Qua tác phẩm “Sống chết mặc bay”, Phạm Duy Tốn đã khắc họa thành công và rõ nét nhất thái độ vô trách nhiệm, thờ ơ với tính mạng dân lành của tên quan phụ mẫu “lòng lang dạ sói”. Qua đó, tác phẩm đã lên án chế độ phong kiến thối nát 1 cách triệt để nhất đồng thời cảm thương sâu sắc với nỗi bất hạnh của người dân trong xã hội cũ. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 8
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), một cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỉ XX. Trong số những tác phẩm của ông để lại, sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả và được coi như 1 trong số những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực ở nước ta. Phạm Duy Tốn đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật “quan phụ mẫu” và qua đó tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Mở đầu thiên truyện tác giả mô tả tình cảnh vô cùng hiểm nguy của dân chúng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X, thuộc phủ X, xem chừng núng thế lắm; hai ba đoạn đã thẩm lâu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng của con dân cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. Trống đánh liên thanh, ốc thổi vỏ hồi, dân phu “Kẻ thì thuổng, người thi cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào kè, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột lột”.
Trước tình thế nguy kịch, quan – “cha mẹ của dân”, người có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình, cách chừng bốn, năm trăm thước, cũng ở trên mặt đê nhưng cao và vững chãi. Ngoài kia con dân đang thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lại lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng.
Quan vẫn nhàn nhã, thư thái ung dung không mảy may quan tâm đến tình cảm thảm thương của dân chúng. Quang cảnh trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường thường ngày, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê ngoài kia của dân chúng. Tác giả có dụng ý dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt nhằm tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của tính mạng hàng trăm ngàn người dân mà “quan cha mẹ” vẫn điềm nhiên hưởng lạc! Quan vẫn chễm chệ giữa sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho một tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi…”Và cả một bầy tôi tớ phục dịch hầu hạ quan, đứa thì quạt, đứa thì khoanh tay chực hầu điếu đóm.
Chưa đủ, xung quanh y còn bày biện bao nhiêu thứ sang trọng, xa hoa nhằm phục vụ cho sự hưởng lạc, nào bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng… ví thuốc tăm bông. Trong khi “sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất” thì bọn nha lại tay chân đang cùng ngồi hầu bàn quan lớn.
Qua cảnh chơi bài này, tác giả đã bóc trần bản chất vô nhân đạo “Sống chết mặc bay” của tên quan huyện. Là cuộc chơi, lại chơi bài trong khi đi làm nhiệm vụ đốc phu hộ đê nhưng quan vẫn giữ cái trật tự trên dưới và cái không khí tôn nghiêm, nghi vệ. Ngoài kia mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, trăm họ đang lấm láp gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến… thì quan vẫn nhàn nhã, ung dung, tất cả tâm trí của quan lúc này chỉ tập trung vào 120 quân bài.
Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch, nghiêm trang, thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, “dạ”, tiếng “bẩm bốc”, “thất văn… Phỗng”. Thú vui bài bạc, cái ma lực đỏ đen của cuộc chơi, đã làm cho y mất hết lương tri; “ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội, thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ.”
Thói vô trách nhiệm và nhẫn tâm đến thế là cùng! Ván bài vẫn tiếp diễn, ngoài đê có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra cảnh nghìn sầu muôn thảm nhưng quan vẫn ung dung “này, này đê vỡ mặc đê, nước sông dầu nguy, không bằng nước bài cao thấp…”, “một nước bài cao không bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập…”.
Một sự so sánh, suy nghĩ đến táng tận lương tâm. Tính mạng của trăm vạn dân lành như cỏ rác, chẳng bằng thú vui đen đỏ của một ván bài! Ván bài đã đến hồi sắp kết thúc, ngài vừa xơi bát yến xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi hồi hộp chờ đợi thì tai họa sắp xảy ra. Tiếng kêu vang trời dậy đất, mọi người giật nẩy mình riêng quan vẫn điềm nhiên, lăm le chưa hạ bài. Ván bài quan sắp “ù” to cũng là lúc đê sắp vỡ. “Đê sắp vỡ”, quan gắt: “Mặc kệ” rồi thản nhiên, đổi tư thế ngồi quay sang bảo thầy đề lại “Có ăn không thì bốc chứ!”
Đê vỡ, tiếng người kêu rầu rĩ, tiếng ào ào như chảy xiết, tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Quan đỏ mặt tía tai quát: “Đê vỡ rồi thời ông cắt cổ chúng mày.” Và lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?” Ván bài “ù” to, quan sung sướng vỗ tay xuống sập, miệng cười hả hê, đắc chí, ấy cũng là lúc khắp nơi “nước tràn lênh láng, nhà cửa trôi băng, kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn…”
“Sống chết mặc bay”, “mặc dân, chẳng dân thời chớ”, đó là triết lí bất nhân của bọn quan lại thống trị. Chúng là những kẻ đã mất hết nhân tính, “lòng lang dạ thú”. Bằng một giọng văn khi thiết tha xúc động, khi mỉa mai cay độc, Phạm Duy Tốn đã bày tỏ thái độ cảm thông xót xa trước cảnh bi thương của dân chúng và lòng cảm uất đối với bọn người táng tận lương tâm.
Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu trong thiên truyện có tính cách điển hình và đánh dấu một bước phát triển mới của nền văn xuôi nước nhà.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 3
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) là 1 trong nhà văn đầu tiên đặt nền móng cho thể loại truyện ngắn hiện đại. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh của những người dân lao động và cả chế độ của đất nước ta thời bấy giờ hiện lên 1 cách vô cùng chân thực. Đó chính là những người nông dân đói nghèo, vất vả nhưng luôn phải lo lắng cho cuộc sống của mình, còn những người làm quan phụ mẫu đáng lẽ phải quan tâm và chăm sóc cho những người dân của mình thì lại không hề quan tâm tới cuộc sống của những con dân phụ thuộc vào mình. Họ thờ ơ, lãnh đạm, chỉ biết hưởng thụ những thứ thuộc về mình mà thôi. Và những hình ảnh ấy đã được miêu tả 1 cách rõ ràng và sắc nét qua tác phẩm Sống chết mặc bay và nổi bật trong đó là nhân vật tên quan phủ.
Ngay phần mở đầu của tác phẩm, tác giả đã tập trung miêu tả một cảnh tượng hết sức khẩn trương và căng thẳng. Đó là hình ảnh của những người nông dân nhỏ bé đang cố gắng hết sức mình để giữ lấy đê ngăn không cho nước đập vỡ trong 1 trong những buổi đêm trời mưa to gió lớn. Hàng nghìn những người nông dân chân lấm tay bùn không kể là ai đều phải cùng nhau chống lũ với những phương tiện hết sức thô sơ “người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, lũ lụt”.
Trong hoàn cảnh như vậy, bất cứ ai cũng đều cảm thấy khẩn trương và lo lắng thì điều đầu tiên mà người đọc cảm thấy tò mò chính là việc không thấy hình ảnh của những người quan phụ mẫu ở đâu cả. Tới lúc ấy, hình ảnh của người quan mới xuất hiện. Thì ra quan phụ mẫu trong khi những người dân sức yếu hèn mọn với những công cụ thô sơ đang ra sức để giữ đê thì người quan, người có chức quyền lại đang cùng nhau chơi đánh bài.
Trong một khung cảnh tráng lệ, quan cùng những người có chức có quyền đang cùng nhau chơi bài, thậm chí không hề ngó ngàng gì tới những điều đang xảy ra bên ngoài kia đi chăng nữa. Khi một tên nô tài bẩm báo, thậm chí quan còn coi như không có chuyện gì xảy ra, vẫn cố tình chơi tiếp với một thái độ hết sức điềm nhiên. Cả tác phẩm theo một nhịp tăng dần đều. Khi những người nông dân ngoài kia đang cùng nhau gắng sức chống lũ, thế nhưng đó đâu có phải là điều đơn giản.
Không có những vật chuyên dụng hay có sự giúp sức của quan phủ thì những cố gắng của biết bao nhiêu con người chỉ là những điều khó khăn, là lấy trứng mà chọi với đá mà thôi. Và điều gì tới đã tới. Theo nhịp tăng dần, mỗi khi nước dâng lên, đê yếu đi là mỗi lần quan được thắng một ván bài với độ ù tăng dần. Đáng lẽ khi những người dân cần tới quan phụ mẫu nhất thì người đó lại đang thờ ơ với nỗi khổ của mọi người.
Quan thậm chí còn đang hưởng thụ cuộc sống sung sướng “bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút. Quanh ngài đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp để chơi tổ tôm”. Hết ván bài này cho tới ván bài khác, quan chỉ biết ngồi rung đùi mà hưởng thụ.
Có nô tài khẽ bẩm “quan, dễ có khi đê vỡ”, nhưng hắn cũng đâu có mảy may suy nghĩ bất cứ điều gì. Hắn như bị say mê bởi những ván bài đen đỏ của mình cùng những kẻ xu nịnh mà thôi. Thế mới thấy hình ảnh của người quan phụ mẫu mới ích kỉ và vô trách nhiệm cho tới mức nào. Khi những âm thanh tang tóc và thảm thiết do đê vỡ gây nên, quan nhận được tin báo, hắn không những không xem xét gì mà còn thoái thác đi trách nhiệm của mình gây nên “ông sẽ cách cổ, bỏ tù chúng mày” rồi lại tiếp tục ván bài của mình mặc cho bao nhiêu những con người đang bị cuốn đi.
Để rồi, khi quan thắng được ván ù to nhất của mình cũng là lúc con dân đang bị những dòng nước lũ cuốn trôi đi hết hoa màu gia súc. Có nỗi khổ mà không thể kêu được với bất cứ người nào. Thậm chí những kẻ được học hành ở bên cạnh quan cũng không hề nhắn nhủ gì với ngài mà cũng chỉ ở bên cạnh hùa theo.
Hình ảnh của những người quan phụ mẫu như vậy chính là những con sâu mọt trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là những kẻ vô lương tâm và ích kỉ nhất. Đáng lẽ ra những người quan phải là những người biết yêu thương con dân của mình, chăm lo cho cuộc sống của con dân thì lại không hề có bất cứ một hành động gì thể hiện được điều đó. Với chúng, điều quan trọng chỉ là cách hưởng thụ cuộc sống sao cho tốt nhất mà thôi.
Điều đó khiến cho những người dân lao động thấp cổ bé họng đã phải chịu biết bao những điều khó nhọc và vất vả. Đáng lẽ họ được nhận sự quan tâm và chăm sóc từ những người quan phụ mẫu thì nay những người đó lại càng áp bức và bóc lột họ nhiều hơn ai hết để cuối cùng khi quan có được ván bài ù to nhất cũng là lúc người dân phải chịu cảnh mất mát và đau khổ nhất.
Qua tác phẩm Sống chết mặc bay cùng hình ảnh của người quan phụ mẫu, chúng ta mới thấy được hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến xưa cùng những khó khăn mà những người nông dân đã phải chịu đựng. Đồng thời cũng khiến cho người đọc càng thêm căm ghét những người đã khiến cho nhân dân rơi vào cảnh khó khăn như lúc này.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 1
Sống chết mặc bay truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn. Không chỉ thành công trong việc đổi mới lối viết, tác giả còn cho người đọc thấy chân dung của tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mất nhân tính – đại diện cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ.
Tên quan phụ mẫu là người được cử đi để hộ đê ở làng X, phủ X. Lúc bấy giờ mưa như trút nước, đê đã bị thẩm lậu nhiều đoạn và nguy cơ vỡ rất cao, nhân dân ai nấy đều lo lắng sợ hãi, kẻ cuốc người thuổng hết sức hộ đê. Những tưởng rằng kẻ đứng đầu, kẻ vẫn được coi là cha mẹ của nhân dân sẽ cùng mọi người hộ đê để vượt qua cơn nguy khốn này, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược.
Quan phụ mẫu ở một nơi cao ráo, sạch sẽ, dù đê có vỡ cũng không ảnh hưởng gì đến ngài. Khung cảnh nơi quan phụ mẫu ở thật ấm cúng, sạch sẽ “đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng” nơi đó quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Bên cạnh ngài với biết bao sơn hào, hải vị: bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía,… kẻ hầu người hạ túc trực kẻ gãi chân, kẻ phẩy quạt. Thật nhàn nhã và sung sướng biết bao.
Ngài nào đâu có biết ngoài kia dân phu đang khổ cực, khốn cùng đến mức nào. Chung quanh sập nơi ngài ngồi còn có thầy đề, đội nhất, thông nhì ngồi hầu ngài chơi tam cúc. Khung cảnh vô cùng trang nghiêm, tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng của quan phụ mẫu, những tiếng dạ vâng của kẻ hầu bài ngài. Cả một hệ thống quan lại hưởng lạc, ăn chơi trong khi người dân đang phải oằn mình chống lại thiên nhiên dữ tợn. Hai khung cảnh đối lập này càng làm rõ hơn bộ mặt độc ác của tên quan phụ mẫu.
Nhưng sự độc ác ấy còn được tác giả khắc họa thêm nữa, và tăng cao hơn nữa ở hai cuộc đối thoại của ngài với lính tráng và dân phu. Lần thứ nhất, khi quan đang “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc” thì ngoài ra xa có tiếng kêu váng lên khiến ai nấy đều giật nảy mình, riêng quan vẫn điềm nhiên vì ngài sắp ù to, có người bẩm: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ”, viên quan phụ mẫu buông một câu hết sức vô trách nhiệm: “Mặc kệ” rồi tiếp tục ván bài của mình.
Lần thứ hai, lần này bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của hắn của thể hiện rõ nét hơn. “Bẩm quan lớn … đê vỡ mất rồi”, bấy giờ ai cùng nôn nao sợ hãi, còn quan phủ quát tháo ầm ĩ: “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đấu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”.
Những tưởng ông ta sẽ sợ hãi mà ra xem tình hình ra sao, nhưng hắn lại tiếp tục ván bài của mình. Khi ván bài của hắn ù to cũng chính là lúc khắp mọi nơi nước ngập lênh láng, người sống không có chỗ ở, kẻ chết không có chỗ chôn, tình cảnh vô cùng thương tâm.
Bằng nghệ thuật tương phản tác giả đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của tên quan phụ mẫu. Hắn chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, bóc lột nhân dân, chứ tuyệt đối không quan tâm tới số phận, cuộc sống của họ. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, bộc lộ tính cách độc ác, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Với sự sắp xếp tình tiết hợp lí, ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhân vật, tác giả đã khắc họa thành công chân dung của tên quan phụ mẫu độc ác, mất nhân tính, hắn cũng chính là kẻ đại diện cho giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ. Đồng thời qua tác phẩm cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận của những người dân bất hạnh, nghèo khổ.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 5
Phạm Duy Tốn là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, tác phẩm thể hiện rõ tinh thần nhân đạo thông qua việc lên án thái độ vô trách nhiệm, vô nhân tính không màng đến sự sống chết đối với người nông của giai cấp quan lại trong xã hội cũ. Đọc tác phẩm, người đọc thấy bất bình và căm ghét vô cùng nhân vật tên quan phủ – bậc quan “phụ mẫu” của dân.
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thấm lâu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre” người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.
Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. “Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”, trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp”.
Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi” “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm.
Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến người đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kẻ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh ngộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn… phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính.
“Nước sông dẫu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quan gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Đến đây, không còn là sự bất bình mà là nỗi căm ghét, oán hận đã trào dâng. Tên quan phụ mẫu quá là kẻ táng tận lương tâm, lòng lang dạ sói. Hắn tưởng như không còn chút tình người và tính người trong huyết quản.
Xây dựng hình ảnh nhân vật tên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn muốn tố cáo lực lượng sai nha, chức sắc phong kiến với bản chất ích kỉ, tàn nhẫn đã không có chút trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Bỏ nhân dân trong cảnh “sống chết mặc bay” điêu linh, khốn khổ. Chính điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 7
“Nhân vật là trụ cột của truyện ngắn” (Tô Hoài). Qua nhân vật, nhà văn không chỉ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, thái độ yêu, ghét mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của mình.
Đến với truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, có thể nhận ra 1 trong những nhân vật chính, gửi gắm tư tưởng và tài năng của tác giả chính là hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê. Ngòi bút miêu tả chi tiết, sinh động, khéo léo của nhà văn đã dựng lên chân dung điển hình của tầng lớp quan lại phong kiến những năm đầu thế kỉ XX.
Hình ảnh quan phủ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà mở đầu tác phẩm lại là cảnh hàng trăm nghìn dân phu “chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối phó với sức mưa to nước lớn . để bảo vệ lấy tính mạng gia tàu”. Chính trong cảnh tượng trăm dân đang ở cảnh màn trời chiếu đất ấy thì quan phủ đang ở đâu? ống kính nghệ thuật của nhà văn quay cận cảnh “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người lạ, đi lại rộn ràng”.
Còn “quan phụ mẫu” của chúng ta thì “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê.
Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống pôi chạm, ngoáy tai, lí thuốc, quản bút, tăm bông…”.
Nếu nói đồ vật thể hiện con người- chủ nhân của nó- thì có thể nói, qua những đồ vật xung quanh quan phủ, tác giả muốn bày ra lối số: hoa, hưởng thụ của quan phủ. Và chắc chắn, quan phủ tỏ rõ vẻ thung dung, thích thú trong chốn giường êm nệm ấm, với đầy đủ thức vật sang trọng và kẻ hầu người hạ xung quanh chờ để phục vụ hắn. Trong khi ngoài kia mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít trong cảnh “nước sôi lửa bỏng” thì “trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm”. Cái “tĩnh mịch, nghiêm trang” của chốn quan phủ đang tiến hành một “sự vụ quan trọng” là chơi tổ tôm.
Không chỉ miêu tả khung cảnh để làm nổi bật địa vị và tính cách nhân vật, tác giả còn tập trung miêu tả ngôn ngữ của nhân vật quan phụ mẫu. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng. Khi thì là lời ra lệnh quyền uy: “Điếu, mày!”.
Khi thì là lời phán truyền, giục giã với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ:
“Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:
– Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? … Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
………….
Đuổi cổ nó ra!”.
Vì sao quan lớn lại nổi giận đến thế? Thì ra là vì người dân quê kia dám xông vào đình, không biết phép tắc gì cả. Hơn nữa là vì kẻ quê kia đã làm gián đoạn cuộc chơi của quan, trong khi quan đang chờ bài ù. Cái tội của kẻ kia thật lớn! Nếu để mà vỡ thì quan sẽ “cách cổ”, sẽ “bỏ từ” chúng. Cơn “nổi giận lôi đình” kia của quan phụ mẫu hẳn khiến bao kẻ kinh sợ!
Và lại càng kinh sợ hơn là cái thản nhiên, lạnh lùng đến sỗ sàng, trơ cứng của quan phủ khi ngài quay vào, hỏi thầy để lại: “Thấy bốc con gì thế?”. Cứ như quan không nghe đến tin báo khẩn cấp của lũ dân đen con đỏ kia. Dường như với ngài, “một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập!”, “ngài mà còn dở ván bài hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ”.
Đỉnh cao kịch tính của truyện là ở chi tiết kết truyện, khắc họa hình ảnh quan phủ khi bài của quan ù to:
“Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
– Đây rồi! … Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:
– Ừ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”
Và “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…”. Quả là một nghịch cảnh vừa đau thương, vừa đáng căm giận!
Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”. Là “cha mẹ dân” nhưng quan phủ lại coi tính mạng và tài sản của muôn dân không bằng một lá bài của hắn.
Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính xung đột, nguy cấp, đầy kịch tính để cho nhân vật tự bộc lộ thái độ và cách hành xử, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cây bút trần thuật sắc sảo, chín chắn, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật văn chương hiện đại phương Tây thế kỉ XX.
Hơn hết, qua những nét khắc họa chân dung nhân vật quan phủ, nhà văn đã thể hiện thái độ căm giận, lên án gay gắt quan phủ, hay cũng chính là điển hình cho một bộ phận quan lại phong kiến nửa đầu thế kỉ XX, vừa vô trách nhiệm, vừa bất nhân, sẵn sàng chà đạp lên muôn dân lầm than để hưởng thụ cuộc sống xa hoa ích kỉ. Cái tựa đề “Sống chết mặc bay” của tác phẩm cũng chính là lời nói, là thái độ của quan phụ mẫu đối với người dân khốn cùng trong cảnh thiên tai địch họa, nước mất nhà tan.
Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn được ghi nhận là 1 trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc ở những năm hai mươi của thế kỉ XX, là người đặt nền móng vững chắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng…
Và có thể nhìn thấy hình ảnh quan phủ trong truyện ngắn này trong những nhân vật quan lại phong kiến trong văn học hiện thực giai đoạn sau, trong những Bá Kiến, Nghị Hách, Nghị đại, huyện Hinh… Tác phẩm quả thực có giá trị hiện thực và tính nhân đạo sâu bền.
Bài văn phân tích viên quan phụ mẫu trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 6
Trước cách mạng Tháng Tám, cuộc sống của con người luôn rơi vào cảnh khốn khổ, lầm than. Thật vậy, đứng trước cảnh tượng ấy đã có biết bao nhà thơ, nhà văn không kìm nổi sự phẫn nộ, niềm cảm thương cho những kiếp người nhỏ bé. Chúng ta biết đến sự khốn cùng bóc lột qua tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và sự tha hóa, biến chất của một con người từ anh nông dân lương thiện thành con quỷ dữ bị xã hội loài người chối bỏ qua tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Nhưng đó chưa phải là tất cả, và đỉnh cao của sự khốn nạn đầy thối rữa của xã hội cũ được thể hiện sắc sảo bằng hình ảnh viên quan phụ mẫu qua truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn.
Chắc hẳn chỉ cần đọc qua nhan đề của truyện thôi chúng ta cũng có thể hình dung ra được phần nào nội dung câu chuyện. Thân làm quan, là người được ăn trên ngồi chốc, là người sống bằng thuế máu của dân đáng lẽ ra phải chăm lo cho đời sống nhân dân, nhưng sau cùng thì dân có thân dân tự lo, quan giàu sang quan hưởng thụ. Và đó cũng là bộ mặt thối tha vô nhân tính của xã hội lúc bấy giờ.
Câu chuyện được bắt đầu với những chi tiết đáng lo ngại về tình trạng của một con đê. Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng…thuộc phủ… xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thầm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất. Đứng trước tình cảnh nguy thế này hàng trăm con người cố gắng, dốc hết sức mình, người cầm thuổng, kẻ cầm cuốc, đội đất, vác tre, lặn lội bì bõm dưới bãi bùn lầy ướt như chuột lột để cứu vớt con đê đang trên mức báo động.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng sức người nào có địch được với sức trời. Mặc người người kiệt sức, mệt lả đi, mặc cho không gian đang hỗn độn bởi tiếng tiếng trống, tiếng ốc thổi liên hồi nhưng thiên nhiên hung dữ vẫn tiếp tục công việc của nó, mưa vẫn trút xuống tầm tã, mực nước dưới sông nhanh chóng dâng lên khiến tình thế nguy càng thêm nguy. Nếu cứ như thế này thì con đê rơi vào tình huống nguy kịch mất, mạng sống của hàng trăm nghìn con người nhỏ bé sẽ bị chôn vùi trong nước lũ.
Những lúc như thế này thật sự cần một người lãnh đạo, cần một nguồn lực to lớn để bảo vệ con đê, duy trì sinh tồn của con người, thế nhưng ngoài những con người chân lắm tay bùn nghèo khổ đang vật vã chống chọi để tìm đường sống thì không có một ai hỗ trợ hay giúp đỡ. Gần con đê, cách đó khoảng bốn năm trăm thước có một ngôi đình, nó cũng nằm trên mặt đê nhưng cao và vững chãi, nếu con đê chẳng may có vỡ thì cũng chẳng hề tổn hại một một chút nào gì đến. Và nơi cao ráo, an toàn đó là chỗ mà quan phụ mẫu, người được là cha mẹ dân đang an nhàn hưởng thụ cuộc sống phú quý của mình.
Thời xưa làm quan lớn là được ăn trên ngồi chốc, được sống mà an nhàn chẳng cần phải suy nghĩ. Đúng vậy, mặc kệ thiên hệ, mặc kệ nhân dân người vật vã, kẻ giãy dụa quằn quại thì đó cũng chẳng là việc của quan, nhiêu đó chẳng đủ để thu hút sự chú ý của những kẻ lãnh huyết, vô tình. Đọc xong chúng ta tràn ngập nỗi bất bình, có phẫn uất có khinh bỉ.
Mọi bất bình đều hướng về phía tên quan phụ mẫu. Đó là một kẻ vô trách nhiệm, một tên tay sai nghiện cờ bạc, đắm chìm trong thói xa hoa phung phí. Nhưng nếu chỉ ở điểm này thì hắn không khác gì tầng lớp quan lại hay bọn nhà giàu quý tộc lúc bấy giờ, khốn nạn hơn cả là hắn lại là kẻ ngồi trên đệm êm, kẻ bưng nước, người hầu hạ xung quanh đầy thư thái trong khi cả dân làng đang vật vã đấu tranh với con đê để bảo vệ mùa màng, bảo vệ tính mạng.
Trách nhiệm của hắn là gì, hắn được chỉ thị xuống vùng này để làm gì có lẽ hắn đã quên vì giờ đây trong đầu hắn chỉ toàn khói thuốc men say cùng với bao tiền bạc mà hắn sẽ thắng được trong trò chơi cờ bạc ấy.
Hình ảnh viên quan phụ mẫu bây giờ trở thành kẻ ác phụ, vô tâm thấy con dân mình, người mà mình đang bóc lột để ăn trên ngồi chốc, họ cũng là đồng bào, là nhân dân với mình mà bây giờ khi được trở mình làm quan lớn hắn lại quên ngay tình nghĩa ngày nào.
Hắn được cử xuống để giúp dân mà chỉ như bù nhìn, hắn như kẻ bạo chúa đang thi hành mệnh lệnh bất kể xung quanh có ra sao thì nhân dân bên dưới chỉ như nô lệ và việc lao động vất vả vốn là nghĩa vụ mà họ phải làm, hắn dửng dưng vô tâm chẳng có chút thương xót hay quan tâm nào cả.
Mỗi giây mỗi phút trôi qua người dân phải vật lộn với thiên nhiên, tình huống éo le như ngàn cân treo sợi tóc vậy mà bao khổ cực ấy chẳng đáng để bận tâm bằng sự gay cấn của ván bài mà hắn đang đánh dở. Giá như hắn có thể tận tâm, tận lực với việc của dân chúng bằng 1 phần nào đó mà hắn ham vui cờ bạc thì tốt biết mấy. Hắn bỏ sức vào cờ bạc và đó là một sự tập trung cao độ, một sự cố gắng rất lớn để thắng được ván bài.
Thật vậy, lúc con đê đang lâm vào nguy kịch tột bậc và có người đoán “dễ có khi đê vỡ” thì hắn lại thản nhiên “mặc kệ”. Đỉnh điểm của kẻ khốn nạn là khi có người hốt hoảng chạy vào bẩm báo chuyện đê vỡ thì hắn lại quát tháo đầy tức giận “Đê vỡ rồi, thời ông cắt cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!…”. Hắn tức giận vốn chẳng phải vì chuyện đê bị vỡ mà là chuyện tên tay sai chạy vào phá ván bài đang trong thế thắng của hắn, hắn đổ tất cả trách nhiệm lên những người đang cố gắng để cứu vớt con đập, hắn vô tâm đến đáng hận.
Cao trào của sự châm biếm mà tác giả đặt vào tác phẩm là khi con đê bị vỡ, nước lênh láng ngập khắp ruộng đồng, nhà cửa thì viên quan “đáng kính” lại được ván bài ù, hắn reo lên vui sướng, bao nhiêu tiền của cuối cùng cũng về được với tay hắn. Niềm vui của hắn lộ rõ trên cái khuôn mặt đáng khinh của hắn, hắn đã sống chà đạp lên biết bao nhiêu sinh mạng, bao nhiêu người đã phải gồng mình để kiếm sống rồi đóng thuế máu để cho hắn ăn chơi sa đọa. Và hắn là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp thống trị ác bá vô nhân đạo trong xã hội lúc bấy giờ.
Đây là mặt thối nát của xã hội mà ai cũng biết đến, ai cũng muốn đấu tranh để xóa bỏ, nhiều người đứng lên đấu tranh nhằm chống lại chế độ thối nát ấy nhưng vừa kịp vùng dậy đã bị chúng đàn áp thảm thương, chúng dẹp đi ý định nổi dậy của dân từ trong suy nghĩ, đã có nhiều sự hi sinh đáng tiếc, nhưng sau cùng không có gì là vô ích. Cuối cùng con người cũng được Đảng thắp lên ánh sáng soi lối chỉ đường để đấu tranh giành lại tự do vốn có của con người mà đáng ra họ phải được hưởng.
Trong tác phẩm “Sống chết mặc bay” tác giả Phạm duy Tốn đã khéo léo sử dụng biện pháp tương phản để bộc lộ bản chất thật sự của giai cấp quan lại lúc bấy giờ, chúng là những kẻ vô nhân đạo, coi thường mạng sống dân, ham mê cờ bạc. Và đó cũng là mặt tối của xã hội lúc bấy giờ, những người thấp cổ bé họng thì luôn sống trong nghèo khổ, chịu cảnh áp bức và không có quyền con người.
Còn những kẻ giàu có quyền thế thì được làm chủ xã hội, chúng tự tạo ra luật của mình và bắt người khác phải tuân theo, vô nhân tính trong chúng đã khiến chúng thui chột đi tính người, chúng chỉ là những con quỷ hút máu không hơn không kém. Nhưng rồi đau thương nào cũng sẽ đến hồi kết và một thời đại tươi đẹp hơn sẽ đến với con người, sẽ không còn đau thương, mất mát, không còn bị vùi dập kiệt quệ đến tột cùng khổ đau, cuộc sống sẽ bớt lầm than và khổ cực.
Khép lại tác phẩm ta như vẫn còn nghe được tiếng la hét, tiếng kêu thảm thiết của những người dân nghèo khổ, họ là những con người nhỏ bé đầy đáng thương và bị chà đạp dã man bởi giai cấp thống trị. Nhưng đau thương này rồi sẽ đến hồi kết, thật vậy con người đã sát cánh cùng nhau đứng lên chống lại bọn cầm quyền vô tâm, hách dịch khi được ánh sáng của Đảng soi đường chỉ lối.
Cuộc sống sẽ trở về với đúng nghĩa của nó, xã hội sẽ không còn phân biệt giàu sang, không còn kẻ nào vui cười trên nỗi buồn của người khác nữa. Đó mới chính là xã hội, một thế giới đáng sống.
Có thể bạn thích: