Nhân vật là linh hồn của tác phẩm văn học. Chính nhân vật là yếu tố dẫn dắt bạn đọc đi theo từng diễn biến của cốt truyện, đưa ta đến với thế giới tình cảm và những thông điệp mà người nghệ sĩ gửi gắm vào trong tác phẩm của mình. Có lẽ, chúng ta đã được nghe kể về những câu truyện cổ tích hấp dẫn từ ngày còn nhỏ với những nhân vật vố cùng độc đáo. Truyện cổ An-đéc-xen đã từng đi qua biết bao tuổi thơ của con người. Nó gợi lên cho người đọc trí tưởng tượng phong phú, đồng thời cũng gửi gắm trong đó nhiều thông điệp của tác giả. Không ai có thể quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ trong “Cô bé bán diêm” cùng một kết thúc buồn nhưng nhẹ nhàng, giàu tình người. Mời các bạn tham khảo một số bài văn cảm nhận, phân tích về nhân vật cô bé bán diêm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 8
Tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An- Đéc- Xen là một tác phẩm vô cùng sâu sắc thể hiện cái nhìn nhân sinh vô cùng nhân văn của tác giả An- Đéc-Xen một con người luôn gắn liền với những đứa trẻ trên toàn thế giới. Câu chuyện gợi lên một thế giới mà trong đó những đứa trẻ phải chịu cuộc sống lam lũ, lầm than, chịu nghèo khổ cơ cực, mà không ai đoái thương, giúp đỡ, dẫn tới cái chết thương tâm của cô bé tội nghiệp đó.
Cô bé bán diêm khốn khổ của chúng ta đã chịu những tổn thương về thể chất cũng như tinh thần một cách nặng nề. Trong cuộc sống không có gì buồn bã, tủi hổ hơn việc bị bỏ rơi, bơ vơ lạc lõng trước cuộc đời này. Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” của nhà văn An- Đéc- Xen đã gợi lên trong lòng người đọc những xót xa nghẹn ngào trước những cảnh đời lầm than cơ nhỡ.
Câu chuyện xoay quanh đêm cuối năm, vào đêm giao thừa giây phút thiêng liêng của một năm. Khi mà năm mới sắp bước sang và năm cũ qua đi mang theo những hy vọng mới cho con người về những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Trong bão tuyết, mưa gió, trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông. Có một cô bé bán diêm vô cùng tội nghiệp. Cô bé ấy đi chân không dưới nền tuyết lạnh giá, đầu không có mũ, chiếc áo khoác mỏng manh. Em đi trong mưa tuyết, những cơn gió thổi qua rét run cầm cập.
Em luôn miệng mời những người qua đường mua cho mình những bao diêm nhỏ. Nhưng không có ai đoái thương, mua giúp em một bao diêm nhỏ. Từ sáng tới giờ em cũng chưa được bố thí cho mẩu bánh mì hay vài đồng tiền lẻ nào, bụng em cồn cào vì đói, hai bàn tay lạnh cóng, tê cứng. Em nhìn vào những ô cửa sổ trong những ngôi nhà sáng đèn kia. Họ đang vui vẻ sum vầy bên nhau bên mâm cơm gia đình thật hạnh phúc, cạnh đó có lò sưởi, có cây thông nô-en lung linh sắc màu. Trên bàn ăn có rất nhiều món ngon, có súp nóng và thịt ngỗng quay, béo ngậy…
Hai hình ảnh vô cùng đối lập khiến cho câu chuyện càng thêm bi kịch. Nếu trước đây An- Đéc- Xen đã từng viết rất nhiều câu chuyện cổ tích hay dành cho các bạn nhỏ. Trong những câu chuyện cổ tích đều kết thúc vô cùng có hậu, người hiền lành sẽ gặp may mắn, kẻ độc ác gian ngoan sẽ phải trả giá. Nhưng trong câu chuyện này dường như tác giả An-Đéc- Xen muốn khai thác một khía cạnh khác của xã hội, một khía cạnh hiện thực đáng phê phán đó chính là sự vô tâm của con người trước nỗi đau của đồng loại. Sự hờ hững của người lớn với những mảnh đời bất hạnh éo le như cô bé bán diêm.
Cảnh ngộ của cô bé bán diêm trong đêm cuối năm khiến cho trái tim người đọc thắt lại vì đau đớn. Trong khi mọi người, mọi nhà đều hưởng niềm vui quây quần hạnh phúc bên nhau thì em bé bán diêm tội nghiệp của chúng ta phải chịu đói chịu rét ngoài kia trong đêm giao thừa. Đường đêm càng lúc càng vắng người bởi chẳng ai muốn ra đường vào giờ này. Nếu có phải đi thì tất cả đều rất vội vàng mau mau chóng chóng để trở về nhà, nên chẳng ai quan tâm tới em bé khốn khổ của chúng ta.
Em cũng không thể về nhà khi chưa bán được đồng nào. Nếu bây giờ em quay trở về nhà em sẽ bị cha mình đánh đập bởi em không mang tiền về thì ông ấy không có gì mua rượu uống. Cô bé bán diêm ngồi thu mình vào trong khe nhỏ của hai ngôi nhà. Cô bé nghĩ mình thử bật một que diêm sưởi ấm đôi tay đang lạnh cóng. Khi ánh sáng que diêm vút lên cô bé của chúng ta nhìn thấy một bàn đầy thức ăn, có đủ các món ngon chưa từng thấy. Với cái bụng trống rỗng vì đói, thì việc cô bé đáng thương của chúng ta mơ một bữa ăn nó là điều vô cùng dễ hiểu.
Rồi khi que diêm vụt tắt trả cô bé lại với khoảng đường tối tăm, những cơn gió tuyết thổi qua mặt. Cô bé lại quẹt que diêm thứ hai lên, trong lần này cô nhìn thấy một cái lò sưởi, ánh sáng và hơi nóng của nó làm em vô cùng thích thú vì ấm áp. Nó sưởi ấm cơ thể và tâm hồn đang buốt lạnh của em. Rồi que diêm thứ ba được quẹt, em nhìn thấy một cây thông nô-en lung linh trên đó có treo rất nhiều món quà to nhỏ khác nhau, rồi có cả đèn xanh đỏ nhấp nháy vô cùng đẹp mắt.
Cô bé quẹt que diêm thứ tư trong lần này cô bé của chúng ta nhìn thấy người yêu thương duy nhất của mình. Đó chính là bà ngoại của em. Bà là người luôn thương em, nhường phần ăn của mình cho em, sưởi ấm tâm hồn cô 1-1 của em. Nhưng từ năm ngoái bà đã qua đời bỏ lại em với ông bố độc tài, suốt ngày chỉ biết say rượu rồi đánh đập em. Em nhìn thấy bà, em muốn đi theo bà nên em đã gọi lớn “Bà ơi đợi cháu với” Trong giây phút đó em thấy bà mỉm cười với mình bà ôm em vào lòng rồi nắm lấy tay em. Hai bà cháu cùng nhau bay lên trời.
Mỗi que diêm đều thể hiện một mong muốn ước mơ của cô bé bán diêm tội nghiệp. Ánh sáng của que diêm đã sưởi ấm tâm hồn em. Nó mang lại cho em những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ngắn ngủi rồi vụt tan biến. Sáng hôm sau, ngày đầu tiên của năm mới người ta nhìn thấy xác một đứa bé lang thang nằm trong khe tường của hai ngôi nhà. Trên môi cô bé vẫn nở nụ cười mãn nguyện.
Cho dù tác giả An- Đéc- Xen đã cho cô bé bán diêm của chúng ta một cái chết vô cùng nhẹ nhàng mãn nguyện, nhưng đâu đó chúng ta vẫn cảm nhận được sự tàn nhẫn của con người đối với nhau. Chính sự tàn nhẫn của người xung quanh, sự lãnh cảm của mọi người mà em bé của chúng ta đã phải rời khỏi trần gian tìm nơi nương náu ở miền cực lạc nào đó.
Hình ảnh cô bé bán diêm để lại cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về những số phận bất hạnh trong cuộc sống.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 9
Truyện của An-đéc- xen luôn chiếm được sự yêu thương của các bạn nhỏ trên toàn thế giới. Trong những câu chuyện mà tác giả An- đéc- xen viết đều có một kết thúc vô cùng có hậu. Nhưng trong truyện “Cô bé bán diêm” kết thúc câu chuyện khiến cho người đọc vô cùng xót xa khiến cho người đọc ám ảnh mãi.
Nhân vật xuyên suốt một truyện “Cô bé bán diêm” là nhân vật cô gái bán diêm. Một cô bé bất hạnh không được nhận tình yêu thương trong cuộc sống. Cô bé bán diêm không được học hành tới trường như những người bạn cùng trang lứa, mà cô phải ra đường mưu sinh trong thời tiết vô cùng lạnh giá. Cô bé bán diêm không phải trẻ mồ côi nhưng lại bất hạnh hơn cảm trẻ mồ côi. Cô bé còn ba nhưng ba không yêu thương cô bé. Ba của cô bé luôn đánh đập cô mỗi khi cô không bán được diêm không mang tiền về cho ông ta đi uống rượu. Người thân yêu thương duy nhất của cô bé là bà ngoại thì bà đã mất từ năm ngoái. Nên cô bé bán diêm vô cùng bơ vơ trong cuộc đời này.
Hình ảnh cô bé bán diêm xuất hiện trong 1 thời gian vô cùng đặc biệt càng làm cho câu chuyện trở nên vô cùng đặc sắc. Trong đêm giao thừa cuối năm, trong khoảnh khắc mà nhà nhà người người đang chờ đón giây phút đặc biệt của năm. Ai cũng vội vàng muốn về nhà thật nhanh để cùng người thân của mình dùng bữa tối và cùng chào đón khoảnh khắc năm mới đang tới. Cô bé bán diêm đi bán diêm trong tuyết rơi. Chân cô không mang giày, đầu không có mũ, một chiếc áo mỏng khoác thân. Từ sáng tới giờ cô bé tội nghiệp của chúng ta chưa có gì bỏ bụng bởi không ai cho cô một cái gì dù chỉ là một mẩu bánh mì. Cũng không ai mua giúp cho cô một bao diêm nào. Cô bé có nghĩ tới việc quay về nhà nhưng cô lại sợ bị ba mình đánh nếu không có tiền cho ông ta đi uống rượi. Một cô bé nhỏ bé tuổi còn quá nhỏ để phải tự mình nuôi thân, nhưng em lại phải chịu quá nhiều đau khổ. Số phận của em thật bất hạnh gợi lên trong lòng người đọc thật nhiều cảm xúc vô cùng xót xa.
Trong màn tuyết phủ ngày càng nhiều, nhưng cơn gió tuyết thổi vào mặt lạnh buốt cô bé bán diêm đi trong đêm tối với chiếc bụng trống rỗng của mình. Cô bé mời mọi người mua diêm nhưng không ai có thời gian để quan tâm tới thân phận của cô bé. Cô bé bán diêm nhìn vào trong những ngôi nhà sang trọng, đèn sáng trưng. Trong mỗi ngôi nhà đều có cây thông nô en với đèn lấp lánh. Trên những chiếc bàn ăn mọi người cùng vui vẻ thưởng thức bữa tối có ngỗng quay, súp nóng, và họ có lò sưởi thật ấm áp và hạnh phúc. Cô bé bán diêm đã dừng lại và ngồi ở một khe nhỏ giữa hai ngôi nhà sát nhau để tránh những cơn gió rét thổi vào người mình. Cô bắt đầu cảm thấy lạnh cóng và rút những bao diêm nhỏ ra và quẹt lên những ánh sáng nhỏ nhoi sưởi ấm cho bàn tay của mình.
Trong que diêm thứ nhất cô bé nhìn thấy một chiếc lò sưởi thật ấm áp. Với một cô bé đang đói và lạnh thì việc được sưởi ấm cơ thể là một mong ước vô cùng chính đáng vào lúc này. Khi que diêm vút tắt trả lại cô bé tội nghiệp trở lại với khoảng không gian tối đen. Trong que diêm thứ hai cô bé nhìn thấy mình ngồi trên một bàn ăn sang trọng và được ăn một bữa tối thịnh soạn với món ngỗng quay. Trên bàn ăn còn được bày nhiều đồ dùng dao dĩa sáng loáng bằng bạc. Trong que diêm thứ ba cô bé bán diêm của chúng ta nhìn thấy một cây thông noen vô cùng lấp lánh được trang hoàng thật đẹp mắt. Cô bé nhìn thấy những hộp quà treo trên đó vô cùng đẹp mắt. Một cây thông no-en mà chưa bao giờ cô bé nhìn thấy.
Trong que diêm thứ tư cô bé bán diêm đã nhìn thấy bà ngoại của mình. Người luôn yêu thương bao bọc cho cô bé bán diêm. Nhưng bà của cô bé đã lên thiên đàng, cô bé đã nhìn thấy bà của mình xuất hiện và bà ôm cô bé vào lòng vỗ về che chở. Cô bé bán diêm đã khóc rất nhiều vào đòi đi theo bà của mình. Sáng hôm sau người ta tìm thấy xác của một em bé tội nghiệp bị lạnh cóng và xung quanh vẫn còn tàn của những que diêm. Đối với những người bình thường thì đó thật sự là sự ám ảnh. Nhưng đối với cô bé đó là sự giải thoát cô bé được đi gặp bà mình và thoát khỏi cuộc sống đau khổ.
Nhân vật cô bé bán diêm đã để lại trong lòng người đọc vô cùng nhiều ám ảnh bởi một kết thúc vô cùng đáng suy nghĩ cho chúng ta, sự lạnh lùng của con người chúng ta đã làm cho một cô bé ra đi trong tủi hờn, buồn khổ.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 3
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Nô-en lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì “trời đã tối hẳn” mà “tuyết rơi” không ngừng, và “rét dữ dội”. Khác thường là vì: “Đêm nay là đêm giao thừa” nghĩa là 1 thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và 1 năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó “một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối”. Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào” thì “em không thể nào về nhà”, bởi lẽ khi đó “nhất định là cha em sẽ đánh em”.
Bởi vì từ khi “Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”. Hơn nữa “ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà”. Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. “Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả”. Vì thế “suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường”. Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: “bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý” và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. “Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít”.
Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Mùi ngỗng quay nhắc em “đêm nay là đêm giao thừa”. Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. “Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”. “Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp “đã cứng đờ ra”. Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”. Và “em đánh liều một que”. Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”.
Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang “tỏa ra một hơi nóng dịu dàng”. Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. “Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm”. Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai “cháy và sáng rực lên”. Que diêm cho em thấỵ: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì “thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”.
Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại “những bức tường dày đặc và lạnh lẽo”. Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, “em bé quẹt que diêm thứ ba”. “Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en”, “cây này lớn và trang trí lộng lẫy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ”… Cây thông Nô-en gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nô-en cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi.
Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô-en cũng “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, “người hiền hậu độc nhất đối với em” thường nói: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. “Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em”, “em reo lên” và van xin bà “cho cháu đi với”, “cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy “chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em”. Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em “Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại”. Kết quả là “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh “một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang sống cũng không thể nào biết được “những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm’. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác.
Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 7
Có ai lớn lên mà chưa sống trong thế giới ca dao nghĩa tình của bà , trong những câu truyện cổ dân gian thơ mộng và cả những câu chuyện “đẹp như chính đời thực viết lên” của Andersen? Andersen đã không còn xa lạ với độc giả trên thế giới, nhất là trẻ em. Những câu chuyện của ông không chỉ để đọc mà để suy ngẫm và sống đẹp hơn. Một trong những nhân vật của Andersen đã đi vào tâm thức mọi thế hệ đó chính là cô bé bán diêm trong truyện cùng tên.
Những câu chuyện cổ tích của nhà văn Đan Mạch từ lâu đã có một vị trí không thể thay thế trong trái tim bạn đọc. Tác phẩm của ông nhẹ nhàng, trong sáng, toát lên tình yêu thương con người, mà thứ nhất là những người nghèo khổ. Qua đó, bày tỏ niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của những điều tốt đẹp trên thế gian. Cùng với “nàng tiên cá” hay “Bầy chim thiên nga”, “Cô bé bán diêm” là một tuyên ngôn của Andersen.
Cô bé bán diêm mồ côi mẹ từ nhỏ. Bà nội- người thương yêu em nhất cũng đã qua đời. Em phải sống với người cha cục cằn, thô lỗ trong mọt ngôi nhà tồi tàn. Cô bé còn phải bán diêm để kiếm sống. Đó là một số phận bất hạnh, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Đêm giao thừa, trời rét, tuyết rơi trắng xóa. Trong khi mọi nhà đều rực rỡ ánh đèn và sực nức mùi ngỗng quay thì cô bé nghèo khổ vẫn “đầu trần chân đất, bụng đói cật rét, lang thang kiếm sống”. Nghệ thuật đối lập đã tô đậm hoàn cảnh sống bất hạnh của cô bé bán diêm. Đó là một sinh linh bé nhỏ tội nghiệp bị bỏ rơi giữa dòng đời.
Phần cảm động nhất của câu chuyện không phải sự đáng thương của cô bé mà là khi tác giả nói về những mộng tưởng của cô bé bán diêm. Lúc đầu, em chỉ định quẹt một que diêm để sưởi cho đỡ rét và vui thích khi thấy ngọn lửa “xanh lam rồi trắng dần ra”. Từ niềm vui nhỏ nhoi ấy, cô bé đã bước vào những cơn mơ kì diệu. Lần thứ nhất quẹt diêm, một lò sưởi ấm ám sang trọng hiện ra. Đó là ước mơ của những thân phận nghèo khổ giữa mùa đông giá rét. Lần thứ hai quẹt diêm, một bàn ăn thịnh soạn bởi bát đĩa bằng sứ và có cả ngỗng quay đang mời gọi em. Đó là ước mơ được một bữa ăn no, ăn ngon trong những chuỗi ngày đói khổ, lang thang kiếm sống.
Lần thứ ba quẹt diêm, em thấy một cây thông Noel với hàng ngàn ngọn nến lung linh. Em ước mơ được sóng trong mái ấm gia đình, được vui chơi như bao người khác. Lần thứ tư quẹt diêm, em thấy bà nội hiền hậu đang mỉm cười. Đó là ước mơ được sống trong tình yêu thương. Sau bốn lần quẹt diêm, những ước mơ về vật chất và tinh thần, em đều đã được trải qua. Tuy nó thật ngắn ngủi nhưng cũng đã sưởi ấm tâm hồn và cả trái tim cô đơn, lãnh lẽo của em. Và em muốn thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ, buồn đau này. Vì thế em đã quẹt diêm lần thứ năm, và em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày. Em thấy bà nội to lớn và đẹp lão. Hai bà cháu cầm tay nhau và cùng về chầu Thượng Đế.
Hình tượng lấp lánh nhất trong bài là hình tượng ngọn lửa diêm. Mỗi ngọn lửa diêm thắp lên là thắp lên một ước mơ, khát vọng của tuổi thơ về một mái ấm gia đình. Ở đó, trẻ em được sưởi ấm, được vui chơi và được sống trong tình yêu thương. Thông qua đó, tác giả muốn bày tỏ sự cảm thông đối với những số phận bất hạnh, nghèo khổ trên thế giới. Thực tế, sau mỗi lần quẹt diêm, que diêm tắt.Chẳng có lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel và bà nội biến mất, chỉ còn lại đêm đông rét dữ dội và tuyết phủ trắng xóa, người qua đường lạnh lùng vô cảm và người cha cục cằn thô lỗ. Thực tế phù phàng thế, lại là cuộc sống mà cô bé phải đối diện hằng ngày. Vì thế, cô bé đã nghĩ đến cái chết. Vì chỉ có cái chết mới giúp em thoát khỏi sự khổ đau.
Cuối cũng, cô bé bán diêm đã chết ở một xó tường, trong đêm giao thừa, giữa những bao diêm đã đốt hết nhẵn. Cái chết vì đói, vì rét, vì tuyệt vọng và còn vì cả sự thờ ơ vô cảm của người đời. Thông qua cái chết của cô bé bán diêm, tác giả đã lên án tố cao xã hội thờ ơ, vô tình đối với những số phận nghèo khổ, bất hạnh. Từ đó, nhắc khẽ mọi người hãy biết san sẻ tình yêu thương với đồng loại. Nhà văn còn nhìn thấy cái chết của cô bé là cái chết thanh thản và mãn nguyện với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bởi với Andersen, cô bé sẽ tìm thấy hạnh phúc ở một thế giới khác.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng tuyệt vời, bên cạnh niềm vui còn lóng lánh những giọt nước mắt ở đời. Nhưng cuộc sống sẽ đẹp hơn bởi những trang văn, bởi những tấm lòng như Andersen.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 10
Một trong những nhà văn gắn liền tuổi thơ với trẻ em toàn thế giới mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng An-dec-xen. Và chắc hẳn trong chúng ta đều nhớ đến hình ảnh cô bé bán diêm, dường như khắc sau tấm trí mỗi người. Cô bé bán diêm nhưng chất chứa trong nhân vật ấy là những bài học đầy giá trị về cuộc sống và con người.
Nhân vật cô bé bán diêm là hình ảnh trung tâm, xuyên suốt toàn tác phẩm. nhà văn dựa vào đó mà truyền tải những thông điệp về cuộc sống đến người đọc. Nhà văn đã thành công khi xây dựng nên nhân vật điển hình cùng với bối cảnh trong tác phẩm một cách rất sinh động. Đó là hình ảnh ám ảnh về một cô bé tội nghiệp không nơi nương tự trong bầu không khí giá lạnh cắt da giữa đường phố tuyết, và càng cô độc hơn khi cô được đặt cạnh bầu không khí sum vầy của các gia đình. Trong không gian “Mọi nhà đều sang rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay” ấy thì cô bé bán diêm lại hồi tưởng lại những ngày sống trong quá khứ, khoảng thời gian bà còn sống, có dây thường xuân bám quanh ngôi nhà gợi lên sự ấm áp, hạnh phúc.
Và cuộc sống ngày xưa đó hoàn toàn đối lập với cuộc sống hiện tại em trải qua, cuộc sống với người cha đầy sự tối tăm và mùi của địa ngục. Dù lạnh đấy, đói đấy em rất muốn về nhà nhưng lại sợ bị cha đánh đòn vì chưa bán được hộp diêm nào. Cô bé hiện lên với đầy sự trẻ thơ nhưng sớm sống trong cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Chính thực tại đối lập ấy khiến em càng khao khát mãnh liệt một sự sum vầy đầm ấm trong những ngày đông: “chà! Bây giờ mà được quẹt một que diêm để sưởi ấm cho đỡ buốt nhỉ”.
Đối với ta đó chỉ một ước mơ nhỏ nhoi giữa chốn phồn hoa đô thị ngoài kia, nhưng chính chi tiết ấy cũng đủ để lấy đi nước mắt vì xót xa cho một đứa trẻ thơ mà bất hạnh. Và em đánh liều quẹt một que diêm “lúc đầu xanh lam,dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sang chói trông đến vui mắt”, thứ ánh sang nhỏ nhoi ấy làm em hạnh phúc phần nào. Nhưng sự khắc nghiệt của cái giá lạnh đã dập tắt đi ngọn lửa nhỏ đó.
Em tiếp tục quẹt que thứ hai với ước muốn có cuộc sống ấm no. khung cảnh “hàng ngọn lửa nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng” hiện lên tươi đẹp nhưng vẫn bị thời tiết kia làm lụi tàn mất.
Chỉ là một ngọn lửa bé nhỏ để sưởi ấm, chỉ là một chút ước mơ bé nhỏ để cuộc đời em có chút hi vọng nhưng tất cả đều bị chính môi trường bên ngoài, xã hội ngoài kia cùng với cái xô bồ…tất cả đã nhẫn tâm mà tước đi niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy. thật xót thương cho số phận trẻ thơ sớm đã phải lớn, sớm phải chịu cảnh đày đọa của cuộc sống. và cuối cùng thì em chỉ muốn được tin tưởng dựa dẫm vào chính người bà tin yêu đã mất của mình. Que diêm thứ ba xuất hiện chính là hình ảnh người bà cùng cánh tay đang chào đón em. Và em đã đi cùng bà về một miền của sự hạnh phúc, đi để không phải bị cuộc đời này vùi dập nữa. đó chính là giây phút em từ giã trần đời, nhà văn An-dec-xen đã nhân hóa, phóng đại hóa cái chết của em cũng chính là tấm lòng xót thương, xúc động, tình cảm thương mến dành cho em, dành cho bao đứa trẻ thơ bất hạnh ngoài cuộc đời kia nữa.
Bằng lối viết văn rất giản dị, ngôn ngữ trong sang mà nhà văn thiếu nhi An-dec-xen đã xây dựng thành công nhân vật cô bé bán diêm với tất cả niềm xót thương, yêu mến. Qua đó ta thêm hiểu hơn, biết trân trọng hơn về hạnh phúc dành cho con trẻ ngày nay
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 4
Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, khôn cùng và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé. Cô bé đã cạn kiệt về vật chất và bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Trong cuộc đời này còn có gì đau đớn hơn khi là một cô bé bị bỏ rơi, cô đơn, lẻ loi giữa trời.
Truyện Cô bé bán diêm của An-đec-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ và cái chết của cô. Trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé, lòng tôi như đau thắt lại. Có lẽ nào ta lại không cảm thấy xót xa khi nghĩ về hình ảnh cô bé một mình bơ vơ, giữa một không gian mênh mông trong đêm tối, rét cắt da, cắt thịt. Trong khi mọi người được sum vầy vui vẻ trong các căn nhà âm áp, bên lò sưởi kia, thì em bé phải một mình bán những bao diêm, em chẳng được ai quan tâm để ý. Cảnh ngộ đó của cô bé càng làm đau đớn tim ta hơn, vì nó lại xảy ra trong đêm giao thừa, khi tất cả niềm vui và sự đầy đủ ùa vào những căn nhà ấm cúng.
Chính lúc đó cô bé đầu trần, chân đi đất, run rẩy vì lạnh và đói. Sự đầm ấm của các gia đình hiện ra qua khung cửa sổ kia càng làm chúng ta xót xa cho cô bé khốn khổ tội nghiệp, không có lấy một chút hạnh phúc nào trong đêm giao thừa. Nhất là hình ảnh cô bé chỉ biết ngồi thu chân vào hốc tường mà hồi tưởng, mà ước mơ. Một que diêm bật sáng lên là cuộc sống quá khứ lại hiện về. Đó là những ngày sống vui vẻ, tràn đầy hạnh phúc bên bà nội hiền từ, nhân hậu như một bà tiên, trong ngôi nhà nhỏ xinh xắn có dây thường xuân bao quanh. Những que diêm tắt là một thực tại vô cùng nghiệt ngã, phũ phàng lại ập đến. Em đang phải sống trong trăm đường cơ cực, khổ sở.
Cả ngày phải đi bán diêm, nếu không bán được, đến tối về lại bị bố đánh đập. Và trong đêm giao thừa rét căm căm này em không dám về vì chẳng bán được một que diêm nào. Ngay cả những ước mơ nhỏ bé của em mà cũng chỉ thấy được qua mộng ảo. Mỗi một que diêm sáng lên ước mơ ở đây không phải là ánh sáng của một cây đèn hay của một nguồn ánh sáng gì to lớn. Nó chỉ là một ánh lửa diêm nhỏ bé, dễ dàng tắt lụi trong đêm băng tuyết.
Bởi vậy mỗi que bật lên sao có thể sưởi ấm được tấm thân và tâm hồn đã đông lạnh của cô bé. Nó chẳng qua chỉ là chỗ bấu víu cực kì mong manh của cô bé mà thôi. Em bé quẹt cả số diêm còn lại chính là để cố bám lấy những ước mơ đó. Trong khi chúng ta có đầy đủ những thứ đó thì cô bé bán diêm của An-đec-xen lại thiếu tất cả. Ngay cả giấc mơ đẹp nhất em cũng chỉ được thấy khi đã hấp hối.
Chúng ta càng trân trọng những ước mơ đó của em bao nhiêu lại càng đau đớn bấy nhiêu trước cái chết vô cùng thương tâm của em. Dẫu tác giả có tả em bé chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng, đôi môi đang mỉm cười, thì nỗi đau trong ta vẫn không thuyên giảm, mà thậm chí cứ nhắm mắt lại thì hình ảnh ấy lại càng day dứt ta hơn.
Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này, niềm đau thương vô hạn, như luôn nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn đầy của An-đec-xen.
Bài văn phân tích nhân vật cô bé bán diêm số 2
An-đéc-xen là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với thể loại truyện kể cho trẻ em, trong đó, tác phẩm quen thuộc với bạn đọc trên khắp thế giới phải kể đến là “Cô bé bán diêm”. Truyện hấp dẫn người đọc bởi sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, bên cạnh đó, hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa đã gợi cho chúng ta lòng thương cảm sâu sắc đối với một em bé nghèo khổ, đáng thương.
Trước hết, cô bé bán diêm có một hoàn cảnh bất hạnh, sớm đã mồ côi mẹ, bà là người yêu thương em nhất cũng bỏ em mà đi, sống với cha trong hoàn cảnh nghèo khổ, em phải đi bán diêm. Ngày qua ngày, cô bé với giỏ diêm trên tay lầm lũi đi qua từng góc phố, con đường, ngày nào không bán được, em sẽ bị người cha đánh mắng. Cô bé vừa thiếu thốn tình cảm lại phải chịu đựng cảnh bạo lực gia đình, chịu nhiều tổn thương cả về tinh thần lẫn thể xác. Trong đêm giao thừa, một đêm đặc biệt nhất, đêm kết thúc 1 năm và bắt đầu 1 năm mới, ngoài kia người ta sum vầy, quây quần bên nhau ấm cúng bao nhiêu thì cô bé bán diêm lại lẻ loi, 1-1 độc bấy nhiêu.
Giữa trời mưa tuyết rét mướt lạnh cóng, đôi chân trần của em lê hết các con phố ngõ ngách để bán những bao diêm, cả một ngày em chưa được ăn, phải chống lại cái lạnh, cái đói để bán diêm thế nhưng cũng không bán được bao diêm nào. Càng về đêm trời càng lạnh, cái lạnh và đói đang đày đọa em, dù có vậy em vẫn không dám về nhà, bởi “về nhà mà không bán được bao diêm nào”, không có tiền, em sẽ lại phải chịu đòn của cha, hơn nữa căn phòng trên gác mái của cha con em cũng chẳng khác gì ở ngoài trời.
Ở lứa tuổi của cô bé, chúng ta đang được quây quần bên ông bà, cha mẹ ăn những bữa tiệc thịnh soạn và chuẩn bị chào đón năm mới, ấy vậy mà em lại phải chịu sự thờ ơ, vô tâm và lạnh lùng đến đáng sợ của những người xung quanh. Họ không hề để ý đến em, chẳng ai quan tâm, đoái hoài đến hoàn cảnh và nỗi khổ của em. Em không nhận được sự yêu thương và đồng cảm từ mọi người, điều đó càng khiến ta cảm thấy xót xa cho tình cảnh đáng thương của cô bé bán diêm. Trái tim người đọc như thắt lại bởi hoàn cảnh của cô bé bán diêm quá đỗi thực tế, xã hội có rất nhiều em bé phải chịu cảnh như em, sớm đã phải chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh và khổ sở.
Nép mình vào một góc tường trên hè phố, cô bé bán diêm đáng thương quẹt những que diêm sưởi ấm cho đôi tay, đôi chân đã tê cứng vì lạnh. Từng que diêm được em đốt lên bằng cả niềm khao khát và ước muốn, ngọn lửa của que diêm hiện ra nào là bàn ăn thịnh soạn với ngỗng quay, nào là lò sưởi đang cháy và cây thông Noel đều là những thứ cần thiết trong hoàn cảnh đói rét bơ vơ của em. Cho đến khi gặp được bà trong ngọn lửa que diêm, em đã vui sướng biết bao, em khao khát được đi theo bà, cầu xin Thượng Đế cho em được ở cùng bà, và cuối cùng em đã được toại nguyện.
Tuy những que diêm chỉ mang lại những ảo ảnh nhưng lại là hạnh phúc thực sự đối với cô bé bán diêm, “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa”. Cái chết của em thật nhẹ nhàng, như một sự giải thoát cho kiếp người bất hạnh khốn khổ của em, thế nhưng nó phản ánh một sự thật đau lòng rằng em đã phải chết giữa dòng người vô tâm, lãnh đạm và thờ ơ, chính xã hội đó đã giết chết những con người như em, nếu người ta có tình thương, có lòng nhân ái có lẽ số phận của em đã khác.
Nhân vật cô bé bán diêm đã để lại trong lòng người đọc những hoài niệm, những suy nghĩ khôn nguôi về số phận con người, khơi dậy trong mỗi chúng ta lòng thương cảm đối với những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Chúng ta may mắn là những “chiếc lá” lành lặn phải có trách nhiệm giúp đỡ và đùm bọc cho những “chiếc lá” kém may mắn hơn, đó là lòng nhân ái và tình thương mà con người cần có dành cho nhau.
Có thể bạn thích: