Nổi bật trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm là hình ảnh người mẹ Tà-ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một người mẹ rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quý và đất nước thân thương; nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất, cao quý nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược. Mời các bạn tham khảo 1 số ít bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 7
Văn học Việt Nam đã dựng lên nhiều tượng đài về hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đó là “Mẹ suốt” của Tố Hữu, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy… và không thể không nhắc tới người mẹ dân tộc Tà ôi trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ sáng tác năm 1971 là lời hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là người mẹ bền bỉ, gắn bó với kháng chiến, nặng lòng với quê hương đất nước và yêu con tha thiết.
Văn học Việt Nam đã dựng lên nhiều tượng đài về hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đó là “Mẹ suốt” của Tố Hữu, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy… và không thể không nhắc tới người mẹ dân tộc Tà ôi trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ sáng tác năm 1971 là lời hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là người mẹ bền bỉ, gắn bó với kháng chiến, nặng lòng với quê hương đất nước và yêu con tha thiết.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” viết về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà ôi. Bài thơ được chia làm ba khúc hát ru. Cùng với hình tượng người mẹ cứ lớn dần lên qua mỗi khúc hát. Khát vọng của người mẹ hòa trong khát vọng của cả dân tộc, ở đó là tình yêu quê hương đất nước, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do, ước mơ cháy bỏng về thống nhất nước nhà. Đó cũng chính là hình tượng điển hình của người mẹ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình ảnh người mẹ Tà ôi đảm đang, giầu nghị lực. Mẹ đang nuôi con nhỏ, vừa phải địu con trên lưng vừa phải làm công việc lao động sản xuất ở chiến khu như giã gạo nuôi bộ đội, tỉa bắp trên núi, chuyển lán đạp rừng – công việc rất vất vả đầy gian khổ. Mang con trên lưng, nỗi vất vả của mẹ càng nhân lên gấp bội. Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi vất vả ấy và ghi lại bằng những hình ảnh thơ đầy xúc động:
“Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Hình ảnh đôi vai gầy, giấc ngủ của em bé gợi nhiều thương cảm nói lên những gian khổ của cả người mẹ và cả em bé trên lưng.
Khi mẹ tỉa bắp trên núi:
“Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”
Một hình ảnh tương phản giữa cái rộng lớn mênh mông của núi rừng với sự nhỏ bé gầy guộc của mẹ gợi cho chúng ta cảng heo hút hoang sơ của rừng núi và nỗi vất vả của người mẹ Tà ôi. Đó là hình ảnh thơ hàm súc nói lên sự gian khổ đồng thời khẳng định sự bền bỉ lòng quyết tâm chịu đựng, nghị lực phi thường của người mẹ. Tình yêu con tha thiết, yêu nước sâu nặng, khát khao cháy bỏng về tương lai chiến thắng
Lời ru của mẹ đã mở ra một thế giới tâm hồn cao cả. Trước hết, đó là tình yêu con vô bờ, người mẹ không thể ngồi bên cánh võng để hát ru mà lời hát ru cất lên lại từ những công việc nhọc nhằn gian khó. Những lời hát ru cho con và tình cảm cháy bỏng từ trái tim: “Lưng đưa nôi mà tim hát thành lời”. Tiếng hát tư trái tim mẹ là tiếng hát cháy bỏng, tình yêu thương, tiếng hát ấy cất lên từ sâu thẳm đáy lòng giành cho đưa con vô cùng yêu quý của mình. Tình yêu thương con được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ thật độc đá
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”
Nếu mặt trời của vũ trụ là nguồn sống che vạn vật dưới thế gian, thì đứa con cũng giống như mặt trời vậy, là nguồn sống của mẹ. Mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ, đứa con trở thành niềm hạnh phúc, niềm tin, hi vọng, đứa con là tất cả những gì của cuộc đời mẹ, nó tỏa sáng ấm nóng, tiếp cho mẹ nguồn sức mạnh và niềm tin để vượt qua bao thử thách.
Nét mới trong tình cảm của người mẹ là gắn tình yêu con với tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm riêng hòa trong tình cảm lớn mang tính chất thời đại, dân tộc. Có thể nói, đó là tình yêu nước cao cả của người mẹ Tà ôi. Từ chỗ giã gạo ở sân nhà, tỉa bắp trên nương rẫy nay mẹ đã đến chiến trường: “Mẹ đi chuyển lán mẹ đi đạp rừng”. Và rồi chúng ta thấy cùng với đứa con:
“Từ trên lưng mẹ tới chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”
Người mẹ xuất hiện trong những tư thế của người chiến sĩ, hòa trong nhịp sống chung của đất nước. Đứa con cùng mẹ sẻ chia những gian lao, vất vả, người mẹ lúc này thực sự đã đi đánh giặc, đã cùng bộ đội chuyển lán đạp rừng, đã giã từ ngôi nhà thân yêu của mình cùng nương rẫy để vào chiến trường. Hình tượng người mẹ đã trở nên vĩ đại và cao cả hơn. Người mẹ khát khao cháy bỏng về một tương lai cho đứa con thân yêu của mình. Từ chỗ mẹ mơ ước con lớn lên khỏe mạnh “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến mơ ước một cuộc sống no đủ “Hạt bắp lên đều” và “phát mười ka-lư” đến mơ ước lớn lao hơn là con được sống một cuộc đời tự do độc lập.
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”
Khát vọng của mẹ được nâng cao, không chỉ có khát vọng về một cuộc sống khỏe, no đủ của con mà còn khát vọng cháy bỏng là con sẽ được hưởng một cuộc sống độc lập. Khát vọng của mẹ cũng là khát vọng của dân tộc. Vì vậy, mẹ không chỉ lao động sản xuất mà mẹ còn trực tiếp tham gia vào chiến đấu, mẹ có một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng vì thế: “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”.
Hình ảnh người mẹ lúc này trong tư thế của người chiến sỹ trở nên phi thường, lớn lao. Có thể nói hình ảnh người mẹ Tà ôi được thể hiện qua rất nhiều các công việc khác nhau, không gian khác nhau và sự trưởng thành về hình thức và hành động.
Người mẹ trong bài thơ hiện lên vừa có nét đẹp truyền thống vừa mang tinh thần thời đại, vừa yêu thương con vừa yêu đất nước và giầu tinh thần chiến đấu. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài kỉ niệm bằng thơ về hình ảnh người mẹ Việt Nam.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 8
“Trong vũ trụ bao la có lắm kì quan, duy chỉ có trái tim người mẹ là vĩ đại hơn hết”. Bởi lẽ đó mà những bài thơ hay viết về mẹ luôn truyền đến cho người đọc những rung cảm sâu xa và mãnh liệt. Với cách lựa hình thức lời ru hoà quyện trong những dòng thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu…đã giúp nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thành công trong việc truyền tải những cảm xúc chân thành, sâu lắng của mình về hình tượng người mẹ trong những năm kháng chiến chống Mĩ qua bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Tác phẩm viết về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà ôi nhưng qua đó người đọc cảm nhận được bóng dáng và phẩm chất cao đẹp của người mẹ Việt Nam. Đó là người người mẹ chịu thương, chịu khó, giàu tình thương yêu và đức hi sinh. Nhà thơ khắc hoạ hình tượng ngưòi mẹ thông qua công việc thầm lặng hàng ngày rất đỗi bình dị bằng bút pháp hiện thực song lại lan tỏa rất nhiều cảm xúc đến người đọc. Từ những hình ảnh tiêu biểu: “mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi, vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối”, hằng ngày địu con lên rẫy tỉa bắp, địu con đi để giành trận cuối… đặc biệt hình ảnh đối lập: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”…giúp chúng ta đã cảm nhận đựoc bao vất vả, khó nhọc trĩu nặng trên đôi vai gầy của mẹ. Nhưng từ muôn vàn khó khó khăn, vất vả ấy đã ngời sáng tâm hồn bao la, cao cả của người mẹ Việt Nam.
Tâm hồn cao đẹp ấy trước hết được thể hiện ở tình mẫu tử thiêng liêng hoà trong âm vang của điệp khúc lời ru trìu mến, dạt dào tình yêu thương xuyên suốt bài thơ. Vì yêu con mẹ đã mẹ thầm lặng hi sinh cả cuộc đời mình. Điều này đã từng được Nguyễn Khoa Điềm diễn tả qua hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng trong bài “Mẹ và quả”
“Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”
Đúng vậy, đối với mẹ, con là mặt trời của mẹ – một hình ảnh ẩn dụ giầu chất thơ và gợi nhiều liên tưởng. Con là hạnh phúc, là nguồn sáng vô tận thắp sáng trong lòng mẹ bao niềm tin yêu, lòng dũng cảm để vượt qua bao gian lao, khó nhọc trong những tháng năm đất nước đầy đau thương.
Cao cả, thiêng liêng biết bao khi tình yêu con của mẹ gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước. Cái riêng hoà trong cái chung cứ ngân vang trong lời ru lắng sâu tình cảm “Mẹ thương Akay”, mẹ thương bộ đội”, “mẹ thương làng đói”, “mẹ thương đất nước”. Niềm tin, tình yêu tổ quốc và khát vọng tự do, độc lập mẹ gửi gắm vào giấc mơ của Akay:
“Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều.
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người tự do”.
Lời ru của mẹ nuôi con ngày một lớn khôn đó là những chiến công thầm lặng mẹ đã cống hiến cho dân tộc, góp phần biến giấc mơ của Akay thành hiện thực. Những việc làm thầm lặng hằng ngày của mẹ tuy giản dị song vô cùng có ý nghĩa, là biểu hiện tấm lòng của hậu phương dành cho tiền tuyến. Chính những điều đó đã nâng tầm vóc hình tượng người mẹ trở thành một biểu tượng cao đẹp.
Cùng với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác đương thời, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần hoàn chỉnh thêm tượng đài bất tử về người mẹ chiến sĩ trong thời kì kháng chiến vừa gần gũi, thân thương vừa cao cả ,vĩ đại. Hình tượng ấy vẫn luôn lặng lẽ toả sáng bồi đắp tình yêu tổ quốc cho bao thế hệ con người Việt Nam.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 4
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai miền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu (phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất để tăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ.
Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở vùng chiến khu Trị – Thiên trong thời kì chiến tranh chống Mỹ. Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát ru được gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thể.Ơ khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công việc giả gạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: “Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc. Mẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ:“Mai sau con lớn vung chày lún sân”Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi trỉa bắp.
Câu thơ: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me với công việc vất vả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng mẹ, em vẫn ngủ say:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là mặt trời của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước về con:“Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi” Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”, đuổi ta phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên lưng:
“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”
Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự do”. Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ diễn tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, người mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và cũng nặng tình thương buôn làng, quê hương, bộ đội và khao khát mong cho đất nước độc lập, tự do. Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi. Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà người con chưa thể biết:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội……….
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày, nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại, nhưng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!
Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp “chọc lỗ” trỉa bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối xứng “Mặt trời của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vô hạn của người mẹ nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết yêu thương. Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai:
“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi…….
Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”
Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đôi, mỗi dòng theo bước chân đi nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương: “Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng…………….Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”. Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương lai chiến thắng”“ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi…….Mai sau con lớn làm người tự do”.Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối với cán bộ, xóm làng, đất nước. Tình yêu của người mẹ Tà- ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác.
Đó là lòng thương yêu bộ đội, yêu thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời ru của người mẹ còn thể hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do…”
Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc cho công cuộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một người mẹ tuy lao động nhọc nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc cho tương lai. Đây là một hình tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh cùng với những hình tượng khác hình ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt, người mẹ người cầm súng Út Tịch…..đã góp nên một bài ca của những người mẹ Việt Nam anh hùng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 2
Một trong những tình cảm thiêng liêng, cao quý, thắm thiết sâu nặng nhất của con người không gì ngoài tình mẫu tử. Vẻ đẹp của thứ tình cảm thiêng liêng sâu sắc ấy đã từng được nhiều nhà văn, nhà thơ đưa vào trong tác phẩm của mình như một chủ đề quen thuộc, gần gũi và nhiều ý nghĩa. Cùng chung mạch cảm xúc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại có những hướng đi riêng, những sáng tạo mới, khơi nguồn những miền cảm xúc mới để đưa vào tác phẩm của mình, đó là là bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mà cốt lõi là hình ảnh người mẹ Tà-ôi đi xuyên suốt cả tác phẩm.
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế, ông là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Sáng tác của ông bao gồm 1 số ít tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Đất và khát vọng, Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng,… Nguyễn Khoa Điềm là 1 trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, thơ của ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước về nhân dân, về những con người bình dị không ai nhớ mặt đạt tên đã làm ra đất nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên vào ngày 25/3/1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang dần đi đến thắng lợi, tuy nhiên đời sống chiến đấu của quân dân ta còn nhiều khó khăn gian khổ. Bài thơ được in trong tập Đất và khát vọng (1984), là sự kết hợp giữa thể thơ tám chữ và 1 số ít câu 7 chữ, âm điệu của bài thơ nhẹ nhàng, như ôm ấp, vỗ về của một lời ru, chính giọng điệu trữ tình này đã thể hiện được tình cảm thiết tha trìu mến cảu người mẹ đối với con, đối với cách mạng, với đất nước, quê hương.
Bài thơ là những lời ru thiết tha trìu mến, những lời ru như thủ thỉ, tâm tình như vỗ về ôm ấp, giấc ngủ của em cu Tai và cũng là giấc ngủ của biết bao nhiêu đứa trẻ lớn trên lưng mẹ. Nhưng điều đặc sắc hơn cả đó là thông qua những lời ru dịu êm, thiết tha, trìu mến ấy đã làm hiện dần lên hình ảnh người mẹ Tà-ôi. Người mẹ hiện lên trong biết bao công việc trong cuộc sống lao động thường ngày.
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:”
Đầu tiên là hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong công việc giã gạo nuôi bộ đội kháng chiến, đây là một công việc hết sức vất vả và nặng nhọc, để có thể làm ra được hạt hạo trắng ngần, thơm tho những người dân đã phải đổ biết bao mồ hôi công sức. Người mẹ Tà-ôi ở đây trong công việc giã gạo không chỉ là làm ra hạt gạo nuôi sống chính bản thân mà còn là những hạt gạo được chắt chiu trân trọng để nuôi bộ đội, đóng góp cho cuộc kháng chiến sắp đi đến thắng lợi của nhân dân ta.
Như vậy, chỉ trong một công việc tưởng chừng như hết sức bình dị này thì người mẹ Tà-ôi đã hiện lên với một hình ảnh lớn lao, cao cả khi biết đóng góp những thứ vật chất nhỏ bé cho kháng chiến, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng, điều đó là đáng quý biết bao. Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” và “giấc ngủ em nghiêng” cho ta cảm giác dường như cả hai mẹ con đều cùng chung một nhịp, đó là nhịp chày giã gạo, nhịp điệu lao động của người mẹ. Giấc ngủ của em cu Tai luôn gắn liền với công cuộc lao động vất vả, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm trưa của mẹ mình. Đặc biệt có những chi tiết tác giả dùng đặc tả nỗi vất vả của người mẹ như “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”, ta như cảm nhận được những giọt mồ hôi như mưa, mặn đắng nỗi vất vả nhọc nhằn mà cả chính em cu Tai cũng cảm nhận được.
Hình ảnh “Vai mẹ gầy” như đã bộc lộ cả cái cảm nhận của những đứa trẻ trong ngủ trên lưng mẹ, cũng là tình thương trước cái nỗi vất vả, nhọc nhằn, kham khổ, vắt kiệt sức lực khiến người mẹ phải gầy gò, lam lũ. Người mẹ ấy hy sinh nhiều vô kể, mang nặng đẻ đau, đôi tay tảo tần giã gạo, đôi làm chiếc gối, tấm lưng làm chiếc nôi và hát ru con ngủ bằng cả trái tim yêu thương tràn đầy.
Hơn thế nữa, người mẹ cũng là 1 trong những người dân tham gia lao động sản xuất ở chiến khu, đang bám từng tấc đất để vừa lao động tăng gia sản xuất, vừa phục vụ kháng chiến. Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên hình ảnh ảnh người mẹ thông qua những câu thơ sau:
-” Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,”
-” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Ở đây, nhà thơ đã vận dụng rất thành công thủ pháp tương phản để làm nổi bật sự lớn lao mênh manh của núi rừng, đồng thời làm nổi bật được hình ảnh vất vả tảo tần của người mẹ. Tấm lưng mẹ tuy nhỏ nhắn nhưng bền bỉ thậm chí còn kiêu hãnh hơn lưng núi, bởi trên lưng mẹ có “mặt trời” là người con yêu thương, đây là hình ảnh ẩn dụ gợi lên thật sâu sắc, cảm động tình mẹ yêu con. Con là nguồn sống, là năng lượng tiếp sức cho mẹ trong công việc lao động vất vả, cũng giống như ánh mặt trời là nguồn sống, chiếu sáng cho cây bắp được sinh tồn và phát triển.
Đặc biệt hơn hết, ta còn thấy hình ảnh của người mẹ hiện lên trên chiến trường, hình ảnh này là một sự phát triển tất yếu của người mẹ từ vị trí hậu phương, phục vụ kháng chiến thầm lặng, thì hôm nay mẹ tham gia vào cuộc kháng chiến một cách mạnh mẽ hơn, trực tiếp hơn, mẹ giúp bộ đội “chuyển lán”, “đạp rừng”, “giành trận cuối” với quân Mỹ trong kháng chiến.
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”
Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến ngày càng trở nên ác liệt hơn, mọi tầng lớp, lứa tuổi đều đứng dậy cầm vũ khí để đấu tranh, thì người mẹ cũng giã từ góc sân giã gạo, ngọn đồi tỉa bắp để tham gia trực tiếp và cuộc kháng chiến, mẹ đi “chuyển lán”, mẹ đi “đạp rừng” vốn là những công việc còn khó khăn, gian khổ gấp trăm lần. Nhưng người mẹ ấy vẫn địu đứa con của mình ở trên lưng, mẹ đi đến đâu giấc ngủ của con theo tới ấy, mẹ cùng con đi “giành trận cuối”, đi ra chiến trường, băng rừng lội suối vượt cả Trường Sơn. Có thể thấy người mẹ và đứa con luôn gắn bó song hành cùng nhau ở mọi hoàn cảnh, nương tựa vào nhau cùng chiến đấu với niềm tin một ngày mai cách mạng giành chiến thắng.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật thú vị và đặc sắc, tiêu biểu cho những người phụ nữ anh hùng chịu thương chịu khó, phục vụ cho cách mạng, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thương con sâu sắc luôn tràn đầy trong trái tim ấm nóng. Trong tâm hồn người mẹ luôn “lưu trú” một niềm tin mãnh liệt rằng mai đây đất nước lại hòa bình, con của mẹ sẽ sống trong hạnh phúc và tự do, thì ngày hôm nay đây mẹ vất vả đến bao nhiêu cũng là xứng đáng.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 3
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là 1 trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại 1 số ít khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát.
Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội:
“Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”
Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.”
Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ.
Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng – những người dân lao động nghèo đói:
“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.
Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước: “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do:
“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do”.
Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.
Theo lời ru (và cũng là tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của người mẹ Tà Ôi, không gian cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Lưi (khi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ước mơ, khát vọng của người mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần: “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần” đến “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”… Từ mong muốn “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến “Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi” cuối cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng “Mai sau con lớn làm người tự do”.
Tinh thần, không khí sục sôi của đất nước trong những năm tháng đánh Mĩ đã đi vào lời hát ru của những bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có con nhỏ vào cuộc chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã “lớn trên lưng mẹ” đi “đến chiến trường” và trong số họ không ít những người đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru với những điệp khúc đã trở đi trở lại nhưng vẫn có sự biến hoá phát triển, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện thật sinh động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật khát vọng mãnh liệt độc lập tự do của toàn dân tộc.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 9
Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại đã qua đi gần nửa thế kỷ nhưng những giá trị chân thật nhất, đẹp đẽ nhất của nó thì còn mãi, không chỉ lưu truyền trong sử sách mà trong sâu thẳm tiềm thức người Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Bởi làm nên kỳ tích chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ không chỉ là những người ra trận trực tiếp cầm súng mà còn là sự hy sinh, dâng hiến thầm lặng của biết bao bà mẹ Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược, chính họ đã nuôi dưỡng tinh thần, tình yêu và hy vọng, tiếp sức cho những người lính tiền phương.
Và hình ảnh người mẹ Tà Ôi trong bài hát “Lời ru trên nương” là một vẻ đẹp như thế, bình dị mà lớn lao, cao đẹp. “Lời ru trên nương” là một bài hát được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc từ bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tôi còn nhớ một lần thật may mắn được nghe thi sĩ “Mặt đường khát vọng” nói chuyện về thơ, thi sĩ có nhắc lại bối cảnh ra đời của “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Bài thơ được sáng tác rất nhanh trong một hoàn cảnh khá đặc biệt: năm 1971, nhà thơ là người lính chiến trường. Vì đối chọi vị hết gạo, nhà thơ cùng 1 số ít anh em đồng đội đi gùi gạo ở cơ sở của ta. Nhìn những bà mẹ Tà Ôi vừa địu con vừa giã gạo, dành dụm những hạt gạo trắng ngần cho bộ đội, nhà thơ liên tưởng đến sự vất vả, nhọc nhằn và những hy sinh lớn lao của họ. Về đến đối chọi vị, chưa kịp đặt gùi gạo xuống, với chiếc khăn mặt lau mồ hôi, Nguyễn Khoa Điềm ngồi ngay vào bàn và viết “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Bài thơ mang tên là “Khúc hát ru”, khi chuyển thành bài hát, nhạc sĩ Trần Hoàn vẫn lưu giữ tứ chủ đạo của nó qua việc đặt tên cho bài hát là “Lời ru trên nương”. Âm chủ của bài thơ – bài hát được liền mạch từ đầu đến cuối, đó là lời ru – lời ru của người mẹ Tà Ôi. Điểm mới mẻ đầu tiên là có hai người ru em Cu Tai – tác giả và người mẹ. Hai người ru, hai lời ru – những lời ru cứ quấn quýt, vỗ về, vuốt ve qua giai điệu chậm, nhẹ nhàng, tha thiết, đậm chất dân gian dân tộc Tây Nguyên. Với điệu thức adur (La trưởng), nhạc sĩ đề cao kỹ thuật thanh nhạc khi luyến láy, khi mở ra âm vực rộng, qua lời ru hiện thực cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến và ước mơ giản dị nhưng cao cả được mở ra:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Và cuối cùng là ước mơ được thăng hoa, trở thành khát vọng không chỉ của người mẹ Tà Ôi mà là niềm mong ước cháy bỏng của người dân Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam đánh Mỹ: Mai sau con lớn làm người tự do. Cách kết cấu trùng lặp: hiện thực gắn với ước mơ, lời ru và ngợi ca đã làm cho khúc hát có một sự hòa thanh mới lạ.
Đi qua giai điệu tha thiết, mượt mà, sâu lắng của lời ru đến đoạn hai nốt nhạc trở nên hoạt bát, tiết tấu nhanh, trong sáng đưa ta về với người mẹ em Cu Tai – một người mẹ lao động cần mẫn, say sưa và rất giàu tâm hồn. Công việc mà chị làm vừa có nét truyền thống: giã gạo, phát rẫy lại vừa cò nét hiện đại: đạp rừng chuyển lán, giúp bộ đội nuôi quân đánh Mỹ. Đây không phải là những công việc bình thường của người mẹ trong gia đình. Công việc ấy mang một ý nghĩa khác thường, đó là việc nhà, việc nước, việc kháng chiến, việc cách mạng. Giã gạo, đạp rừng, phát rẫy – mẹ làm những công việc nhọc nhằn ấy để nuôi bộ đội, nuôi dân làng và góp sức mình đánh giặc. Vì vậy mẹ không chỉ là người mẹ riêng của em Cu Tai mà là người mẹ chiến sĩ, cao hơn là người mẹ Tổ quốc đẹp đẽ, lớn lao.
Những lời ru của mẹ – “tim hát thành lời”, đó là tình cảm của mẹ, là khát khao ước vọng của mẹ gửi gắm vào con trai mình. Điều mới ở đây là tình mẫu tử thiêng liêng không chỉ dành cho người con duy nhất của mẹ. Tình thương đó dành cho bộ đội, cho dân làng, và cho đất nước. Hiện tại, tương lai gần, tương lai xa của con trai đều gắn liền với dân làng, với cuộc kháng chiến của cả đất nước, dân tộc.
Một lời ru trên nương, một khúc hát ru nhưng là khúc hát ru hiện đại nên không có những “sung chát đào chua”, không có những “cánh cò đi đón cơn mưa” trong cơn giông tối tăm mù mịt. Cũng không có những hình ảnh tươi đẹp của cuộc sống thanh bình. Hiện ra trong khúc hát ru là nỗi gian khổ, vất vả, nhọc nhằn cùng với nhưng hy sinh lớn lao cao cả: mồ hôi mẹ rơi rơi, vai mẹ gầy nhấp nhô.
Thấp thoáng, ẩn hiện trong giai điệu lời ru còn là hình tượng nghệ thuật tấm lưng của mẹ. Lưng đưa nôi, và lưng chính là nôi. Tấm lưng trần của người mẹ Tà Ôi gắn chặt với con trai trong mọi công việc vất vả, nặng nhọc, tấm lưng ấy nhỏ, không to như lưng núi nhưng bền bỉ như lưng núi và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng. Và sau hết “Từ trên lưng mẹ em đến trường”, đến đây ta hiểu vì sao Nguyễn Khoa Điềm lại đặt tên cho bài thơ là “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, và gánh chịu tất cả nỗi vất vả gian lao để giành chiến thắng. Người mẹ Tà Ôi, người mẹ Việt Nam mãi mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ sáng tạo. “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Lời ru trên nương” là một bản nhạc đẹp trong bản giao hưởng lớn về người mẹ Việt Nam anh hùng.
Nhân ngày gia đình Việt Nam, bài ca “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” giúp ta hiểu thêm: cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi và công cuộc đổi mới trong xây dựng đất nước hôm nay thu được những thành công bởi có 1 trong những phần quan trọng sự hy sinh của những người mẹ anh hùng ấy.
Bài văn phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi số 6
Nguyễn Khoa Điềm với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Ông viết tác phẩm giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai miền Bắc Nam. Thời kì mà cuộc sống của nhân dân vô cùng gian nan thiếu thốn. Tác phẩm viết về hình ảnh người mẹ dân tộc thật đẹp.
Qua hình ảnh người mẹ Tà Ôi mà người đọc sẽ cảm nhận được bóng dáng và phẩm chất cao đẹp của người mẹ Việt Nam anh hùng. Những người phụ nữ chịu thương chịu khó giàu đức hi sinh và tình yêu thương vô bờ bến. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quý và đất nước thân thương; nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất, cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Bài thơ là khúc hát ru, tác giả ru cho em Cu Tai ngủ nhưng đồng thời cũng là miêu tả hình ảnh người mẹ. Những lời ru của người mẹ trong tác phẩm là những lời ru thầm sâu thẳm trong trái tim người mẹ chứ nó không được cất lên thành lời. Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại 1 số ít khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát.
Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội:
Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Giấc mơ của người con cũng chính là ước mơ của mẹ, tất cả hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội cụ Hồ. Tình thương vô bờ bến và niềm hi vọng của người mẹ đối với đứa con được tác giả sử dụng những hình ảnh vô cùng độc đáo. Với hình ảnh người mẹ Tà Ôi địu con tỉa bắp trên núi Kai Lưi:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.
Tác giả khéo léo sử dụng hình ảnh mặt trời vào những câu thơ này. Cùng là mặt trời nhưng ở mỗi câu thơ lại là một cách miêu tả khác nhau của tác giả. Mặt trời trong câu thơ trên là hình ảnh mặt trời thực tế, mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, muôn loài, cụ thể ở đây là những cây ngô cho nhiều bắp to. Còn hình ảnh mặt trời ở câu thơ sâu là hình ảnh mặt trời ẩn dụ. Tác giả nói em Cu Tai là mặt trời của mẹ. Tình yêu thương con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều.
Con là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng – những người dân lao động nghèo đói:
Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi.
Hình ảnh người hiện lên ngày càng đẹp. Mẹ địu con trong tư thế chuyển lán, đạp rừng. Mẹ địu con đi đánh trận cuối. Lòng yêu con của mẹ đến đây đã gắn liền với tình yêu quê hương đất nước. Thương con bao nhiêu thì mẹ thương đất nước bấy nhiêu. Mẹ gửi gắm vào giấc mơ của đứa con nhỏ, niềm khao khát được gặp Bác Hồ và hơn hết là mông đất nước sớm được độc lập tự do.
Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do
Người mẹ Tà Ôi không cất tiếng hát ru bên cánh võng hay chiếc nôi mà tiếng hát ru ấy được ngân lên trong trái tim người mẹ khi địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. hình ảnh một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc được hiện lên rõ ràng trong những câu văn của Nguyễn Khoa Điềm.
Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ. Theo bước chân của người mẹ, không gian cũng được mở rộng dần từ sân khi mẹ giã gạo đến ngọn núi Kai Lưi khi mẹ đi tỉa bắp rồi cả những con suối. Ước mơ, khát vọng của mẹ cũng được gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nghĩa ấy càng lúc càng lớn dần.
Một đất nước mà văn học dân gian đã đúc kết thành một câu như đinh đóng cột: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, thì những người phụ nữ anh hùng giỏi nuôi con, giỏi đánh giặc luôn luôn có mặt ngoài cuộc đời. Cùng với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác đương thời, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần hoàn chỉnh thêm tượng đài bất tử về người mẹ chiến sĩ trong thời kì kháng chiến vừa gần gũi, thân thương vừa cao cả,vĩ đại. Hình tượng ấy vẫn luôn lặng lẽ toả sáng bồi đắp tình yêu tổ quốc cho bao thế hệ con người Việt Nam.
Có thể bạn thích: