Nhân vật Cụ Mết trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành không phải là nhân vật trung tâm dưới ngòi bút của nhà văn nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc tô thắm ý nghĩa tác phẩm. Cụ Mết cũng như những thế hệ đi trước là tinh thần của dân tộc, là lịch sử, là người giữ lửa và truyền ngọn lửa cho các thế hệ trẻ chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Cụ Mết mãi là cây xà nu đại thụ của núi rừng Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích nhân vật cụ Mết mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 6
Nếu như trong tác phẩm “Người lái đò” của nhà văn Nguyễn Tuân đã vẽ nên một nhân vật ông lái đò dũng cảm, hiên ngang chiến đấu với sức mạnh của thiên nhiên, thì cụ Mết của tác giả Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng xà nu được nổi bật lên bởi sự vững chắc, rắn rỏi được tạc nên bởi núi rừng Tây Nguyên.
Không được tập trung khai thác như nhân vật Tnú, thế nhưng cụ Mết vẫn gây được những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Ngay từ khi xuất hiện, một vị già làng dưới ngòi bút của tác giả được thể hiện qua những chi tiết “một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt”, hay “mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng… ngực căng như một cây xà nu lớn”. Bằng nghệ thuật miêu tả, hình ảnh cụ Mết hiện lên đầy oai hùng, vững chãi, tràn đầy sức mạnh cả về sức khỏe lẫn tinh thần.
Không chỉ thế, núi rừng mạch nguồn Tây Nguyên đã làm nên cho cụ một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”. Những lời cụ nói như ra lệnh, không bao giờ cụ khen tốt hay giỏi nếu vừa ý thì nói “Được”. Lời nói của cụ đã truyền sức mạnh vào trong những bài giảng về lịch sử oanh liệt của dân làng Xô Man, tiếng nói thiết tha trang nghiêm khi răn dạy con cháu “Nghe rõ chưa các con? Rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy”.
Đặc biệt, sức mạnh ấy đã được bùng nổ khi cụ ra mệnh lệnh chiến đấu khi hay tin Tnú bị giặc đốt cháy mười ngón tay: “Chém! Chém hết”. Giọng nói của cụ là tiếng của cả dân tộc, là tiếng nói của lịch sử, đã dẫn dắt biết bao thế hệ lớn lên, trưởng thành và biết chiến đấu vì đất nước.
Cụ Mết còn là một người có tình yêu sâu sắc, gắn bó máu thịt với quê hương. Cụ dạy Tnú, cùng các thế hệ sau rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn”. Cụ luôn nhắc nhở những người con xa quê rằng: dù đi tới phương trời nào cũng phải luôn ghi nhớ và trân trọng về cội nguồn dân tộc.
Cụ luôn tự hào vì được sinh ra và lớn lên cùng với nắng gió Tây Nguyên, cùng với những rặng xà nu bạt ngàn luôn hiên ngang trước sóng gió. Cụ khẳng định rằng: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Với cụ Mết, từng giọt nước ta uống, từng bát cơm ta ăn mà đất nước mang lại đều thật đẹp đẽ và đáng trân trọng biết bao.
Chính vì những tư tưởng ấy, cụ đã dẫn dắt dân làng Xô man cùng những bài giảng giáo dục hết sức vẻ vang về lịch sử dân tộc. Cụ am hiểu về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc “đánh thằng Mỹ phải đánh lâu dài”. Đặc biệt hơn nữa, cụ là một người có tính kỉ luật rất lớn khi tổ chức, chỉ huy dân làng lánh vào rừng đợi thời cơ đánh giặc: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa, ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông”.
Trong suốt thời kỳ chống Mỹ, cụ đã trở thành một chỗ dựa vững chắc cho dân làng Xô man. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi “đánh mỹ phải đánh dài”. Tuy trong lòng cụ sục sôi vì nỗi căm thù quân giặc, nhưng cụ vẫn giữ bình tĩnh, sáng suốt để tìm ra con đường đúng đắn nhất để lãnh đạo dân làng chiến đấu. Tinh thần của cụ luôn hừng hực, khí thế tựa như những đại đại thụ Xà nu tại chốn rừng Tây Nguyên.
Với vẻ ngoài hào kiệt, uy nghi là thế, cụ lại mang trong mình một trái tim dạt dào tình yêu thương với dân làng. Khi Tnú được trở về chỉ với những đốt tay còn sót lại sau khi bị giặc đốt, cụ kìm nén những cảm xúc đau buồn để khích lệ anh “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”.
Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, cụ cũng không kìm nổi sự căm phẫn tiếc thương, cụ thương cho những người con, người cháu vô tội của cụ đã bị giết bởi những tên giặc mạn rợ, cụ thương cho cuộc đời của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”. Trải qua biết bao sự mất mát, chia ly bởi bom đạn, cụ vẫn phải rơi những giọt nước mắt bởi dân làng, người thân của cụ. Chính cử chỉ vụng về ấy đã bộc lộc trái tim nhân hậu, yêu thương đồng bào của cụ. Cụ đã trở thành ngọn lửa sưởi ấm trái tim, xoa dịu nỗi đau của biết bao con người. Cụ Mết chính là linh hồn của cả một dân tộc Việt Nam và dân làng Xô Man nói riêng.
Hình ảnh cụ Mết tuy ít xuất hiện trong bài, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành, nhân vật cụ Mết với những phẩm chất ưu tú hơn người, đã mang trọn những tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên. Trong lịch sử của chúng ta, không có ít người như cụ Mết, thế nhưng hình ảnh của cụ già làng sánh vai cùng cây xà nu đại thụ trong Rừng xà nu sẽ sống mãi cùng mọi thế hệ.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 4
Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.
Với nhân dân làng Xô Man, cụ Mết chính là già làng, người cao tuổi nhất đồng thời là người đại diện cho nguyện vọng của cộng đồng, là người kết tinh sức mạnh, ý chí của cộng đồng. Đồng thời cụ Mết cũng chính là người trực tiếp kể cho dân làng Xô Man về Tnú. Là một người già làng, có tiếng nói đầy quyền úy khiến cho những chi tiết lien quan đến cuộc đời Tnú trở nên chân thực, khách quan. Hơn nữa lối kể và giọng điệu mang đậm chất sử thi của cụ, khiến cho câu chuyện về người anh hùng Tnú càng trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Cụ mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.
Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xù lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, những tác giả đã cho thấy, dù cụ mất đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.
Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ, kiên cường của cụ Mết, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má.
Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.
Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều đấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiệm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.
Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng.
Từng lời chậm chãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại. Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại.
Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát ngôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.
Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyên mỗi lúc một hào hùng hơn.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 5
Trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành, nếu được hỏi nhân vật nào là một chứng nhân lịch sử đi cùng những biến cố thời đại và con người của dân làng Xô Man thì có lẽ câu trả lời chính là cụ Mết. Dù không xuất hiện nhiều hay được miêu tả nhiều trong câu chuyện tuy nhiên cụ Mết lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của Tnú, của quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man.
Cụ Mết là một già làng, có thể nói là trưởng làng của buôn làng Xô Man. Cụ là người đàn ông mạnh mẽ, nghị lực và đầy khí phách. Khí phách của cụ đã được tác giả miêu tả qua ngoại hình: cụ có khuôn mặt quắc thước, đôi mắt đen sáng, râu dài tới ngực và có bộ ngực cường tráng, tiếng nói vang ồ ồ trong lồng ngực. Cách miêu tả ngoại hình của cụ Mết cũng cho thấy đây là một con người rất mạnh mẽ, dứt khoát và đầy khí thế. Cụ là người đứng đầu buôn làng Xô Man, đóng vai trò cầm cân nảy mực, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của người dân trong buôn làng.
Cụ Mết cũng là nhân vật được miêu tả đậm chất sử thi, tính sử thi được biểu hiện thông qua con người cụ từ ngoại hình, tính cách đến hành động của cụ. Cụ rất nghiêm nghị, quắc thước. Khi Tnú về thăm làng, cụ yêu cầu mọi người ngồi vây quanh mình, im lặng để cụ kể chuyện về cuộc đời của Tnú. Và tất cả mọi người kể cả người già, kể cả trẻ nhỏ quả nhiên đã ngồi lặng im lắng nghe từng câu nói của cụ Mết.
Cả cuộc đời của Tnú, không có chặng đường nào là không có sự chứng kiến của cụ Mết. Có thể nói, nếu câu chuyện của Tnú là câu chuyện của một cuộc đời, của một thời đại thì cụ Mết cũng chính là một phần quan trọng trong đó, cụ còn là người chứng kiến và lưu truyền câu chuyện đó cho những thế hệ tiếp theo.
Khi Tnú còn nhỏ mồ côi cha mẹ, Tnú lớn lên trong vòng tay bảo bọc của dân làng Xô Man, Tnú cùng Mai nuôi giấu cán bộ trong rừng, tất cả những điều đó một mình Tnú không thể tự làm mà phải có sự định hướng, ủng hộ và giúp đỡ của người dân trong làng Xô Man đặc biệt là cụ Mết.
Khi Tnú chứng kiến vợ con mình chết và chính bản thân anh cũng lao ra để rồi bị giặc tra tấn thì cụ Mết chính là người cầm quân, dẫn đầu buôn làng tiến lên chiến đấu. Tiếng nói của cụ Mết như là một hiệu lệnh mà tất cả bà con trong buôn làng đều nghe theo. Cụ hô hào mọi người đứng dậy và bản thân cụ là người đi đầu, trực tiếp lao vào quân địch mà chiến đấu.
Mỗi khi ai đó làm tốt một việc gì, cụ chỉ gật đầu khen “được” đó là một câu nói chất chứa nhiều cảm tình nhưng cũng đầy hi vọng vào tương lai, muốn con cháu của buôn làng phát huy hơn nữa, không tự kiêu mà bỏ quên nhiệm vụ. Con người cụ Mết là vậy nên luôn được Tnú kính trọng, được cả dân làng Xô Man kính trọng. Tnú khi về cũng đến thăm và chào hỏi cụ, lắng nghe cụ nói với một thái độ cung kính. Dân làng thì chỉ chờ và làm theo những hiệu lệnh của cụ. Coi cụ như một hình mẫu mực thước để tất cả cùng noi theo.
Con người cụ Mết, cũng giống như Tnú cũng như những cánh rừng xà nu đều hiên ngang bất khuất, mang đậm dấu ấn sử thi kiên cường vững chãi trước bão tố cuộc đời, trước hoàn cảnh lịch sử đầy tai biến. Cụ Mết một lòng trung thành với Đảng, với cụ Hồ, với cách mạng. Khi thấy Tnú về và đạt được những chiến tích nhất định trong chiến đấu, cụ mừng lắm, cụ luôn tỏ thái độ tôn kính đối với Bác, với cộng sản. Cụ dù tuổi đã cao nhưng vẫn là một cây xà nu đại thụ giữa cánh rừng xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Nguyên.
Nếu không có cụ Mết có lẽ câu chuyện về cuộc đời Tnú, về buôn làng Xô Man sẽ không được kể hoặc sẽ được kể trên một phương diện khác, cái nhìn khác. Cụ Mết chính là người giữ lửa, truyền lửa, truyền tinh thần yêu nước, nhiệt huyết cách mạng đến tất cả các thành viên trong buôn làng Xô Man. Cụ cũng là một biểu tượng anh hùng, một con người sử thi đối với câu chuyện Rừng xà nu nói riêng và đối với cả buôn làng Xô Man nói chung.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 9
Trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược đã có rất nhiều những truyện ngắn được ra đời, các tác phẩm thông qua những hình ảnh, nhân vật mà tái hiện lại một thời kì chiến tranh ác liệt. Tiêu biểu cho các tác phẩm viết về giai đoạn này đó là tác phẩm Rừng xà nu (1965) được in trong tập trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, tác phẩm là sự ghi dấu về hiện thực của nhân dân đồng bào Tây Nguyên anh dũng chiến đấu chống đế quốc Mĩ, cuộc chiến không chỉ là của riêng thế hệ trẻ dân làng Xô-man Tnu, Dít, Mai, bét Heeng… Mà còn là sự lãnh đạo của người đứng đầu làng là Cụ Mết. Một biểu tượng chung cho sức mạnh và sự bền bỉ trong chiến tranh của làng Xô-man.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình tượng dân làng Xô Man yêu nước.
Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiện của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…”
Nhà văn đã tập trung miêu tả ngoại hình từ ngay những dòng văn đầu tiên nói về cụ. Cụ Mết hiện lên với một thân hình khỏe mạnh, hùng tráng; bộ râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng cho thấy cụ mang dáng dấp đúng của một người già làng, đôi mắt sáng xếch ngược hiện lên một con người có trí tuệ tinh nhanh và uy cường.
Với chút miêu tả đó nhà văn cũng đã phần nào chứng tỏ được Cụ Mết là sức mạnh của núi rừng Tây Nguyên. Nhưng không chỉ dừng lại đó nhà văn còn miêu tả về giọng nói của cụ Mết với một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của cụ mà còn khẳng định sự lãnh đạo và chỉ huy được đám đông làng Xô-man.
Cụ Mết là đại diện cho vẻ đẹp cha ông. Cụ là một già làng sáng suốt, ông là thế hệ những con người trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống quân thù của dân tộc ta. Ông đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt và trường tồn sang kháng chiến chống Mĩ.
Cụ là người có sức ảnh hưởng lớn đối với dân làng, Cụ hiểu được tầm quan trọng của cán bộ Đảng ta “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì nước còn”. Nhưng để hiểu vì sao cụ Mết lại có niềm tin sâu sắc vào Đảng thì đó chính là nhờ vào sự am hiểu tường tận và giành giọt đường lối kháng chiến. Không chỉ là phương châm kháng chiến lấy bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng ( chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo).
Qua ngòi bút của nhà văn cụ Mết hiện lên là một con người có lòng yêu dân làng, yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Tiêu biểu cho sự giáo dục của cụ là bé Heeng – bé Heeng đã tiếp thu truyền thống của anh T-nú qua cách giáo dục của cụ Mết. Trong lòng cụ T-nú hiện lên chân thật “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
Cụ thương những người dân làng Xô-man như người thân trong nhà với một sự đùm bọc, lãnh đạo che trở cho tất cả các thành viên. Từ đó, mà cụ trở thành người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa tự do, và là linh hồn cho cuộc đồng khởi của dân làng Xô- man.
Qua ngòi bút của tác giả, hình ảnh cụ Mết hiện lên là một người già làng, hết lòng tin tưởng Đảng và theo Đảng. Cụ Mết mãi là hình tượng không chỉ cho thế hệ trẻ kháng chiến chống Mĩ noi theo mà còn cho cả thế hệ trẻ ngày nay trong việc yêu quê hương, đất nước và xây dựng một đất nước ngày một tốt đẹp.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 7
“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí nên câu quân hành”(Tố Hữu)
Hai câu thơ trên nhắc tôi nhớ về tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình tượng tập thể người dân làng Xô Man truyền dạy, lưu giữ và tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác tinh thần dân tộc và phẩm chất con người. Trong đó, thế hệ đầu tiên – lớp người đau thương nhất và ý thức sâu sắc nhất về con đường cách mạng với đại diện là cụ Mết để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc.
Nguyễn Trung Thành là cây bút thuộc về đất và người Tây Nguyên. Tuy quê đất Quảng, nhưng hình ảnh đất và người Tây Nguyên trong trang văn Nguyễn Trung Thành chân thực, sống động và lấp lánh bản sắc anh hùng. Truyện ngắn “Rừng xà nu” cũng tương tự như một cuốn sử thi.
Tuy nhiên, ở đó không tập trung làm bật lên hình tượng tù trưởng như Đăm Săn, Xinh Nhã mà là hình tượng tập thể các thế hệ làng Xô Man anh hùng. Thế hệ đầu tiên, người còn lại gần như là duy nhất – cụ Mết. Do vậy khi khắc họa hình tượng nhóm thế hệ đời đầu, Nguyễn Trung Thành tập trung vào khắc họa nhân vật cụ Mết.
Nhắc lại về vị trí nhân vật, cụ Mết là nhân vật tiêu biểu cho lớp già làng dân làng Xô Man, tựa cây xà nu đại thụ. Cụ Mết như chứng nhân lịch sử, là pho tàng kinh nghiệm sống, là bộ biên niên sử của một thời “đất nước đứng lên”. Hơn ai hết, các thế hệ sau coi cụ Mết như cây cột vững chắc để nương tựa tinh thần và niềm tin vào cách mạng. Cụ Mết dạy con cháu lẽ phải, điều đúng. Lời cụ Mết như lời sấm truyền chân chính thay phát ngôn về tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.
Về ngoại hình, cụ Mết có vẻ đẹp ấn tượng. Dáng hình cụ Mết tương ứng với một cây xà nu đại thụ: “ngực căng như một cây xà nu lớn”, râu “đã dài tới ngực và vẫn đen bóng”, “bàn tay chắc nịch nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ cây”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo láng bóng”… Đặc biệt, cụ Mết có “giọng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực” tựa âm hưởng núi rừng đại ngàn, kết tinh mọi trầm tích văn hóa.
Về tính cách, cụ Mết là người tuyệt đối trung thành với cách mạng. “Đảng còn thì núi nước này còn”. Cụ Mết yêu dân làng hết mực, tin yêu vào thế hệ con cháu. Cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch ấy lên vai Tnú vừa động viên vừa đặt niềm tin trọn vẹn. Cụ Mết thực hiện đúng nghĩa vụ truyền lại cho con cháu truyền thống và phẩm chất con người Tây Nguyên. Nhân vật đã lấy chính bản thân và hình ảnh thế hệ cha anh còn sống như Tnú để giáo dục con cháu.
“Nhớ lấy… ghi lấy…”, “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất vùng”… những lời cụ Mết là tâm huyết của cả thế hệ. Cùng với việc truyền đạt truyền thống, phẩm chất, cụ Mết còn đúc kết triết lí sống và chân lí cách mạng nhắc nhở thế hệ trẻ: “Đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo”…
Tóm lại, nhân vật cụ Mết là hội tụ khí thiêng sông núi, in đậm dấu vết siêu phàm của ông già trong truyện thần thoại nhưng cũng vô cùng gần gũi, thân thương. Nguyễn Trung Thành đã sử dụng hệ thống ngôn từ linh hoạt, giàu sức biểu cảm cùng nghệ thuật xây dựng không gian đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn để phục dựng chân dung một cụ Mết thần thoại. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã khẳng định tài năng và vị trí Nguyễn Trung Thành trong nền văn học kháng chiến 1945-1975 bên cạnh nhiều cái tên khác như Nguyễn Thi, Nguyễn Khải hay Nguyễn Minh Châu.
Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.
Với nhân dân làng Xô Man, cụ Mết chính là già làng, người cao tuổi nhất đồng thời là người đại diện cho nguyện vọng của cộng đồng, là người kết tinh sức mạnh, ý chí của cộng đồng. Đồng thời cụ Mết cũng chính là người trực tiếp kể cho dân làng Xô Man về Tnú. Là một người già làng, có tiếng nói đầy quyền uy khiến cho những chi tiết liên quan đến cuộc đời Tnú trở nên chân thực, khách quan. Hơn nữa lối kể và giọng điệu mang đậm chất sử thi của cụ, khiến cho câu chuyện về người anh hùng Tnú càng trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Cụ Mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.
Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xà nu lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, nhưng tác giả đã cho thấy, dù cụ Mết đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.
Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ, kiên cường của cụ Mết, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má.
Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.
Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều đấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiệm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.
Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng. Từng lời chậm chãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại.
Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại.
Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát ngôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.
Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyễn mỗi lúc một hào hùng hơn.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 10
“Rừng xà nu” là tác phẩm mang đậm màu sắc sử thi khi tái hiện đầy chân thực khí phách, tinh thần anh hùng của những con người Tây Nguyên anh hùng. Bên cạnh nhân vật Tnú, sự xuất hiện của cụ Mết góp phần làm cho chất sử thi thêm đậm nét.
Cụ Mết là già làng, người đứng đầu của làng Xô Man, cụ là pho sử sống, biểu tượng cho sức mạnh của truyền thống, của tinh thần đấu tranh bất khuất của con người Tây Nguyên, là khúc sông thượng nguồn làm điểm tựa tinh thần vững chắc cho dân làng Xô Man qua nhiều thế hệ.
Cụ Mết xuất hiện trong tác phẩm với dáng vẻ uy nghiêm, mạnh mẽ của người đứng đầu một bản làng. Đó là một già làng “quắc thước, đôi mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở bên má phải vẫn lãng bóng…ngực căng như một cây xà nu lớn” cùng nét cương nghị đầy mạnh mẽ “một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt”.
Xây dựng nhân vật cụ Mết với những đường nét nghiêm nghị, vững chãi, tràn trề uy lực tinh thần là cách nhà văn Nguyễn Trung Thành lí giải về địa vị, sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ của nhân vật cụ Mết đối với cộng đồng người dân làng Xô Man.
Giọng nói của cụ Mết “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”, những lời nói của cụ giản dị mà vô cùng dứt khoát, thể hiện được sự quyết đoán, mạnh mẽ của một người đứng đầu. Đặc biệt, cụ Mết rất ít khi khen một ai đó, khi vừa ý nhất cụ Mết cũng chỉ nói “được”, đây là nét tính cách đặc biệt, thể hiện được sự kì vọng cao của cụ Mết đối với người khác cũng như đối với chính mình.
Giọng nói của cụ cũng có khả năng dẫn dắt đối với dân làng Xô Man, đó là những tiếng hô hào khi làng Xô Man nổi dậy cứu Tnú, cũng là tiếng trầm và lặng như tiếng vọng của rừng núi khi cụ kể về cuộc đời nhiều biến cố của Tnú, về những chiến thắng oanh liệt của làng, và cũng là những lời nhắc nhở đầy nghiêm khắc của cụ đối với con cháu: “Nghe rõ chưa các con? Rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy…”.
Cụ Mết là một người có tình yêu nước sâu sắc, có ý thức gắn bó máu thịt với quê hương, làng bản. Cụ luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp của làng bản, về sức mạnh của rừng xà nu “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” hay “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.
Cụ luôn hướng về ánh sáng của cách mạng, tin tưởng tuyệt đối với cách mạng, cụ luôn dặn dò con cháu “ Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Từ tấm lòng yêu quê hương, bản làng, Cụ Mết đã đến với cách mạng và dẫn dắt những con người làng Xô man đi theo cách mạng, đấu tranh giải phóng cho làng bản, quê hương.
Trái với vẻ ngoài quắc thước, nghiêm nghị, cụ Mết lại là con người giàu lòng yêu thương đối với Tnú cũng như dân làng Xô man. Sau ba năm đi lực lượng, khi trở về làng thăm lại quê hương, bà con, cụ Mết đã tiếp đón Tnú như một người cha già đối với người con đi xa lâu ngày, cụ khích lệ, động viên Tnú “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”, nhìn xuống bàn tay Tnú cụ lại xót xa, thể hiện sự căm hận với sự bạo tàn của kẻ thù “ ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ”.
Khi được tặng gói muối từ những người đi xa, cụ không giữ lại cho riêng mình mà chia đều cho những người trong làng, để dành cho những người đau ốm. Dù chỉ là hạt muối bé nhỏ nhưng lại là vị mặn đậm đà của tình người trong trái tim của cụ.
Cụ Mết vững chãi, mạnh mẽ như một cây xà nu cổ thụ, là chỗ dựa vững chãi cho người dân trong làng.
Cụ là người sáng suốt, nhìn xa trông rộng khi động viên dân làng lo dự trữ lương thực để đủ ăn tới ba năm bởi “đánh Mĩ phải đánh dài”. Trước cái chết của vợ con Tnú, chứng kiến cảnh Tnú bị tra tấn, dù vô cùng đau đớn nhưng cụ Mết vẫn sáng suốt vì biết rằng nếu chỉ hai bàn tay không thì chẳng thể cứu nổi gia đình Tnú, vì vậy cụ đã vào rừng tìm thanh niên, tìm giáo mác để đồng loạt nổi dậy giết chết kẻ thù.
Cụ Mết là già làng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, người dẫn dắt sáng suốt cho cả một cộng đồng. Theo dõi câu chuyện về Tnú, hình ảnh cụ Mết hiện lên thật đẹp, gợi liên tưởng đến những già làng, trưởng tộc trong sử thi, thần thoại, trong những bản trường ca anh hùng của Tây Nguyên xưa.
Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong “Rừng xà nu” số 8
Đọc Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta không chỉ ấn tượng với một Tnú kiên gan, dũng cảm nhưng cũng rất giàu tình yêu thương. Mà ta còn ấn tượng một già làng hết sức kiên cường, bất khuất, là sợi dây là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là người tiếp lửa và truyền lửa cho thế hệ mai sau.
Dù chỉ là một nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng cụ Mết có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy nên ngoại hình cũng như tính cách nhân vật luôn được nhà văn hết sức chú trọng.
Đọc những đoạn văn nói về cụ Mết, ta ấn tượng về một người già làng mạnh mẽ, quyết đoán, tuy lớn tuổi nhưng còn mạnh khỏe và hết sức minh mẫn: “một bàn tay trắc nịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt” những từ nhữ miêu tả khác như “quắc thước” “mắt sáng và xếch ngược” “vết thẹo ở má bên phải vẫn láng bóng” “ngưng căng như một cây xà nu lớn” đã cho thấy sức vóc, cũng như thần trí tinh thông của cụ.
Qua sự miêu tả của tác giả ta có thể thấy cụ Mết là người đàn ông từng trải, sắc sảo, kiên cường, có uy lực mạnh mẽ đối với cộng đồng. Những lời nói, lời chỉ huy của cụ hết sức mạnh mẽ, quyết đoán khi thì “vang” để kêu gọi đồng bào đứng lên khi lại “trầm và nặng” để kể về quá khứ lịch sử, để khắc sâu vào tâm khảm thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc, khơi dây lòng căm thù giặc. Lời khen đối với cụ là điều vô cùng hiếm hoi, ai làm tốt lắm, cụ cũng chỉ khen một chữ “được”. Yêu cầu cao đối với người khác như vậy, chứng tỏ bản thân cụ cũng rất khe khắt với chính mình.
Sâu thẳm trong tâm hồn người có vẻ ngoài kiên cường, cứng rắn ấy lại là con người có tình yêu quê hương sâu sắc, sự gắn bó sâu nặng với quê hương. Tình yêu quê hương được thể hiện qua những câu nói hết sức chân thành “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” “gạo người Strá mình làm ra là ngon nhất núi rừng này”. Đối với cụ Mết bất cứ sơn hào hải vị nào cũng không thể sánh được với sản vật quê hương.
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt, cụ Mết chính là cây xà nu lớn, là chỗ dựa tinh thần cho bản làng, để đưa đường chỉ lối cho nhân dân. Cụ là người đem Đảng đến với mọi người, cụ trung thành tuyệt đối với cách mạng. Đối với cụ “cán bộ là Đảng.
Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ gắn sinh mệnh của nhân làng với sinh mệnh của Đảng, từ đó nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người phải hết mình cống hiến cho đảng, tiêu diệt giặc Mĩ. Trong năm tháng kháng chiến gian khổ với Mĩ, cụ cũng là người có tầm nhìn xa trông rộng, cụ luôn động viên, dặn dò mọi người dự trữ lương thực, bởi cuộc chiến với giặc Mĩ là cuộc chiến trường kì.
Nếu như Tnú có đôi lúc vì tình thân mà có những hành động cảm tính thì cụ Mết lại là người hết sức tỉnh táo, sáng suốt trong việc nhận định tình hình. Cụ có thể khống chế cảm xúc của bản thân trong những lúc gay go, quyết liệt nhất để đưa ra những hành động chính xác, đứng đắn lãnh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh. Trước trận đòn roi mà Mai phải chịu đựng, cụ đã có quyết định hết sức sáng suốt “Tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tạo quay vào rừng … tìm bọn thanh niên …tìm giáo mác”. Ý chí sáng suốt đó của người đứng đầu đã giúp dân làng chiến thắng lại kẻ thù tàn bạo.
Trong quá trình đấu tranh sẽ xảy ra biết bao đau thương mất mát. Kể lại với con cháu, cụ Mết không chỉ nhắc lại những đau thương, những chiến thắng ta đạt được, mà còn khái quát quy luật trong chiến đấu, trong cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Sự khái quát đó là vô cùng chính xác và đúng đắn với lịch sử cách mạng nước nhà. Khi quân thù xâm lược, ta không thể nhún nhường, nhượng bộ mà phải sử dụng bạo lực cách mạng để giành lại tự do, độc lập cho muôn dân.
Cụ Mết là một hình tượng đẹp đẽ, là người đứng đầu, người dẫn dắt chỉ lối cho thế hệ mai sau. Với ngòi bút miêu tả đặc sắc, chân thật tác giả đã tạc lại cho bạn đọc một chân dung thật sống động về người già làng của người Tây Nguyên. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành thể hiện tấm lòng ca ngợi chân thành với những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc kháng chiến trường kì với đế quốc Mĩ.
Có thể bạn thích: