Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người và hướng tới hạnh phúc của con người. Nhân vật cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri đã để lại trong tâm trí người đọc ấn tượng về một người nghệ sĩ tài năng và giàu lòng yêu thương con người. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số bài văn phân tích về người họa sĩ già trong truyện “Chiếc lá cuối cùng” mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 8
Nhà văn Khái Hưng khi nhìn những chiếc lá rụng rơi đã thầm nhủ: “Mỗi một chiếc lá rụng có một linh hồn riêng, một tâm tình riêng”. Và hẳn khi còn trên cành nó cũng có một linh hồn, một tâm tình riêng như thế. Ta bắt gặp chiếc lá với linh hồn rất riêng – một kiệt tác của tình yêu thương vô bờ trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri.
Kiệt tác mà người họa sĩ già Bơ-men tặng cho cô gái trẻ Giôn-xi khi cô đã ngớ ngẩn xây dựng cho mình niềm tin bất hạnh: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Câu chuyện về chiếc lá thường xuân cuối cùng không rụng ấy cũng là câu chuyện vô cùng cảm động về cụ Bơ-men – một họa sĩ già chân chính với trái tim giàu tình yêu thương và lòng nhân hậu.
Trong khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn ta bắt gặp những họa sĩ nghèo, đó là hai cô gái trẻ Xiu và Giôn-xi, cụ Bơ-men – một họa sĩ già. Cũng như hai cô gái trẻ, cụ Bơ-men sống nghèo khổ, phải làm việc cật lực để kiếm tiền và luôn nuôi mơ ước: về một bức tranh kiệt tác. Điều quý nhất ở cụ Bơ- men là lòng yêu thương con người. Dù chẳng họ hàng gì với hai cô gái trẻ, cụ vẫn tự nguyện làm một “con chó xồm” gác cửa cho hai họa sĩ trẻ và chăm sóc, bảo vệ hai cô gái như một người cha.
Rồi Giôn-xi bị gã “bợm già có hơi thở dồn dập và nắm tay đỏ lòm” tên là “viêm phổi” ghé thăm. Bệnh tình mỗi lúc một nặng và trong đầu Giôn-xi xuất hiện một ý nghĩ điên rồ: Khi nào chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống cũng là lúc cô sẽ ra đi. Câu chuyện đáng thương của cô họa sĩ yếu đuối và mỏng manh như chiếc lá giữa phong ba đã được cụ Bơ-men tiếp nhận bằng sự “khinh bỉ và nhạo báng” vì cụ không chịu nổi sự mềm yếu.
Với cụ Bơ-men, cái ý nghĩ của Giôn-xi là biểu hiện của yếu đuối, sự bất lực, sự buông xuôi và cụ không thể nào chấp nhận nó. Vì sao ư? Hãy nhìn vào cuộc đời của người họa sĩ già sáu mươi tuổi đời, bốn mươi tuổi nghề ấy ta sẽ thấy, dù nghèo túng, khổ cực, dù chưa bao giờ “với tới được gấu áo vị nữ thần của mình” cụ vẫn không ngừng nuôi hi vọng về cái “tác phẩm kiệt xuất sắp tới”.
Bởi vậy, sự mềm yếu, sự tuyệt vọng không bao giờ có trong ý nghĩ của cụ. Tuy nhiên dù “khinh bỉ và nhạo báng” nhưng cụ không quay lưng với hai cô gái trẻ, khi đứng trước Giôn- xi “yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá đang vật lộn với thần chết, cặp mắt cụ Bơ-men đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, thương cảm bởi từ sâu thẳm tâm hồn người nghệ sĩ già ấy, hai cô gái đáng thương được cụ yêu quý như con mình.
Nhìn căn phòng chật hẹp nơi Giôn-xi đang nằm trong cụ, cái khát khao về được một bức tranh – một kiệt tác lại thôi thúc: “Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn-xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế”. Lại vẫn ước mơ đẫm chất nhân văn, ước mơ tốt đẹp gắn liền với lòng yêu thương con người sâu sắc, nghệ thuật đích thực theo quan niệm của cụ là phải hướng tới cuộc sống.
Và có lẽ, do quan niệm nghệ thuật phải đem lại những giá trị đích thực cho cuộc sống mà cụ đã tạo ra một kiệt tác trong khoảnh khắc chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Cây bút vẽ bao năm nằm buồn bã được đánh thức để cùng với cụ làm cho “chiếc lá cuối cùng” không rụng.
Nó 1-1 độc và “dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”. Chiếc lá can trường ấy đã giúp Giôn-xi tỉnh ngộ, cô chợt hiểu ra “muốn chết là một tội”, nó đem lại cho cô niềm tin, đem lại cho cô khát vọng sống. Và chính niềm tin, khát vọng đó đã cùng Giôn-xi chiến thắng gã “bợm già” viêm phổi có lúc tưởng chừng đã nuốt chửng cô.
Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Sau cái đêm mưa gió ấy hai ngày cụ Bơ-men đã ra đi, cụ bị viêm phổi vì đã dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá thường xuân trên tường, để giữ cho mầm hi vọng nhỏ nhoi trong lòng cô họa sĩ trong cơn bạo bệnh không bị vùi lấp, dập tắt.
Cụ đã trả lại sự sống cho chiếc lá, trả lại màu hồng trên đôi má của người thiêu nữ, trả lại niềm tin và nghị lực của con người, trả lại khát vọng vươn lên mãnh liệt cho cuộc đời. Cụ đã đổi tất cả những điều ấy bằng sinh mạng, bằng cuộc sống của mình. Cụ Bơ-men đã chết nhưng kiệt tác của cụ sống mãi trong lòng người. Nghệ thuật chân chính có sức mạnh diệu kì của sinh thành và tái tạo. Ta thấm thía hơn giá trị thiêng liêng và cao cả của nghệ thuật chân chính, của người nghệ sĩ chân chính, của O Hen-ri.
Hình ảnh cụ Bơ-men trong truyện ngắn được phác họa không nhiều nhưng đủ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về tình yêu thương con người và xả thân vì con người, vì lòng yêu thương đó. Chiếc lá cuối cùng là kiệt tác của cụ Bơ-men cũng là kiệt tác của niềm tin, của sự hồi sinh mãnh liệt. Kiệt tác ấy như một minh chứng cho sức mạnh của “nghệ thuật vị nhân sinh”.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 1
Đọc truyện “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn Mĩ Ô-Hen-ri ta bồi hồi xúc động về tấm lòng nhân ái cao cả của một người hoạ sĩ nghèo, cô đơn. Vì tình thương yêu con người, để đem lại niềm tin và sự sống cho một người, Bơ-men đã sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình.
Câu chuyện kể về hai họa sĩ Giôn-xi và Xiu, họ cùng chung sở thích về nghệ thuật… và cùng nhau thuê 1 căn phòng ở tầng thượng để làm xưởng vẽ. Làng Grinnich kì dị và cổ kính này là một “biệt khu” phía tây công viên Oa- sinh-tơn với những phố xá chạy ngang chạy dọc lung tung, đây là nơi trú ngụ của những nghệ sĩ nghèo. Giôn-xi tội nghiệp đã bị chứng bệnh viêm phổi đánh ngã. Bệnh tình trầm trọng có thể nói mười phần chỉ còn hi vọng một mà thôi.
Nhưng điều tệ hại nhất đến với Giôn-xi là nàng đã tuyệt vọng nghĩ rằng mình không thể khỏi bệnh được. Giôn-xi chán ngán tất cả, không có niềm tin để bám víu, nàng đã cảm nhận được cái chết đang đến gần. Theo lời bác sĩ, y học cũng bó tay, mọi thứ thuốc men đều không có tác dụng khi người bệnh không muốn sống nữa. Ngày ngày, Giôn-xi nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm từng chiếc lá rụng, nàng đếm được: mười hai, mười một, mười v. v…
Giôn-xi đinh ninh rằng khi nào chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân rụng thì nàng cũng ra đi. Xiu, hết lòng thương yêu như người chị, người mẹ, chăm sóc, khuyên nhủ, động viên nhưng bất lực, Giôn-xi vẫn sống trong tuyệt vọng và chờ đợi chiếc lá cuối cùng lìa cành, chờ đợi cái chết.
Làm thế nào để cứu Giôn-xi? Xiu tìm đến cụ Bơ-men kể cho cụ nghe về ý nghĩ kì quặc đó của Giôn-xi và hi vọng một sự cứu giúp. Bơ-men là một họa sĩ sống cô 1-1 trong một gian buồng tối om ở tầng dưới. Cụ đã ngoài sáu mươi, là ông già nhỏ nhắn có bộ râu loăn xoăn “lòa xòa xuống cái thân hình như thân hình một tiểu yêu”.
Bơ-men là một họa sĩ đã cầm bút vẽ bốn mươi năm nhưng đều gặp thất bại. Cụ phải kiếm sống bằng cách làm người mẫu cho các họa sĩ. Nhưng người nghệ sĩ bất hạnh ấy vẫn nung nấu một mong ước cao đẹp sẽ “vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu cả”, ước mơ vẫn là ước mơ, nó vẫn nằm trên giá vẽ!
Nhưng bên trong con người kì quái, độc ác tợn, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu loại nặng ấy lại có một thế giới tâm hồn rất phong phú, đẹp đẽ. Khi nghe Xiu kể lại chuyện đau buồn của người bạn Giôn-xi, cụ đã xúc động “cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng” và hét to lên: “Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư?”.
Lòng nhân ái được khơi dậy, thôi thúc người nghệ sĩ già cô 1-1 ấy phải tìm cách cứu sống một con người bằng cách đem lại một niềm tin, niềm hi vọng của sự sống. Và chỉ có chiếc lá, chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân bám trên bức tường gạch không bao giờ rụng mới cứu sống được Giôn-xi. Quả vậy, qua một đêm mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng, chiếc lá cuối cùng vẫn còn trên cây.
Sáng tỉnh dậy, Giôn-xi ngạc nhiên nhìn thấy chiếc lá vẫn còn: “Em cứ tưởng là nhất định hôm đó nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”. Nhưng ngày hôm sau, chiếc lá vẫn còn đó. Niềm hi vọng nhen nhóm trong lòng cô gái, Giôn-xi vui vẻ trở lại và bệnh tình cũng giảm dần, sự sống trỗi dậy.
Chiếc lá cuối cùng, “một kiệt tác” của Bơ-men đã cứu sống Giôn-xi. Người nghệ sĩ già đó đã sáng tạo kiệt tác “Chiếc lá cuối cùng” trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Ta hãy hình dung cái không gian, thời gian mà người nghệ sĩ ấy dồn hết tâm huyết để tạo nên một chiếc lá y như thật, chiếc lá cuối cùng trên cây leo thường xuân. Không gian và thời gian sáng tạo của Bơ-men thật khủng khiếp. Có lẽ trong lịch sử của hội họa nhân loại chưa từng có một họa sĩ nào đã cầm bút vẽ trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bất chấp hiểm nguy, trong cái đêm mưa gió khủng khiếp, trên một chiếc thang chênh vênh dựa vào tường, với ánh sáng mờ tỏ của chiếc đèn bão cầm tay, Bơ-men đã dồn hết tâm lực và tài năng để vẽ lên một chiếc lá. Bơ-men lặng lẽ vẽ không một ai hay biết, sáng hôm sau bác gác cổng thấy cụ ốm nặng trong căn phòng, giầy và áo quần trớt sũng, lạnh buốt. Rồi hôm sau, Bơ-men qua đời vì sưng phổi nặng.
Người nghệ sĩ ra đi vĩnh viễn nhưng để lại một kiệt tác. Đây là tác phẩm nghệ thuật đích thực đầu tiên và cuối cùng của Bơ-men, một kiệt tác duy nhất để lại cho đời như cụ đã hằng ước mơ. Mặc dù, lúc vẽ chiếc lá lên tường gạch, Bơ-men không có dụng ý làm nghệ thuật mà chỉ hành động với một động cơ thôi thúc là tìm cách giải thoát cô bé khốn khổ ra khỏi sự ám ảnh của cái chết đang tới gần, trả một con người về với sự sống.
“Chiếc lá cuối cùng” là kết tinh của 1 tấm lòng nhân ái cao cả, nó là một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Điều đó nói lên rằng: nghệ thuật luôn luôn hướng tới sự sống và hạnh phúc của con người, người nghệ sĩ vì cuộc sống con người mà sáng tạo. Cao cả và thiêng liêng biết nhường nào khi người nghệ sĩ đã dám hi sinh cả tính mạng để phục vụ cho nghệ thuật. Bơ-men đã cứu sống một con người bằng nghệ thuật và người nghệ sĩ ấy đã đánh đổi bằng cả cuộc sống của chính bản thân mình.
Đọc “Chiếc lá cuối cùng” của Ô. Hen-ri, chúng ta càng thêm tin tưởng ở con người, con người sống với nhau bằng tình nhân ái và lòng vị tha. Chúng ta cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật đích thực hướng tới con người, vì sự sống của con người.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 7
Tác phẩm Chiếc lá cuối cùng là một bài ca đẹp đẽ về tình người và ngời sáng một lối sống và một lối sáng tác của những nghệ sĩ chân chính. Chính tình thương đã mang lại nghị lực cho cuộc sống của những con người đau khổ tuyệt vọng, cũng chính tình thương đã thổi một sức sống mãnh liệt cho nghệ thuật, làm nên những tác phẩm bất hủ.
Cũng như hai họa sĩ trẻ Giôn-xi và Xiu, cụ Bơ-men là một nghệ sĩ nghèo từ tỉnh lẻ tới. Cả cuộc đời sáu mươi năm của cụ đều đầy những khó khăn trắc trở, có tài năng chắc chắn cụ luôn ấp ủ một bức tranh mơ ước, nhưng cuối cùng cụ cũng chỉ là chiếc bóng mờ nhạt của nghệ thuật. Bởi vì cụ quá nghèo không đủ tiền cho một tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Thu nhập của cụ là ngồi làm mẫu cho các họa sĩ tập sự, những người “không đủ tiền thuê một người mẫu chuyên nghiệp”, để được 1 số tiền nhỏ nhoi và về “bôi bác một bức cho ngành buôn bán hay quảng cáo”, theo lời cụ nói mà chua xót, thất vọng làm sao. Đó là những công việc chán ngán, tẻ nhạt, không phù hợp với hoài bão của cuộc đời cụ.
Tâm trí buồn bực, cảnh sống cùng quẫn khiến cụ uống rượu quá độ, cay độc và độc ác tợn. Nhưng cụ không phải là người xấu, cụ biết thông cảm, sẻ chia buồn vui với những người nghệ sĩ trẻ, trong đó có Giôn-xi và Xiu. Có lẽ vì quá thương cảm những cô gái nhỏ nghèo khổ, mà cụ dường như có phần độc đoán khi “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ” cho hai cô gái đáng yêu của cụ.
Khi Xiu kể cho cụ nghe về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi: khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cô cũng lìa đời; Giôn-xi yếu đuối mong manh như một chiếc lá, tâm lí đầy tuyệt vọng, thì cụ tức giận nhạo báng: “Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng lá ư?”. Cụ cho những lời nói, hành động của Giôn-xi là ngốc nghếch. Cụ trách Xiu sao lại để cho những chuyện vớ vẩn đó chui vào đầu óc con bé đáng yêu. Sự bực bội quát mắng ấy xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của người cha đối với những đứa con dại dột.
Vì thấu hiểu tâm trạng của Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thốt lên một câu đầy thương cảm “Tội nghiệp cô bé Giôn-xi”, Giôn-xi đã cho cụ là lắm điều, lắm lời nhưng cụ đã quên mình để thực hiện một tác phẩm. Và theo quy luật nghiệt ngã của thiên nhiên, khi những chiếc lá trên cành rụng hết, vẫn còn lại một chiếc lá kì diệu đã cứu sống cô bé Giôn-xi.
Giữa bão tuyết dày đặc, mưa gió đêm đông, tê tái, chiếc lá thường xuân nhỏ bé đang can đảm duy trì nhựa sống dồi dào, thì không lẽ con người lại chịu thua bệnh tật, Giôn-xi tìm lại niềm vui vào cuộc sống và bình phục dần. Đó cũng là lúc cô biết chiếc lá trên cành là do cụ Bơ-men vẽ. Nhưng người họa sĩ già nhân hậu đó đã chết trong đêm mưa bão khi cụ liều mình trèo lên tường để đem lại cuộc sống cho cô. Có phải chăng Giôn-xi đã được cụ Bơ-men nhường cho hơi thở để được sống, tiếp tục thực hiện ước mơ của mình.
Tình yêu con người, tình yêu nghệ thuật cùng với tài năng của người nghệ sĩ chân chính đã khiến cụ cứu được cô bé. Cụ đã hòa vào mực vẽ, vào ngọn bút những giọt nước mắt yêu thương của mình khiến chiếc lá sinh động như thật. Con người già cả ấy không nề hà đêm tối mịt mùng, lạnh lẽo, hoang vắng, bất chấp gió tuyết cắt da, cắt thịt, để đem tài năng nghệ thuật cứu người. “Cụ múa cây bút vẽ đã hơn bốn mươi năm mà không với được gấu áo nữ thần của mình”.
Cụ vẽ vì sự sống của cô bé chứ không phải vì danh tiếng cá nhân. Bức tranh được vẽ với tất cả tấm lòng cao thượng và nhân hậu, đã có tác dụng màu nhiệm không chỉ là cuộc sống của một con người mà còn đem lại niềm mơ ước sáng tạo cho một nghệ sĩ trẻ. Để đổi lấy một tác phẩm đầy tính nhân bản, người nghệ sĩ già không đắn đo trả bằng sinh mệnh của mình. Sự hi sinh của cụ làm cho nghệ thuật có ý nghĩa cao quý hơn, gần hơn với nỗi buồn niềm vui của con người.
Hình ảnh của cụ Bơ-men có sức chinh phục lòng người, nó hướng con người tới giá trị đích thực của cuộc sống: “Tất cả mọi thứ rồi sẽ trôi qua nhưng lòng nhân ái thì còn mãi”. Cụ Bơ-men là hiện thân của đức hi sinh cao cả, tấm lòng, tình cảm trong sáng, thủy chung của con người.
Nhân vật Bơ-men dường như chỉ thoáng qua, nhưng đây mới chính là trung tâm khi ta suy nghĩ về giá trị nhân sinh của Chiếc lá cuối cùng. Tác phẩm giản dị, nhẹ nhàng như cuộc sống của ông già họa sĩ Bơ-men, nhưng mang một thông điệp viết trên chiếc lá thường xuân: con người hãy yêu thương nhau hơn và chỉ có một mục đích chân chính phục vụ con người là lẽ sống, lẽ “lưu trú” duy nhất của nghệ thuật và bản thân mỗi con người.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 4
Trích đoạn Chiếc lá cuối cùng trong tác phẩm cùng tên của nhà văn O Hen-ry là trích đoạn hay và giàu ý nghĩa. Đoạn trích là bài ca ca ngợi sức mạnh của tình yêu thương đối với mỗi con người. Và tình yêu thương, sự hi sinh cho người khác được thể hiện rõ nét qua nhân vật cụ Bơ-men.
Cụ Bơ-men được giới thiệu là một họa sĩ nghèo, đã ngoài sáu mươi tuổi. Cụ ở cùng tòa nhà với hai họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi. Đã theo nghiệp vẽ hơn bốn mươi năm nay cả đời cụ chỉ có một mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh kiệt tác để lại cho hậu thế. Nhưng năm tháng trôi qua, nguyện ước của cụ vẫn chưa thể thực hiện được. Cụ hiện làm mẫu vẽ cho các họa sĩ trẻ nhằm kiếm sống qua ngày.
Đằng sau vẻ ngoài xù xì, gai góc ấy, ta thấy trong cụ là con người có tấm lòng nhân hậu và yêu thương người khác sâu sắc. Ngày biết tin Giôn-xi có những ý nghĩ điên rồ, rằng sẽ chết khi chiếc là cuối cùng rơi xuống, cụ đã vô cùng đau đơn, thương xót và cũng giận dữ khi Giôn-xi có những suy nghĩ yếu đuối đến như vậy.
Có lẽ trong lúc Xiu buồn rầu, chán nản kéo chiếc rèm lên sau một đêm mưa gió bão bùng để cho Giôn-xi xem, thì từ căn phòng bên dưới cũng là lúc cụ Bơ-men mở tung cánh cửa sổ và đi đến một quyết định cao thượng. Hi sinh bản thân mình cho người khác đâu phải là chuyện 1-1 giản, dễ dàng, người ta có thể chia nhau cái bánh, miếng cơm, manh áo, nhưng mấy ai dễ chia nhau sinh mạng. Ấy vậy mà cụ Bơ-men đã dũng cảm làm được điều ấy.
Trong đêm mưa gió điên cuồng, cái lạnh thấu vào da, cụ Bơ-men đã mang những dụng cụ cần thiết, một chiếc thang, chiếc đèn bão, màu mực để vẽ nên kiệt tác của mình. Kiệt tác đó được vẽ nên từ tình yêu thương, sự hi sinh cao cả bởi vậy đã đem lại sự sống cho Giôn-xi.
Sáng hôm sau, khi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn dũng cảm treo bám trên cây, Giôn-xi đã không khỏi ngỡ ngàng và nhận ra những suy nghĩ sai lầm của bản thân: “Muốn chết cũng là một cái tội”. Cô đã vực lại niềm tin và sự sống trong mình. Nếu không có chiếc lá đó, hẳn Giôn-xi đã bỏ phí cả cuộc đời đang rộng mở phía trước.
Còn đối với cụ Bơ-men sau đêm chiến đấu với cái lạnh lẽo, giá rét, cụ đã mắc căn bệnh sưng phổi và mất không lâu sau đó. Nhưng có lẽ cái chết của cụ cũng không làm cụ vướng bận điều gì, bởi cụ đã thực hiện được nguyện ước của đời mình đó là vẽ nên một bức tranh kiệt tác. Chiếc lá cuối cùng được coi là một kiệt tác bởi trước hết ở độ chân thực của nó.
Chiếc lá giống thật đến nỗi, con mắt họa sĩ của hai cô gái cũng không hề nhận ra đó chỉ là sản phẩm của màu vẽ. Không chỉ vậy, chiếc lá được vẽ nên bằng tình yêu thương sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men. Và cuối cùng nó là một kiệt tác bởi đã đem lại hi vọng sống cho một con người. Giúp Giôn-xi thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Bởi tất cả những lí do trên nên Chiếc lá cuối cùng đã trở thành kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời cụ Bơ-men. Đồng thời bức tranh ấy cũng gửi gắm đến bạn đọc thông điệp về giá trị của tác phẩm nghệ thuật: một tác phẩm nghệ thuật chân chính là sinh ra để phục vụ con người, để khiến con người trở nên tốt đẹp hơn.
Nhân vật cụ Bơ-men không được tác giả tập trung phác họa quá nhiều, mà chỉ là những nét phác thảo hết sức ngắn ngủi. Nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi, ta cũng cảm nhận được giá trị nhân văn và những thông điệp ý nghĩa tác giả muốn gửi gắm qua nhân vật này. Sống là để yêu thương, sẵn sàng san sẻ và hi sinh, đó là lẽ sống cao đẹp mà bất cứ ai cũng cần hướng đến.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 3
O Hen-ri là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn, và sáng tác rất nhiều. Có những năm, số lượng các truyện ngắn của ông sáng tác lên rất cao: 65 truyện năm 1904, 50 truyện năm 1905… Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt. Một số truyện khác thường nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động.
“Chiếc lá cuối cùng” là một truyện giàu tình yêu thương của các nghệ sĩ nghèo. Đặc biệt, nhân vật Bơ-men là nhân vật tiêu biểu cho tình yêu thương cao cả ấy. Tìm hiểu nhân vật Bơ-men, ta càng hiểu sức sống lâu dài của truyện Chiếc lá cuối cùng.
Chiếc lá cuối cùng là thế giới của những họa sĩ nghèo. Đó là không gian chật hẹp của Gri-niz bị chia nhỏ, chật chội. Đã chật chội lại mọc rêu và cô quạnh hoang tàn. Đó là không gian thích hợp cho những người nghèo cư ngụ. Họ gồm có ba họa sĩ: cụ Bơ-men và hai cô họa sĩ trẻ.
Thời gian họ quen nhau không lâu, thế mà ở họ lại sáng lên tình yêu thương ruột thịt hiếm có. Họ thu thập không cao nhưng có chung một lòng yêu nghệ thuật, ước mơ sáng tác một tác phẩm để đời. Mùa đông băng giá là điều kiện để bệnh bệnh viêm phổi, tên phá hoại này so tài với mọi đối thủ. Hắn đánh vào Giôn-xi, cô họa sĩ nhỏ bé, thiếu máu khiến cô ta lăn ra bất động. Nghèo, không tiền thuốc, không thân nhân ở gần, cô chỉ có một niềm tin đớn đau là cô 1-1 chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình.
Và cô bệnh nhân ấy yên trí là mình không thể khỏi đã bình thản lạnh lùng làm cái việc nhìn qua cửa sổ, trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường xuân, đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn-xi, chiếc lá là biểu tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời của cô. Cô rơi vào tình trạng bi quan đến mức có những ý nghĩ lạ lùng: “Những chiếc lá trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi. Ông bác sĩ không nói với chị sao?”
May sao, Giôn-xi còn có Xiu luôn cận kề chăm sóc, an ủi cô: “Chị muốn ở bên cạnh em kia. Vả lại chị không muốn em cứ nhìn mãi những chiếc lá thường xuân vớ vẩn đó nữa”. Xiu đi tìm cụ Bơ-men, mời cụ ngồi làm mẫu để vẽ và trình bày tâm trạng của Giôn-xi. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Môi-dơ của Mi-ke-lăng-giơ loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần Xa-tia lòa xòa xuống cái thân hình một tiểu yêu.
Bơ-men là người thất bại trong nghệ thuật. Cụ đã già rồi mà tấm vải vẽ vẫn còn trống trơn. Cụ chưa vẽ được gì, chẳng phải cụ không có tài, mà chính là cụ băn khoăn, trăn trở gần suốt cuộc đời, chưa biết vẽ gì cho xứng đáng là một kiệt tác: Trên giá vẽ ở góc buồng là 1 tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ đầu tiên của bức tranh kiệt tác.
Có ước mơ chân chính, suy nghĩ đã nhiều nhưng vẫn còn đó sự trăn trở!Biết vẽ gì? Ngay lúc Giôn-xi tuyệt vọng, gần tuyệt mệnh là lúc cụ uống rượu nặng quá độ. Xiu tìm thấy cụ sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Có lẽ vì cụ thất vọng, trăn trở mãi mà vẫn không đặt bút vẽ được bức tranh kiệt tác.
Bên cạnh ước vọng cao quý về nghệ thuật, cụ còn có một tình cảm đặc biệt đối với hai cô họa sĩ như là tình cha con. Thực vậy, cụ là một ông già nhỏ nhắn độc ác tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai, và tự coi minh là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng bên.
Với cá tính ấy, tình thương ấy, khi nghe kể về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xy cụ phản ứng thật quyết liệt: “Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như thế cả”. Tuy nhiên, đó chỉ là một thoáng, sự thực, cụ đang thai nghén một tác phẩm kiệt xuất, cụ sắp làm một việc đầy ý nghĩa hi sinh.
Một ngày mới lại về, Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo chiếc màn để cô nhìn ra ngoài. Tất nhiên, Xiu không muốn nhưng vẫn làm theo. Nhưng ô kìa, sau trận mưa và những cơn gió phũ phàng… vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên tường gạch. Tuy ở gần và cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa, đã nhuộm màu vàng úa, tuy vậy, chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành…
Một ngày qua cho đến hoàng hôn chiếc lá 1-1 độc vẫn bám lấy các cuống của nó ở trên tường và rồi màn đêm cùng với mưa và gió bấc lồng lộn đập mạnh vào cửa sỗ mưa rơi lộp độp… Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó.
Và Giôn-xi chợt hiểu ra có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào và hi vọng một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na-plơ lại trỗi dậy trong cô: cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và mầm sống lại hồl sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: được năm phần mười rồi.
Như vậy, điều gì đã khiến Giôn-xi khỏe trở lại? Có thể một trong những phần do thuốc men phát huy hiệu lực, có thể một trong những phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dẫn về cõi hư vô là màu xanh của chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng trên chiếc tường đối diện với phòng của họ.
Chiếc lá đó chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi. Bởi vì đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ-men. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Và đã tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã không ngần ngại đổi nó bằng cuộc sống của chính mình. Nghệ thuật chân chính mang chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin và cuộc sống. Nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ tái tạo.
Do vậy, hình tượng Bơ-men đã tạo được ấn tượng sâu sắc. Bơ-men đã đánh bại được tử thần, trả lại màu xanh cho chiếc lá úa, trả lại màu hồng cho đôi má Giôn-xi, trả lại niềm tin và nghị lực cho tâm hồn yếu đuối. Ước mơ một đời chưa thực hiện, thai nghén và thực hiện tác phẩm bằng cả con tim yêu thương mà phẫn nộ, phẫn nộ với sự mềm yếu của bất kì ai.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là cụ Bơ-men – con người tốt – có lòng yêu thương đối với Giôn-xi trong điều kiện có thể của mình. Thương yêu chân thành đến độ hi sinh, sáng tác trong giá lạnh để bảo vệ niềm hi vọng cho Giôn-xi. Đó là lòng yêu người yêu nghệ thuật của cụ Bơ-men.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 5
Chiếc lá cuối cùng là “kiệt tác duy nhất của nhân vật Bơ-men, nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri, nhà văn Mỹ xuất sắc đầu thế kỉ XX. Với kiệt tác đó, nhân vật Bơ-men đã bộc lộ rõ lòng nhân đạo cao cả và đã gây xúc động sâu sắc cho hết thế hệ này đến thế hệ khác suốt gần 100 năm qua và đã góp phần làm cho tên tuổi của O.Hen-ri trở thành bất tử.
Là nhân vật chính nhưng bác Bơ-men chỉ xuất hiện có một lần ở giữa truyện còn lại là được nhắc tới qua lời dẫn truyện của tác giả giới thiệu về bác và lời của Xiu-đi nói với Giôn-xi về cái chết và tác phẩm kiệt xuất của bác. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng phẩm chất, tính cách của Bơ-men rất nổi bật, rất sâu sắc. Trước tiên, người đọc thấy Bơ-men là một nghệ sĩ nghèo, không thành đạt nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác.
Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác Bơ-men vẫn sống cô độc trong một gian buồng tối om om ở tầng dưới. Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc buồng của bác vẫn là 1 tấm vải trống trơn chưa có một nét vẽ. Không có tranh để bán, hàng ngày bác kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp.
Là họa sĩ nhưng Bơ-men lại sống bằng việc làm người mẫu không chuyên cho những họa sĩ nghèo. Cuộc sống của bác thật khổ và thật bấp bênh tuy vậy bác vẫn sống trong sạch, không phiền hà đến ai, không để cho sự nghèo khổ làm sa sút phẩm chất, làm mềm yếu tinh thần. Chả thế mà bác hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai.
Hóa ra bác không chấp nhận sự yếu đuối về tinh thần, về ý chí của bản thân và của những người xung quanh. Phẩm chất đó thật cao đẹp, thật trong sáng. Chính vì có phẩm chất đó, nên tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền. Nhưng ước mơ sáng tạo lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng bác.
Bác luôn có ý định rõ một bức tranh kiệt tác và tuy uống rượu nặng quá độ mà vẫn nói về cái tác phẩm kiệt xuất sắp tới của mình, ước mơ khát vọng của bác thật đẹp. Thật chân chính. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác vẫn không thực hiện được ước mơ, khát vọng đó, có lẽ chủ yếu do bác quá nghèo, chứ không phải do bác thiếu tài năng. Người đọc thương bác, yêu quý bác không coi thường bác chính vì lẽ đó.
Song cái đáng quý nhất ở bác Bơ-men là tuy sống trong nghèo khổ, nhưng bác luôn quan tâm đến mọi người, muốn đem lại điều tốt lành cho người khác. Trong cuộc sống, bác không muốn mọi người xung quanh mềm yếu bác chế nhạo họ là mong họ tốt đẹp, cứng rắn lên. Đối với những người nghèo, thực sự yếu đuối, bác luôn quan tâm chăm sóc. Người đọc thật cảm động và quý mến bác khi biết bác tự coi mình có nhiệm vụ gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ nghèo nhỏ bé, thiếu máu ở phòng vẽ tầng trên.
Khi Xiu, một trong hai nữ nghệ sĩ do báo tin cho bác biết Giôn-xi, cô nghệ sĩ yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá bị bệnh sưng phổi và ý nghĩ tuyệt vọng kì quặc của cô, bác Bơ men cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng. Đó là những giọt nước mãi xót xa thương cảm Bác đã coi hai cô gái nghèo như con mình.
Khi biết Giôn -xi nghĩ rằng mình sẽ chết khi cây thường xuân rụng hết lá, bao hét lên, quát to nhạo báng ý nghĩ ngớ ngẩn của cô. Bác hét, bác quát nhưng, lòng đầy thương cảm vì sau lời quát là lời dịu dàng xót xa: Chà, tội nghiệp cô bé Giôn – xi. Thật cảm động khi nghe bác nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ cô Giôn-xi đang nằm: Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn xi nằm.
Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất cả tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế, vẫn là ước mơ tốt đẹp nhưng ước mơ đó gắn liền với một lòng yêu thương sâu sắc. Bác muốn sáng tạo, muốn có kiệt tác để giúp đỡ mọi người, để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Động cơ sáng tạo của bác thật cao cả.
Có lẽ do động cơ sáng tạo cao đẹp đó, nên khi nhìn qua cửa sổ, thấy cây thường xuân rụng lá dần dưới cơn mưa lanh lẽo pha tuyết đang đổ xuống, bác đâu nghĩ đến việc dùng bút vẽ để cứu Giôn-xi… và chiếc lá cuối cùng vẫn không rụng, vẫn 1-1 độc bám lấy cái cuống của nó trên tường, mặc cho mưa gió vùi dập qua mấy đêm kinh khủng. Chiếc lá cuối cùng không rụng đó đã đem lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi, đã cứu sống Giôn-xi.
Nhưng chiếc lá cuối cùng đó đã giết bác Bơ-men, bởi vì chiếc lá rất giống những chiếc lá khác nhưng chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi tới là do bác Bơ-men vẽ trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống. Do dầm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ-men đã nhiễm bệnh sưng phổi và đã qua đời sau đó hai ngày. Bác đã chết sau khi sáng tạo tác phẩm duy nhất là chiếc lá cuối cùng để cứu sống một cô gái bị bệnh hiểm nghèo.
Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác không phải không cảm thấy giá buốt, không phải không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để cứu sống cô đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá cuối cùng. Đó là một kiệt tác thực sự vì nó chứa đựng tất cả tâm hồn, tài năng của một nghệ sĩ chân chính, vì nó được tạo nên bằng cả cuộc đời của một con người và vì nó đem lại cuộc sống cho những người nghèo khổ và lương thiện.
Bác Bơ-men đã chết, nhưng tác phẩm kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô gái nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện tất cả phẩm chất cao đẹp của bác: nghèo nhưng vô cùng nhân hậu, thất bại nhưng vẫn ước mơ, sẵn sàng xả thân vì người khác.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen-ri số 6
O Hen-ri là một nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Những tác phẩm của ông thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình yêu thương người nghèo khổ, rất cảm động. “Chiếc lá cuối cùng” là truyện ngắn góp phần làm cho tên tuổi của O Hen- ri trở nên bất hủ.
Trong câu chuyện ấy, ta thấy thấm đượm tình cảm cao đẹp giữa những người họa sĩ nghèo khổ, và đặc biệt để lại nhiều dư cảm sâu sắc nhất là nhân vật cụ Bơ-men.Cụ sống cùng Xiu và Giôn-xi trong 1 căn hộ thuê ở gần công viên Oa- sinh- tơn. Bốn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được, cụ thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ khác để kiếm tiền.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng cụ luôn giữ phẩm chất trong sạch, hoàn cảnh không thể làm cụ yếu mềm tinh thần. Chả thế mà cụ “ hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai”. Cụ Bơ-men luôn sống giàu tình thương, quan tâm tới mọi người. Cụ muốn những người xung quanh mình phải mạnh mẽ và cứng rắn. Chúng ta cảm động khi biết cụ tự coi mình có nhiệm vụ bảo vệ Xiu và Giôn-xi ở phòng vẽ tầng trên.
Mùa đông năm ấy, Giôn-xi bị bệnh sưng phổi, cô tuyệt vọng, đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện cửa sổ, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì cô cũng lìa đời. Biết được ý nghĩ kì quặc ấy , mắt cụ Bơ- men đỏ ngầu , “ nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, đầy thương cảm. Cụ “hét lên”, “quát to” rồi sau đó là lời dịu dàng, xót xa: “Chà tội nghiệp cô bé Giôn-xi”.
Thật cảm động khi nghe những lời mà cụ nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ mà Giôn- xi đang nằm: “ Trời đây không phải là chỗ cho một con người tốt như cô Giôn- xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này.” Vẫn là ước mơ đó nhưng nó đã gắn liền với lòng yêu thương sâu sắc. Cụ muốn sáng tạo để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người.
Cụ Bơ-men con người có đức hi sinh cao cả. Nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của cụ và Xiu: “ Họ sợ sệt ngó ra ngoài cử sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì.” Dường như trong phút giây im lặng ấy, họ đã đoán được điều gì sẽ xảy đến. Là một nhân vật chính nhưng cụ chỉ xuất hiện ở phần đầu và giữa truyện, những hành động tiếp theo của cụ chỉ được hiện lên qua lời kể của Xiu.
Sau khi ngồi làm mẫu cho Xiu vẽ, hình ảnh cụ Bơ-men bỗng biến mất. Người đọc dần lãng quên sự hiện diện của cụ mà thay vào đó chú ý tới diễn biến căng thẳng xoay quanh Xiu, Giôn- xi và chiếc lá cuối cùng. Không ai đoán biết được cụ đã làm gì trong khoảng thời gian ấy . Phải đến cuối truyện, Giôn-xi và người đọc mới hiểu rõ hành động cao cả của cụ. Chắc chắn khi đứng dưới mưa tuyết để vẽ chiếc lá lên bờ tường gạch, con người già nua ấy giá buốt lắm, hơn ai hết cụ biết rõ tính mạng mình đang gặp nguy hiểm.
Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để đem lại niềm tin, nghị lực sống cho cô dã giúp cụ vượt lên tất cả. Chiếc lá mà cụ vẽ sống động và rất thật: “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”, khiến cho hai cô họa sĩ của chúng ta cũng không hề nghi ngờ. Và chiếc lá ấy đã gieo vào lòng cô gái trẻ tội nghiệp hơi ấm của niềm tin, nghị lực, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên sống tiếp.
Có thể nói chiếc lá là cả tấm lòng của cụ Bơ-men, là minh chứng cho sự hi sinh đến quên mình để đem lại sự sống cho người khác. Cụ đã làm được một điều mà bốn mươi năm qua hằng ao ước: vẽ một kiệt tác. Và có lẽ khi một con người nằm xuống cũng là lúc một tâm hồn được đánh thức, sẽ tiếp tục cống hiến cho đời những sáng tác nghệ thuật.
Câu chuyện kết thúc bằng lời kể của Xiu về cái đêm mà cụ Bơ-men vẽ chiếc lá mà không để cho Giôn- xi có phản ứng gì thêm như để lại dư âm trong lòng người đọc. Nhà văn O Hen-ri đã rất khéo léo khi xây dựng nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần. Lần đảo ngược thứ nhất, Giôn-xi như đang tiến dần đến cái chết bỗng khỏe lại, yêu đời và chiến thắng bệnh tật.
Lần đảo ngược thứ hai liên tiếp sau đó, cụ Bơ-men từ một người khỏe mạnh đến cuối truyện mắc bệnh và qua đời. Một con người đi từ sự sống đến cái chết, một con người người từ cái chết tìm lại sự sống. Tất cả đã được nhà văn kể lại thật tự nhiên và cảm động.
Truyện ngắn làm cho chúng ta không khỏi rung cảm trước tình yêu thương cao cả giữa những người nghèo khổ. Câu chuyện còn giàu tính nhân văn , ẩn chứa bức thông điệp trong cuộc sống: dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn nhất cũng đừng bao giờ bi quan, tuyệt vọng, hãy mạnh mẽ tin tưởng vào ngày mai tươi sáng, ta sẽ vượt qua tất cả.
Có thể bạn thích: