Bài thơ “Lượm” được Tố Hữu sáng tác năm 1949, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm bằng thể thơ bốn chữ giàu âm điệu. Người liên lạc nhỏ đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích “Lượm” của Tố Hữu để cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm này.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 7
Đi lên từ bom đạn chiến tranh Việt Nam Tổ quốc chúng ta cho đến ngày hôm nay đã hoàn toàn được hưởng nền độc lập, nhân dân ta được sống trong khung cảnh hòa bình của chế độ xã hội chủ nghĩa công bằng. Và những điều tốt đẹp ngày hôm nay chúng ta được hưởng chính là nhờ máu xương của hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ anh hùng không tiếc hi sinh bản thân để tranh đấu, và chú bé Lượm chính là 1 trong những tấm gương anh hùng mà em rất ngưỡng mộ.
Theo lời tác giả, ông gặp Lượm tại thủ đô Hà Nội, hình ảnh cậu bé nhỏ nhắn hiện lên thật sinh động qua những dòng thơ ngắn gọn, súc tích:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Lượm cũng giống bao bao đứa trẻ khác, lại có nét gì đó rất giản dị, chân quê, thân hình nhỏ bé “loắt choắt”, cái “xắc” đựng vài cuốn sách, vở đeo chéo một bên người, trông thật nhí nhảnh, càng tăng thêm vẻ hoạt bát phù hợp với lứa tuổi. Tố Hữu thấy chân cậu “thoăn thoắt” lại thấy cái đầu cậu “nghênh nghênh”, tất cả đều nói lên một sự nhanh nhẹn hiếm có của một cậu bé đang tuổi ăn tuổi lớn, ở cậu hiện lên tất cả sự hồn nhiên, yêu đời tinh thần lạc quan, mà khi nhìn vào người ta bỗng cảm thấy vui vẻ theo.
“Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường làng”
Ở khổ thơ tiếp sự tươi tắn, hồn nhiên ấy lại tiếp tục được thể hiện bằng tiếng “huýt sáo” vang vọng cả con đường làng, cái chân vốn nhanh nhẹn tung tăng nhảy chân sáo trên con đường làng thân thuộc, hình ảnh dễ thương ấy khiến Tố Hữu liên tưởng đến hình ảnh của một “con chim chích” tuy nhỏ bé nhưng lại rất đáng yêu và nhanh nhẹn. Từ những chi tiết về ngoại hình có thể thấy Lượm là một cậu bé rất vô tư, trong sáng, mộc mạc như những đứa trẻ đồng trang lứa.
Nhưng ai có thể nghĩ rằng trong thân hình bé bỏng, những tưởng vô lo vô nghĩ ấy lại là một tâm hồn ẩn chứa tình yêu quê hương, đất nước tha thiết. Lượm chưa lớn, Lượm vẫn chưa thể cầm súng giết giặc vậy thì cậu làm liên lạc, một công việc tưởng đối chọi giản nhưng lại vô cùng quan trọng và cần sự thông minh nhạy bén mà không phải ai cũng đủ dũng cảm để làm.
Lượm nói với Tố Hữu “Cháu làm liên lạc/Vui lắm chú à/Thích hơn ở nhà”, chứng minh cho tinh thần xung kích, lòng dũng cảm, không muốn làm một đứa trẻ chỉ quanh quẩn nơi xó nhà. Cậu tuy tuổi nhỏ nhưng lại mang trong mình một tâm hồn lớn, một trái tim lớn, nhận thức sâu sắc về sự nghiệp cách mạng của dân tộc mà tiền đề ấy là lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc.
Lượm tuy làm một công việc nguy hiểm và trọng yếu như thế nhưng cậu vẫn luôn tràn đầy lòng tự tin, nhiệt huyết ấy bừng sáng trên đôi má “đỏ bồ quân”, trong đôi mắt hồn nhiên với nụ cười “híp mí”, thật khiến người ta tự hào và vui mừng theo. Hình ảnh Lượm đi xa dần mang lại một niềm yêu thương, nỗi lòng dõi theo của Tố Hữu, cũng là niềm hy vọng về một Việt Nam độc lập ngày không xa.
Lượm là 1 trong những nhân vật anh hùng mà em rất yêu mến và ngưỡng mộ, bởi tinh thần dũng cảm và lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc, ý thức giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây xứng đáng là tấm gương sáng để lớp lớp các thế hệ trẻ em Việt Nam học tập và noi theo, xứng với niềm mong mỏi của gia đình và xã hội.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 5
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, toàn thể nhân dân Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết đấu tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Trong không khí đấu tranh sục sôi ấy, mọi tầng lớp nhân dân từ đàn ông, đàn bà, ngay cả những đứa trẻ chỉ mới mười bốn, mười lăm tuổi cũng tham gia vào công tác cách mạng. Hình ảnh của những chú bé liên lạc được nhà thơ Tố Hữu tái hiện 1 cách sống động trong bài thơ Lượm.
Bài thơ Lượm được tác giả Tố Hữu sáng tác năm 1949, đây là thời điểm mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay cấn, khốc liệt. Hình ảnh của những chú bé liên lạc đã gây xúc động mạnh mẽ đối với nhà thơ, và đây cũng chính là nguồn cảm hứng để Tố Hữu sáng tác bài thơ Lượm:
“Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau hàng bè”
Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh gặp gỡ của mình với chú bé liên lạc. Đó là ngày Huế bị Pháp tấn công gây ra những thiệt hại nặng nề, Tố Hữu đã về lại Hà Nội để làm công tác kháng chiến, và ở đây nhà thơ đã gặp chú bé liên lạc,địa điểm của cuộc gặp gỡ cũng được nhà thơ nêu cụ thể, đó chính là Hàng Bè. Ở những câu thơ tiếp theo, Tố Hữu đã miêu tả hình ảnh của chú bé liên lạc, đó là hình ảnh cậu bé hồn nhiên, nhanh nhẹn:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Ấn tượng đầu tiên của nhà thơ về cậu bé liên lạc, đó chính là cậu bé chừng mười bốn,mười lăm tuổi, có dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn “Chú bé loắt choắt”, sự nhanh nhẹn còn thể hiện trong hành động của đôi chân, lúc nào cũng thoăn thoắt, cái đầu nghênh nghênh. Ở độ tuổi của mình, chú bé toát lên vẻ ngây thơ, hồn nhiên, nghịch ngợm, thể hiện trong chiếc ca lô đội lệch, miệng hút sáo. Và trong cảm nhận của nhà thơ, cậu bé như một con chim nhỏ nhảy trên những cánh đồng vàng:
“Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng”
Không chỉ vậy, trong cuộc nói chuyện với tác giả, cậu bé còn nói về công việc liên lạc hết sức quan trọng mà cũng không kém phần hiểm nguy của mình. Tuy nhiên ở cậu bé lại toát lên sự hồn nhiên, lạc quan. Đưa tin liên lạc vô cùng nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có thể bị giặc bắt, cũng có thể bị trúng đạn. Nhưng cậu bé lại thấy công việc của mình rất vui. Đồn Mang Cá là cứ điểm của quân giặc, một nơi nguy hiểm và đầy bạo tàn nhưng trong cái nhìn của cậu bé thì lại vui hơn ở nhà :
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà”
Chú bé cảm thấy vui với công việc của mình, cũng không sợ những hiểm nguy mà công việc mang lại, đây không phải vì cậu bé quá hồn nhiên, không biết công việc của mình nguy hiểm như nào mà bởi tinh thần dũng cảm, kiên cường hơn người của người đội viên nhí. Ở cậu bé còn có vẻ hóm hỉnh, hài hước, trước khi đi làm nhiệm vụ, cậu bé đã chào tác giả và gọi đồng chí đầy đáng yêu, hài hước:
“Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi, chào đồng chí
Cháu đi xa dần”
Tính chất công việc hiểm nguy, trong một lần đưa tin khẩn của Cách mạng, Lượm đã bị viên đạn vô tình, tàn nhẫn của quân giặc làm nhuộm đỏ chiếc áo em mặc. Tác giả Tố Hữu đã thể hiện sự bàng hoàng xen lẫn sự đau đớn tột độ trước sự ra đi của cậu bé Lượm.
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi! Lượm ơi
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi”
Bài thơ Lượm của Tố Hữu đã làm sáng lên hình ảnh của người anh hùng nhí tên Lượm, đó là một cậu bé liên lạc tuổi đời còn rất nhỏ nhưng tinh thần kiên cường, dũng cảm của em lại không thua kém một người lính cách mạng nào. Hình ảnh của em luôn hiện lên sự hồn nhiên, ngây thơ lạc quan yêu đời song cũng không kém phần xót xa, đau đớn.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 6
Thơ hay vì trong thơ có họa, có nhạc. Lượm của Tố Hữu là một bài thơ như thế trong đó phần đầu bài thơ có lẽ đặc sắc hơn cả vì đã tạo nên bức chân dung chân thật, sinh động của một em bé liên lạc thời đánh Pháp với dáng người bé nhỏ, nhưng nhanh nhẹn, tinh nghịch mà yêu đời, tuổi nhỏ mà chí cao, rất đáng yêu đáng mến.
Đọc đoạn thơ, ta tưởng như đang được ngắm nhìn bức chân dung người chiến sĩ nhỏ hơn nửa thế kỉ trước:
Ngày Huế đổ máu
… Cháu bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
… Cháu đi xa dần…
Khổ thơ đầu nhắc lại một kỉ niệm khó quên lần gặp gỡ cuối cùng của nhà thơ với chú đội viên liên lạc, giữa hai chú cháu trên thành phố Huế thân thương. Đó là những ngày Huế đổ máu, năm 1946, giặc đánh chiếm cố đô Huế, quê mẹ nhà thơ:
Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về,
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.
Đoạn thơ nhắc lại, gợi lại một con người, nơi phố cũ thành xưa, thời gian đã qua nay đã trở thành kỉ niệm, hoài niệm. Sau câu chữ, vần thơ là cảm xúc, là nỗi nhớ thương lắng đọng, rung động nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn.
Tám câu thơ tiếp theo là những nét vẽ đầy ấn tượng về Lượm, chú đội viên liên lạc. Thân hình quá nhỏ bé, gầy gò loắt choắt. Trang phục người lính là cái xắc xinh xinh. Chú rất nhanh nhẹn, hiếu động, đáng yêu. Đôi chân thì thoăn thoắt. Cái đầu thì nghênh nghênh.
Các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh có giá trị gợi tả đặc sắc, làm hiện lên hình ảnh chú đội viên rất nhỏ bé, nhưng nhanh nhẹn, hồn nhiên, thật đáng yêu. Các từ láy đặt cuối câu thơ, liên kết thành hai cặp vần cách (1 với 3, 2 với 4) tạo nên nhạc điệu, âm điệu, đọc lên nghe rất thú vị:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Chữ cái được điệp lại 3 lần qua 3 nét vẽ: cái xắc, cái chân, cái đầu đã làm cho nét vẽ sắc và khoẻ, giọng thơ trở nên hóm hỉnh, yêu thương. Lượm ngây thơ và hồn nhiên, tinh nghịch và yêu đời. Dáng điệu và cử chỉ của chú thật đáng yêu biết bao: Ca lô đội lệch – mồm huýt sáo sang. Lượm khác nào con chim non cất tiếng hót rộn ràng, tung bay trong nắng mới, nhảy nhót trên đường vàng. Một so sánh thật đắt:
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
Con đường vàng một hình ảnh sáng giá tượng trưng cho con đường đầy nắng đẹp đi tới tương lai mà cách mạng đã đem đến cho thiếu nhi Việt Nam. Qua ngôn ngữ giàu hình tượng và biểu cảm, Tố Hữu dành cho chú đội viên nhiều trìu mến, trân trọng và yêu thương.
Những dòng thơ cuối đoạn, giọng điệu thơ thay đổi. Từ kể và miêu tả, Tố Hữu chuyển thành đối thoại. Cháu nói với chú niềm vinh dự lớn lao mà cháu được tham dự. Quê hương bị giặc chiếm đóng tàn phá, Lượm vui sướng được trở thành người chiến sĩ nhỏ cùng cha anh đánh giặc. Các từ ngữ như: Vui lắm, thích hơn đã biểu lộ 1 cách hồn nhiên tinh thần yêu nước và nhiệt tình kháng chiến của Lượm:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!
Quân đội đã trở thành đại gia đình của chú. Cuộc đời người đội viên liên lạc khác nào một cánh chim tung bay trong bão tố? Sao chẳng vui, chẳng thích, chẳng tự hào? Lượm là 1 trong những hình ảnh tuyệt đẹp của tuổi nhỏ chí cao:
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ
Tuỳ theo sức của mình
Đi tham gia kháng chiến
Để gìn giữ hòa bình.
(Thư trung thu – Hồ Chí Minh)
Nụ cười híp mí, và Má đỏ bồ quân là hai nét vẽ làm cho bức chân dung chú liên lạc thêm sinh động. Một tâm hồn trẻ trung, phơi phới hồn nhiên. Chú liên lạc đi xa dần sau một tiếng chào “đồng chí” nhiều thân thương:
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…
Câu thơ Cháu đi xa dần như một dự báo: phút giã biệt ở phố Hàng Bè Ngày Huế đổ máu cũng là phút vĩnh biệt. Người chú chẳng bao giờ gặp lại người cháu thân thương ấy nữa!.
Đoạn thơ trên đây cũng như bài thơ Lượm là một thành công đặc sắc của Tố Hữu viết về gương anh hùng của thiếu nhi Việt Nam trong thời kháng chiến. Một dáng hình dễ mến, một tâm hồn trong sáng, phơi phới yêu đời thật đáng yêu. Với chú liên lạc, lòng yêu nước, nhiệt tình kháng chiến đã trở thành lý tưởng chiến đấu say mê!
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ bốn chữ trong sáng, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh như một khúc đồng dao. Các từ láy tượng hình là những nét vẽ tinh tế nhất, biểu cảm nhất về chân dung người chiến sĩ nhỏ, một liệt sĩ anh hùng, được thể hiện trong thơ ca kháng chiến. Bài thơ Lượm là một tượng đài chiến sĩ thiếu nhi anh hùng.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 2
Tố Hữu đã xây dựng hình ảnh nhân vật Lượm thật đẹp. Đó là một chàng thiếu niên, hồn nhiên vô tư, nhưng vô cùng dũng cảm trước bom đạn của kẻ thù. Vì lí tưởng chiến đấu để bảo vệ đất nước, Lượm đã vượt qua hết những làn bom, bão đạn để góp sức của mình cho công cuộc cứu nước của toàn dân.
Hình tượng nhân vật Lượm, xuất hiện khiến người đọc hình dung như một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói.
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Qua miêu tả của tác giả, ta nhận thấy nét hồn nhiên vui tươi trong con người của Lượm, đúng với độ tuổi của em. Nhưng điều bất bình thường ở đây là, em còn bé nhưng đã làm công việc phi thường mà những người lớn chưa chắc đã làm được. Lượm đã coi việc đi liên lạc nguy hiểm khó khăn kí như một chuyến đi chơi, thật vui và thích thú.
“- Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!”
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước “con của vạn nhà” chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Lời thơ không phân tích lí giải mà đối chọi giản chỉ là sự giãi bày của Lượm, cách dẫn dắt như vậy cũng chính là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn mà biểu hiện cái háo hức bên trong không giấu được của mình”
“Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
– Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…”
Lượm đã dùng từ đồng chí để nói với người đáng tuổi chú mình, vừa có ý nghĩa chứng tỏ Lượm cũng đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ cách mạng, và người đồng chí kia chỉ là bạn trong chiến đấu của mình, hai từ đồng chí nghe mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ.
Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.
Sự hồn nhiên nhí nhảnh, lòng dũng cảm kiên cường của em cũng không tránh khỏi bom đạn của kẻ thù. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở thành một tượng đài bất tử.
Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: “Ra thế – Lượm ơi!”. Một câu thơ tưởng như đối chọi giản vật thôi mà hội tủ đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nổi, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nổi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm.
Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. “Ra thế” thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn “Lượm ơi!” là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở?. “Ra thế” thuộc về khách quan, còn “Lượm ơi!” thuộc thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh “tin nhà” kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thế hình dung:
“Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao…”
Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm… bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “Thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo”.
Biết trước sự ra đi lúc này là rất nguy hiểm, nhưng Lượm vẫn vô tư, hiên ngang bất khuất trước bom đạn của kẻ thù. Lượm đã đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
“Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng.
Chính chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự tỏa ra theo 1 cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, tàn ác mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh của nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây.
Bởi vậy. khi cái chết ập đến. câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: “Thôi rồi! Lượm ơi!” chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê, nửa tỉnh.
Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng thực sự đau xót “Một dòng máu tươi” lại không thể không tin. Chí có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thơ thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặt biệt: “Lượm ơi, còn không”. Đó là lời gọi, lòng tiếc thương và khâm phục trước sự hi sinh của Lượm, Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn còn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ thơ kết lặp lại hai khổ thơ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỉ tuổi bằng thể thơ bốn chứ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đối chọi điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai ) với độc thoại (đoạn ba).
Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như “Ra thế – lượm ơi!” hoặc “Lượm ơi, còn không?” là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình.
Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời. Về với nó như cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng…”
Hình ảnh Lượm trong thơ Tố Hữu thật đáng tự hào. Lượm đã cho kẻ thù thấy được trong cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc, toàn thể dân tộc ta đều đứng lên chiến đấu, những người nhỏ tuổi cũng có thể góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thật đáng tự hào biết bao với những người con dũng cảm ấy. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong một xã hội hòa bình, xã hội mà cha ông ta đã đánh đổi bằng xương máu để có được chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với công lao đó.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 1
Nhà thơ Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông thường tập trung miêu tả quần chúng lao khổ thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi. Và trong tập thể quần chúng ấy có không ít bài thơ là hình ảnh về các em bé hồn nhiên, trong sáng mà anh dũng kiên cường, Lượm là 1 trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ là một câu chuyện ngắn về chú bé mang tên Lượm. Lượm làm công việc đưa thư, em là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng vô cùng dũng cảm, kiên cường. Trong một lần chuyển thư Lượm đã anh dũng hi sinh. Lượm là một hình ảnh đẹp để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
Tác phẩm mở ra bằng cuộc gặp gỡ thật tình cờ giữa người chiến sĩ và chú bé liên lạc: “Tình cờ chú cháu/ Gặp nhau Hàng Bè” . Hình ảnh Lượm qua mắt người chiến sĩ hiện lên thật hồn nhiên, yêu đời từ ngoại hình cho đến cử chỉ dáng điệu. Để miêu tả ngoại hình của chú tác giả đã sử dụng một loạt các từ láy giàu giá trị tạo hình: loắt choắt, chân thoăn thoắt, đầu nghênh nghênh, cùng đôi má đỏ bồ quân ửng hồng, cái mắt híp lại sau nụ cười rạng rỡ, tươi vui.
Trang phục của chú bé cũng hết sức đối chọi giản chỉ là “cái xắc xinh xinh” chuyên để đựng những văn kiện, giấy tờ quan trọng và chiếc “ca lô đội lệch” đầy tinh nghịch. Sự đáng yêu của em còn được thể hiện qua hình ảnh so sánh đẹp đẽ “Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng” , có lẽ không còn hình ảnh nào phù hợp hơn hình ảnh những chú chim chích bé nhỏ để ví von với chú bé Lượm hồn nhiên, yêu đời.
Một hình ảnh so sánh vừa chính xác, tinh tế nhưng đồng thời còn thể hiện được tình cảm yêu mến của tác giả đối em. Để nhấn mạnh hơn nữa vào nét ngây thơ của em, tác giả còn dẫn trực tiếp lời nói hết sức chân thật, đáng yêu: “Cháu đi liên lạc/ Vui lắm chú à/ Ở đồn Mang Cá/ Thích hơn ở nhà” .
Niềm vui, sự hân hoan của Lượm chính là niềm vui khi được hoạt động cách mạng, khi được cống hiến cho đất nước, đây cũng là niềm vui chung của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuộc gặp gỡ diễn ra hết sức ngắn ngủi, nhưng cho đã phần nào cho người đọc thấy những nét tính cách tốt đẹp của Lượm: vừa tinh nghịch, hồn nhiên nhưng cũng hết sức nhiệt huyết với cách mạng.
Giây phút hồi tưởng bỗng chùng xuống, khi nghe tin cháu đã hi sinh trên đường đi làm nhiệm vụ: Đến ngày tháng sáu/ Chợt nghe tin nhà. Câu thơ là nỗi niềm nghẹn ngào, bàng hoàng, chẳng thể nói nên lời của tác giả: Ra thế / Lượm ơi!…
Hình thức câu thơ vô cùng đặc biệt, được ngắt làm đôi, như tiếng nấc nghẹn của tác giả trước tin Lượm đã hi sinh khi trên đường đi làm nhiệm vụ.
Đồng thời câu thơ còn thể hiện sự bàng hoàng, không tin rằng Lượm hi sinh là sự thật. Sau phút nghẹn ngào, tác giả nói về quá trình làm việc và sự hi sinh anh dũng của chú bé. Hình ảnh của Lượm được khắc họa là một chú bé gan góc, kiên cường dũng cảm. Chú bé làm nhiệm vụ đưa thư, phải di chuyển qua những nơi vô cùng nguy hiểm và phải đối mặt với thần chết bất cứ lúc nào: “Vụt qua mặt trận/ Đạn bay vèo vèo/ Thư đề thượng khẩn/ Sợ chi hiểm nghèo?”.
Mặc dù luôn ý thức được sự nguy hiểm rình rập khi “đạn bay vèo vèo” xung quanh nhưng chú bé không hề sợ hãi vẫn “vụt qua mặt trận” bằng tinh thần dũng cảm, đầy trách nhiệm. Chú bé không bao giờ lùi bước trước những khó khăn, nguy hiểm.
Nỗi đau đớn càng được nhân lên 2 lần khi tác giả tái hiện chân thực sự hi sinh của người đồng chí nhỏ: Bỗng lòe chớp đỏ/ Thôi rồi Lượm ơi!/ Chú đồng chí nhỏ/ Một dòng máu tươi!”. Trong một khổ thơ bốn câu tác giả đã sử dụng liên tiếp hai câu cảm thản, cho thấy sự ngỡ ngàng, đau đớn đến tột cùng khi Lượm đã hi sinh, câu thơ vang lên thật đau xót biết nhường nào: “Thôi rồi, Lượm ơi!”.
Làm sao có thể tin nổi, đứa bé hồn nhiên, tinh nghịch, người đồng chí giàu lòng dũng cảm và trách nhiệm ấy lại hi sinh khi còn quá nhỏ. Tác giả không tin rằng đó là sự thật, câu thơ buông xuống thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng. Lượm hi sinh, trở về với đất mẹ, tay em vẫn nắm chặt bông, phảng phất xung quanh là hương lúa, hương của đất mẹ, tuy em đã chết nhưng linh hồn, tinh thần yêu nước của em vẫn còn sống mãi với mọi người, với quê hương đất nước.
Hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ không buồn thảm, bi ai mà thay vào đó là hình ảnh em bé với sự hồn nhiên, tinh nghịch được tái hiện lại một lần nữa. Dù em có hi sinh nhưng tinh thần anh dũng, sự hồn nhiên đáng yêu của em sẽ mãi được mọi người nhớ đến, em sẽ sống mãi với non sông, đất nước.
Tác phẩm sử dụng thể thơ bốn chữ, dùng linh hoạt các từ láy giàu giá trị tạo hình, giàu tính nhạc, ngôn ngữ miêu tả phù hợp tính cách, ngoại hình của nhân vật. Không chỉ vậy sử dụng những hình thức câu thơ đặc biệt đã giúp tác giả biểu lộ 1 cách chân thật những cung bậc cảm xúc khác nhau trước nhân vật trữ tình.
Ngoài ra cũng cần đặc biệt lưu ý đến việc tác giả thay đổi cách xưng hô với nhân vật trữ tình trong các khổ thơ: chú bé, cháu, Lượm, chú đồng chí nhỏ bởi quan hệ giữa họ vừa là quan hệ chú cháu, vừa là một người đồng chí. Sau cái chết của Lượm, tác giả đã gọi là “chú bé” bởi lúc này Lượm và tác giả không chỉ nằm trong mối quan hệ riêng giữa hai người, mà Lượm đã trở thành người cháu chung của nhân dân Việt Nam, một người trẻ dũng cảm.
Sự thay đổi linh hoạt các đại từ xưng hô như vậy khiến Tố Hữu thể hiện được đa dạng các cung bậc cảm xúc. Tất cả những yếu tố trên cùng với nội dung đã tạo nên thành công cho tác phẩm.
Với sự kết hợp hài hòa về nhịp điệu, ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, Tố Hữu đã xây dựng thành công chân dung của chú bé Lượm hồn nhiên, nhí nhảnh mà vô cùng kiên cường, anh dũng. Qua đó tác giả thể hiện niềm yêu quý, cũng như sự xót xa trước sự hi sinh của Lượm.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng có lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như sau: “Bất kỳ đàn ông, đà bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.”
Thực hiện lời kêu gọi của Bác, bao lớp thanh niên đã xung phong lên đường chiến đấu cứu nước, bảo vệ quê hương. Em bé trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu cũng vậy, dũng cảm xông pha cống hiến tuổi trẻ cho tổ quốc này. Nhân vật chú bé Lượm ấy đã đọng lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Bài thơ “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu kể về một chú bé liên lạc dũng cảm trên mặt trận thời bấy giờ. Chú bé Lượm ấy là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, anh dũng chiến đấu chống lại thực dân Pháp, làm theo lời dạy của Bác Hồ. Hình ảnh chú bé Lượm hiện lên hồn nhiên, vui vẻ trong khung cảnh của cuộc gặp gỡ với người chú vệ quốc quân.
“Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè”
Cuộc chiến năm 1945 đã giúp ta giành lại độc lập chủ quyền của dân tộc từ tay bọn phát xít Đức. Thế nhưng, không bao lâu sau thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược nước ta tại Huế. Nhân dân ta lại một lần nữa đứng lên chiến đấu vì tổ quốc trong đó có Lượm.
Chú cháu gặp nhau trong tình hình khốc liệt của trận chiến. Cuộc gặp gỡ sau bao lâu xa cách ấy cũng chỉ là tình cờ chứ không có một cái hẹn nào cho hai chú cháu. Hoàn cảnh đặc biệt ấy nhưng giọng thơ không có chút nào chững lại vì buồn tủi mà chỉ có lòng yêu nước đang cháy trong ngực trẻ của những người chiến sĩ trẻ.
Hoàn cảnh ấy đã góp phần khắc họa được phần nào tính cách của Lượm, phần nào tô đậm thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của chú bé ấy. Một cậu bé dù trong bom đạn nhưng vẫn mang những nét ngây thơ, hồn nhiên ở ngoại hình:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng…”
“Chú bé loắt choắt” cái dáng người nhỏ bé nhanh nhẹn trên mọi nẻo đường không thể lẫn với một ai khác. Bên người mang theo cái xắc cũng nhỏ xinh như chính dáng vẻ của Lượm vậy. Đôi chân nhanh nhẹn, tâm hồn phơi phới niềm tin yêu.
Bằng việc sử dụng những từ láy “loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh” Tố Hữu đã lột tả được dáng vẻ ngây thơ, nghịch ngợm nhưng cũng rất đáng yêu của chú bé Lượm.
Tuy còn nhỏ nhưng Lượm cũng đã đảm nhiệm một nhiệm vụ vô cùng quan trọng là người liên lạc, vận chuyển thư, tin cấp báo cho các chiến sĩ chiến đấu ngoài chiến trận:
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà”
Chiến đấu cho đất nước, ngày ngày đối diện với bom đạt đối với Lượm là niềm vui, công việc liên lạc ấy là niềm tự hào, là đam mê kiêu hãnh của một chú bé. Lượm luôn vui vẻ, hồn nhiên và hết sức dũng cảm. Một cậu bé coi sự sống và cái chết, coi mọi hiểm nguy không còn gì để phải sợ hãi.
Ngược lại, Lượm còn thích ở đồn hơn là ở nhà. Ở đồn nhận thông tin, rồi nhanh chóng chuyển tin cấp báo đến với mặt trận. Công việc ấy có lẽ hợp với tính cách hiếu động của một chú bé dũng cảm. Sự hồn nhiên, tinh nghịch của Lượm còn được tác giả miêu tả kỹ hơn bằng những từ ngữ có sức gợi hình tốt:
“Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
“Thôi, chài đồng chí!”
Cháu đi xa dần”
Cậu bé ấy giờ cũng đã trở thành đồng chí. Những con người có cùng chung lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc. Sau lần gặp gỡ tình cờ ấy:
“Cháu đi đường cháu
Chú lên đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà”
Cuộc gặp gỡ ngắ ngủi ấy có ngờ được đâu là cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai người chiến sĩ vệ quốc quân và chiến sĩ liên lạc. Đến hôm nay thì chợt nghe tin về Lượm từ quê nhà. Một chú bé liên lạc thế hồn nhiên, nhí nhảnh, dũng cảm thế nhưng lại hi sinh quá sớm cho tổ quốc này. Đau đớn quá, xót xa quá mà nhà thơ phải thốt lên:
“Ra thế, Lượm ơi” Câu thơ như nghẹn lại, như tiếng nấc xót xa cho Lượm. Trong tiếng nấc ấy, nhà thơ hình dung ra cảnh Lượm hi sinh vì bom đạn trong lúc làm nhiệm vụ:
“Một hôm nào đó
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Đạn bay vèo vèo”
Lượm nhận nhiệm vụ liên lạc cho quân ta trong một trận chiến đấu khốc liệt, để rồi:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!”
Tia chớp ấy đã cướp đi cuộc đời, cướp đi tuổi thơ của Lượm. Một cậu bé tuy tuổi còn nhỏ nhưng rất dũng cảm, băng qua bom đạn thực hiện nhiệm vụ liên lạc được giao. Rồi đau xót, nghẹn ngào quá khi bom đạn đã cướp đi cậu bé loắt choắt nhanh nhẹn ngày nào. “Thôi rồi, Lượm ơi!” tác giả thương tiếc, ngậm ngùi trước sự hi sinh của một chiến sĩ trẻ cho mảnh đất quê hương này. Cái chết của Lượm được Tố Hữu miêu tả thật giản dị nhưng chạm đến đáy lòng người đọc:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Lớn lên bên đồng lúa mát, cho đến khi hi sinh Lượm cũng nằm lại với đồng lúa đang thời trổ bông. Tay vẫn nắm chặt không buông những bông lúa gắn liền với tuổi thơ, những bông lúa nuôi sống quân và dân ta trong bao ngày chiến đấu. Hương lúa mát dịu như dòng sữa nuôi lớn cuộc đời mỗi người con Việt. Để hồn cậu bé liên lạc cứ quấn quýt nơi cánh đồng với bao chiến công này.
Sự hi sinh ấy đã là bất tử, Lượm tuy đã chết, nhưng trong lòng một người dân hình ảnh chú bé Lượm ngày nào vẫn còn sống mãi với những chiến công hào hùng.“Lượm ơi, còn không?” Câu hỏi tu từ nhưng bâng khuâng, luyến tiếc. Lượm đã mất, nhưng hình ảnh Lượm thì mãi sẽ là niềm tự hào, là tấm gương sáng trong lòng biết bao thế hệ của người dân Việt Nam.
Hai khổ thơ cuối tác giả nhắc lại nguyên vẹn hình ảnh của Lượm những ngày đầu đi làm liên lạc. Hình ảnh một chú bé với dáng vẻ hồn nhiên ngây thơ trên đường làm nhiệm vụ. Đối với Tố Hữu cũng như với nhiều người khác cũng luôn khắc sâu hình ảnh của Lượm tỏng tim mình. Lượm sẽ mãi sống cùng non sông, cùng đất nước này.
Bằng ngôn ngữ giản dị, chân thực nhưng được chọn lựa kỹ lưỡng. Nghệ thuật miêu tả độc đáo, khéo léo đã đem đến thành công cho Tố Hữu trong tác phẩm này. Qua bài thơ đã phác họa thành công hình ảnh chú bé liên lạc trong những ngày chiến đấu. Qua đó ta cũng thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân ta để dành lại độc lập chủ quyền cho đất nước.
Trong số những tác phẩm viết về thiếu nhi trong những ngày chiến đấu cứu nước thì “Lượm” là một bài thơ xuất sắc của Tố Hữu, tạo được tiếng vang lớn và có sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến nhân dân ta. Đồng thời cũng thể hiện được một tư tưởng xuyên suốt, thắng lợi trong những cuộc kháng chiến của toàn dân ta không chỉ có sự góp sức của những người tài giỏi khỏe mạnh mà còn có công lao của những thiếu niên dũng cảm như Lượm.
Bài văn phân tích bài thơ “Lượm” của Tố Hữu số 10
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu in trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ được viết bằng thể thơ 4 chữ, yếu tố tự sự kết hợp với yếu tố trữ tình 1 cách hài hòa. Tác giả đã làm sống dậy trong tâm hồn tuổi thơ chúng ta hình ảnh một chú đội viên liên lạc trong kháng chiến chống Pháp: bé nhỏ, nhanh nhẹn, hồn nhiên và vô tư.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu nhắc lại một kỉ niệm trong những ngày đầu kháng chiến, “Ngày Huế đổ máu”. Phố Hàng Bè là nơi hai chú cháu gặp nhau lần cuối cùng. Khi ấy Lượm đã trở thành một người lính thực sự rất đáng yêu:
“Cháu bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch…”
Cái xắc đựng công văn giấy tờ, cái ca lô (mũ vải) là hai thứ quân trang mà Lượm đã có. Đôi chân và cái đầu chú đội viên thể hiện một con người nhanh nhẹn, hiếu động, hồn nhiên và tinh nghịch. Người đội viên liên lạc phải cần có “cái chân thoăn thoắt” ấy. Qua các từ láy tượng hình: “loắt choắt”, “xinh xinh”, “thoăn thoắt”, “nghênh nghênh”, Tố Hữu đã tạo nên những nét vẽ đẹp làm nổi bật cái thần bức chân dung tinh thần của chú Lượm.
Với Lượm, được đi chiến đấu là “vui”, là “thích”. Chú là một thiếu niên ”tuổi nhỏ chí cao”: “Cháu di liên lạc – Vui lắm chú à – Ớ đồn mang Cá – Thích hơn ở nhà!” Hầu như ai cũng yêu, cũng quý cái cười của chú liên lạc: “Cháu cười híp mí – Má đỏ bồ quân”. Lượm hồn nhiên, yêu đời. Lượm thật đáng yêu. Người đội viên liên lạc thành phố Huế anh hùng khác nào con chim chích bé nhỏ, hót ríu ran tung bay trong nắng đẹp; nắng hồng bình minh của bầu trời tự do và cách mạng. Em thích nhất hình ảnh này, câu thơ này:
“Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng”.
Phần hai bài thơ, tác giả nhắc lại chiến công của chú đội viên liên lạc với tất cả tấm lòng yêu thương, quý trọng, tự hào. Lượm xuất hiện trong một tình huống chiến đấu vô cùng ác liệt:
“Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo”.
Hai chữ “vụt qua”thể hiện quyết tâm chiến đấu, hành động nhanh nhẹn, quả cảm của người chiến sĩ, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhiệm vụ chiến đấu là trên hết, trước hết. Không hề chần chừ trước gian nguy, khi khói lửa mịt mù “đạn bay vèo vèo”:
“Thư đề thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo?”
Câu thơ “Sợ chi hiểm nghèo” đã nêu bật chí quả cảm của Lượm, của những Kim Đồng, Lê Văn Tám, Phạm Ngọc Đa, v.v… mà tuổi thơ chúng ta vô cùng ngưỡng mộ. Lượm đã anh dũng hi sinh. Chú ngã xuống giữa chiến trường trong tư thế người anh hùng tuổi thiếu niên. Trong vần thơ có lời than tiếc thương của Tố Hữu:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chủ đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!”
Các chữ: “nằm”, “nắm chặt”, “bay” vừa gợi tả lí tưởng chiến đấu cao đẹp vừa thể hiện sự hi sinh thanh thản của người anh hùng dám xả thân vì đất nước quê hương. Có đài tưởng niệm nào đẹp hơn vần thơ này:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông”
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”.
Phần cuối bài thơ, tác giả nhắc lại khổ thơ (thứ2, 3) đầu bài thơ, người ta gọi đó là kết cấu “vòng tròn” nhằm khẳng định và ca ngợi anh hùng liệt sĩ Lượm bất tử:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
… Nhảy trên đường vàng”…
Có một sự thay đổi nhỏ: chữ “cháu” được thay bằng chữ “chú”. Lượm đã trở thành con người yêu quý của đất nước quê hương. “Lượm”là một bài thơ hay. Hình ảnh chú đội viên liên lạc hơn nửa thế kỉ trước vẫn chói ngời tâm hồn em.
Có thể bạn thích: