ đợi những đốm lửa hiện ra ở chung quanh; mỗi lần gặp một đốm sáng, cuộc sống nội tâm của hai chị em lại bừng lên. Mỗi đêm, chúng sống một hiện thực đầy mộng tưởng, mỗi hình ảnh tạt ngang qua mắt, mỗi âm thanh vẳng đến bên tai gieo vào lòng hai chị em một mảnh đời, gợi lại trong kí ức chúng những lam lũ chung quanh. Hai đứa bé nghèo không có gia sản gì, trừ bóng tối, và từ bóng tối ấy, dấy lên những đốm lửa soi rạng tâm hồn chúng (Thụy Khuê).
Khi tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều cũng là lúc màn đêm đang dần xâm lấn không gian phố huyện: Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời; đôi mắt của Liên bóng tối ngập đầy dần… Trong cái nhá nhem tối, trên con đường mấp mô vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối, những cuộc đời nghèo khổ như thước phim quay chậm dần dần hiện ra.
Trên nền của phiên chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía, một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi; mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại. Trong ngõ đi ra là thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc. Tất cả cái cửa hàng của chị. Sau một tiếng cười khanh khách, là sự xuất hiện của bà cụ Thi – một bà già hơi điên, đến mua rượu ở cửa hàng Liên. Cầm cút rượu đầy Liên vừa rót cụ ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch, rồi lảo đảo bước ra ngoài, đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng… Những bóng đời tối tăm, nghèo khổ ấy hiện lên trong cái nhìn đầy thương cảm của Liên. Trong giọng điệu chậm rãi, những dòng văn, trang văn viết về mảng tối của những cuộc đời ẩn chứa biết bao buồn thương của nhà văn.
Khi trời đã bắt đầu đêm cũng là lúc Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối.Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Trong sự bủa vây của đêm tối, bác Siêu với gánh phở trên vai tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt, bóng bác mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền. Gần đấy là vợ chồng bác xẩm với mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Cuộc sống của Liên và An cũng vậy… Từ ngày thầy mất việc, cả nhà Liên bỏ Hà Nội về quê ở. Mẹ Liên làm hàng xáo. Hai chị em được giao trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa, dán giấy nhật trình. Cả khi chợ phiên, cửa hàng bán cũng chẳng ăn thua gì.
Bóng tối của sự nghèo khổ bao trùm lên những cuộc đời, nhưng buồn hơn, khi cuộc sống ấy cứ thế lặp đi lặp lại, từ ngày này qua ngày khác. Chỉ là gánh hàng nước dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch nhưng chiều nào chị Tí cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Mặc dù mẹ Liên còn bận làm gạo, nhưng ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần và bà dặn cứ trống thu không là phải đóng cửa hàng lại. Với hai đứa trẻ, cuộc sống quẩn quanh ở phố huyện cũng đã trở thành quen thuộc: Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xá xung quanh. Chừng ấy bóng người, chừng ấy dáng điệu nhưng chiều nào, rồi ngày nào hay đêm nào cũng xuất hiện trong dòng đời chậm trôi ấy, trong cái ao đời bằng phẳng (Xuân Diệu) ấy.
Bóng tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trở thành không gian nghệ thuật mang ý nghĩa biểu tượng, có sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đó là bóng tối của những cuộc đời nghèo khổ, bóng tối của những mảnh đời tàn, bóng tối của cuộc sống người dân Việt Nam trong đêm trường trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Giá trị hiện thực sâu sắc củatác phẩm được kết tụ trong những hình ảnh bóng tối ấy.
Trên phông nền bóng đêm đen kịt, mịt mùng là sự xuất hiện của những hình ảnh ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt. Trước giờ khắc của ngày tàn, dõi theo cái nhìn của chị em Liên khi ngồi yên trên cái chõng nan nhìn ra phố, những hình ảnh mang theo ánh sáng xuất hiện. Ánh sáng từ đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh trong hiệu khách. Khi trời nhá nhem tối, có thêm quầng sáng từ ngọn đèn nơi cửa hàng nước của chị Tí. Khi trời đã bắt đầu đêm, đâu đó có khe ánh sáng từ cửa để hé của một vài cửa hàng còn thức. Úp trên những chấm sáng nhỏ nhoi đó là vòm trời hàng ngàn ngôi sao đang ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. Khi bác Siêu với gánh phở đặt xuống đường, phố huyện có thêm cái bếp lửa chỉ chiếu sáng một vùng đất cát. Trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa… Đêm càng về khuya, qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy…, từ phố huyện có thêm hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái bóng dài từ mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về.
Các chi tiết, hình ảnh về ánh sáng xuất hiện rải rác khắp cả thiên truyện, nhưng tất cả đều rất nhỏ nhoi, leo lét. Đó chỉ là những đốm sáng, khe sáng, những vệt sáng, quầng sáng. Đó là những chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi hiện ra. Đó là ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất cát, là ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa… Sự nhỏ nhoi và yếu ớt của ánh sáng dường như không đủ sức xua tan bóng tối mà ngược lại, nó làm ta có cảm giác bóng đêm mênh mông hơn, dày đặc hơn. Những hình ảnh ánh sáng gợi đến sự sống leo lét của những cuộc đời cơ cực, quẩn quanh nơi phố huyện.
Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được nhìn ngắm qua cái nhìn của nhân vật Liên – một cô gái mới lớn, tâm hồn với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nương theo mạch cảm xúc của Liên ta bắt gặp những mảng màu sáng – tối đan xen. Mở đầu truyện, trong buổi chiều tà, nhân vật xuất hiện trong cửa hàng, khi ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Từ trong đôi mắt ấy chứa cả nỗi buồn của buổi chiều quê cùng nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Từ chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két, Liên cùng em ngồi nhìn phố huyện về đêm, nhìn đường phố, ngõ con, cảnh vật chìm sâu vào đêm tối, nhìn những cuộc đời từ từ đi trong đêm. Trong sự vây phủ của màn đêm, tâm hồn Liên ánh lên một vầng sáng êm dịu, đó là hào quang của quá khứ phản chiếu – khi thầy Liên chưa mất việc, Liên còn ở Hà Nội, được thưởng thức quà ngon, lạ, bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền, Liên được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Vùng sáng rực và lấp lánh của kỉ niệm cùng ấn tượng Hà Nội nhiều đèn quá! Là thứ ánh sáng dịu êm vừa đủ tiếc nhớ khi Liên đối diện với hiện tại tối tăm, vừa như muốn thắp lên ước mơ cho cuộc đời nghèo khổ. Quầng sáng ấy thật đẹp, thật đáng để nâng niu.
Chừng ấy người trong bóng tối vẫn luôn mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ bằng một thói quen thường nhật: Cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện. Đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Đoàn tàu đi qua phố huyện chỉ trong chốc lát, nhưng nó vẫn luôn là niềm mong đợi của những người dân nơi đây, vì nó mang theo một thế giới khác hẳn với cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt quẩn quanh, nghèo khổ của họ. Cùng với âm thanh, chuyển vận của đoàn tàu – tiếng còi trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi, rồi tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ, tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới – là sự xuất hiện của các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường, là những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng. Đoàn tàu đã mang theo một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp đi qua phố huyện. Khác với vệt sáng, quầng sáng, khe sáng, hột sáng hay chấm sáng… thấp thoáng trong đêm đen dày đặc của phố huyện, ánh sáng của đoàn tàu đã xuyên thủng màn đêm chiếu ánh cả xuống đường.
Đoàn tàu đã vụt qua phố huyện trong chốc lát để rồi đi vào trong đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, nhưng hai chị em Liên còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre với một niềm lưu luyến, bâng khuâng: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Ánh sáng của đoàn tàu cùng ánh sáng của thế giới trong mơ tưởng của Liên đã dệt nên một vùng sáng lấp lánh, thắp lên mong muốn thoát khỏi cuộc sống tù hãm, tăm tối của những con người nghèo khổ. Trong vùng ánh sáng đẹp đẽ ấy, nhà văn Thạch Lam gửi gắm tấm lòng trân trọng, nâng niu những khát vọng đổi đời của con người.
Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nhà văn Thạch Lam cũng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về những hình ảnh tương phản ánh sáng – bóng tối. Trong mỗi hình ảnh mang tính biểu tượng đó, nhà văn đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng biểu lộ sự trân trọng ước mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ. Ánh sáng và bóng tối thực sự là những hình ảnh, những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện “Hai đứa trẻ”.
Có thể bạn thích: