Nam Cao một cây bút tài năng và một trái tim chan chứa lạ kì, đã đau, đã hiểu, đã day dứt biết bao nhiêu trước cảnh đời của những trí thức tiểu tư sản nghèo đầy tâm huyết, yêu thương. “Đời thừa” là một trong các những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Tác phẩm đã rất thành công trong việc phân tích bi kịch của nhân vật thời kì trước cách mạng, đồng thời bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của nhà văn Nam Cao. Ông đã dùng trí tuệ của trái tim để dựng lên tấn bi kịch đầy tinh thần, đầy nước mắt của nhân vật Hộ. Mời các bạn tham khảo 1 số ít bài văn phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 10
Nam Cao là nhà văn nổi tiếng với rất nhiều quan điểm nghệ thuật đặc sắc được xem như tuyên ngôn của nền văn học Việt Nam. Tiêu biểu nhất phải kể đến câu: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”. Và trong tác phẩm Đời thừa, một tác phẩm rất nổi tiếng viết về người trí thức trong xã hội cũ, nhà văn đã tự mình bước vào bi kịch cuộc đời nhân vật Hộ để cảm nhận và cho ra một tác phẩm đậm tính nghệ thuật và nhân văn sâu sắc.
Câu chuyện là bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ mà tiêu biểu đó là nhân vật Hộ. Vậy bi kịch là gì? Bi kịch là những mâu thuẫn xung đột trong cuộc đời của một con người, một nhân vật và thông thường giải quyết mâu thuẫn xung đột ấy là những kết thúc đầy đau thương hoặc một cái kết mở. Soi vào nhân vật Hộ, ta thấy ở nhân vật này có hai cái bi kịch lớn cũng là bi kịch chung của giới trí thức Thứ nhất, là bi kịch đớn đau của một nhà văn một nhà tri thức, ở con người Hộ hiện lên với hình ảnh một chàng trai trẻ trung, có hoài bão, có tài năng, muốn sống có ích, nhưng thực tế cuộc sống đã xô đẩy anh thành một người vô ích, đời thừa. Hộ vốn là một người say mê văn chương và trở thành một niềm say mê lý tưởng, nghèo trong xã hội cũ.
“Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất”. Ở chàng trai này niềm say mê văn chương còn tới mức “Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”. Nhưng nếu niềm say mê ấy chỉ đến thế thì vẫn chưa lấy gì làm cao đẹp lắm, vẫn chưa phải là một vẻ đẹp hoàn hảo duy mỹ của lý tưởng, điều khiến Hộ trở nên không tầm thường trong lớp trí thức thời bấy giờ ấy là Hộ muốn sống có ích bằng văn chương tâm huyết của mình. Nhân vật Hộ khác với các nhà văn đương thời viết văn chương chỉ vì văn chương hay nghệ thuật chỉ là nghệ thuật, thì anh lại có suy nghĩ và quan điểm hoàn toàn khác, anh mong rằng tác phẩm của mình phải có ích cho xã hội, góp phần làm tốt đời đẹp đạo chứ không chỉ solo thuần là thứ giấy mực đẹp mà trống rỗng.
Hộ luôn “băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời…”, đó sẽ là tác phẩm chứa đựng những cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, ca tụng tình thương cao cả giữa con người với con người, khiến con người gần nhau hơn. Nhưng trong thực tế, tất cả những cái gì Hộ hằng suy nghĩ và mong ước trong bỗng chốc lại bị gạt đi bởi nỗi lo bình thường thậm chí là tầm thường đó là cơm áo gạo tiền cho vợ, con. Hộ không thể để vợ con đói nheo nhóc được, trước chỉ có mình Hộ thì sao cũng được, nhưng bây giờ anh còn đèo vòng cả mấy miệng ăn, cái lương tâm và trách nhiệm của người chồng, người cha không cho phép anh làm như vậy. Và cũng chính cái trách nhiệm ấy đã đẩy Hộ vào con đường viết những thứ văn chương nhạt nhẽo, nông cảm, chẳng có chút tình cảm gì, đi xa hẳn so với lý tưởng của anh để cốt kiếm được đồng tiền nuôi vợ con.
Hộ đau đớn vì không được viết và không thể viết những tác phẩm mà anh mong muốn bởi điều kiện và hoàn cảnh không cho phép anh ngồi ngẫm nghĩ suy tư cả tháng trời cho một tác phẩm ý nghĩa, anh chỉ có thể viết nhanh viết gọn rồi nhận nhuận bút cho xong. Cuộc sống đã khiến anh phải vật lộn, dồn ép tinh thần người trí thức vào bước đường cùng cực, đôi lúc đọc lại những bài văn ký tên mình Hộ bỗng thấy xấu hổ đỏ cả mặt. Hộ dằn vặt tự trách bởi “chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự độc ác rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Cuối cùng xét lại, Hộ chính là đời thừa của xã hội, đời thừa của gia đình, bởi anh trở thành gánh nặng tình cảm trong gia đình, và xót xa hơn nữa Hộ chính là đời thừa của chính bản thân hắn bởi hắn đã gần như đánh mất tài năng thậm chí là đánh mất nhân cách nữa.
Bi kịch thứ hai của nhân vật này cũng không kém phần đau đớn xót xa, đó là bi kịch của một con người có nhân cách có tình thường, coi tình thương là một nguyên tắc sống hết sức thiêng liêng, nhưng cuối cùng lại tự chà đạp lên tình thương đó một cách thô bạo, đánh dấu sự nhuốm đen trong nhân cách của nhân vật Hộ. Hộ đã đến với Từ trong một tình cảnh rất éo le, Từ bị nhân tình bỏ rơi cùng đứa con đỏ hỏn, anh đã đứng ra nhận là chồng của Từ, là cha của đứa trẻ. Anh đã cứu vớt không chỉ cuộc đời Từ mà còn là danh dự của cô, tình cảm giữa Hộ và Từ không solo thuần chỉ là tình cảm trai gái mà còn là tình thương yêu giữa con người với nhau.
Đối với Từ, Hộ là ân nhân mà cả đời Từ có làm trâu ngựa cũng chẳng thể đền đáp hết, Hộ đã mang đến cho Từ một mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương giữa lúc Từ cảm thấy cô solo và tuyệt vọng nhất. Hộ với một tình thương và tấm lòng cao cả đã lo toan công việc trong ngoài, đồng thời còn giúp Từ lo cả đám ma cho người mẹ già mà không hề than vãn. Đối với các con Hộ cũng có những tình cảm rất tha thiết và ấm áp “Ðối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm…”. Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Hộ đã hy sinh hoài bão nghệ thuật vì tình thương, đấy là một sự hy sinh to lớn biết chừng nào, Hộ là người có tấm lòng rộng lớn biết bao nhiêu. Mặc dù cũng có đôi lúc Hộ nghĩ “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”, nhưng nghĩ tới vợ và mấy đứa con thơ Hộ không làm được, Hộ không thể ích kỷ được.
Hộ không thể thực hiện được lý tưởng văn chương của mình nên vẫn âm thầm nuôi nỗi hận, sự trăn trở khôn nguôi, có thể nói cái niềm say mê văn chương chưa bao giờ chết hẳn trong Hộ mà nó vẫn luôn tồn tại, cháy âm ỉ trong tim người trí thức và khi có điều kiện nó sẽ bùng lên làm bỏng lòng tự trọng của Hộ, Và để giải thoát khỏi nỗi đau đớn luôn giày vò, Hộ đã tìm đến rượu những tưởng sẽ quên đi những sầu đau ấy, nhưng không rượu đã biến Hộ trở thành những con người tầm thường cả về trí tuệ và nhân cách. Hộ đánh mắng và xua đuổi Từ và con cái, những người mà Hộ đã dùng tất cả những tình thương yêu để cưu mang chăm sóc, thậm chí là từ bỏ cái lý tưởng văn chương vĩ đại của mình. Hộ từ một người với nguyên tắc sống vì tình thương giờ đây lại đang đi vào bước đường xa rời nguyên tắc ấy, thậm chí sắp đánh rơi nhân cách của mình.
Có thể thấy bi kịch của Hộ chính là tiêu biểu cho bi kịch của lớp tri thức tiểu tư sản trong xã hội cũ, khi cách mạng tháng tám chưa thành công. Tác phẩm Đời thừa đã đem đến một cái nhìn tổng quan không chỉ là về bi kịch của nhân vật mà còn thông qua đó bày tỏ những quan điểm nghệ thuật đắt giá trong văn chương, đồng thời cũng đem đến những giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc và hiện thực.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 1
Nam Cao, một nhà văn lớn và tài năng của văn học Việt Nam, gắn với cuộc đời của những trí thức nghèo trước cách mạng tháng Tám. Các tác phẩm của ông chính là những “thước phim bom tấn” về bi kịch cuộc đời con người bị tha hóa, “Đời thừa” là một tác phẩm tiêu biểu. Bi kịch trong “Đời thừa” được thể hiện qua “vai diễn” của nhân vật Hộ, đó không chỉ là bi kịch về gánh nặng cơm áo gạo tiền, mà còn là người nghệ sĩ phải chà đạp lên nghệ thuật chân chính, là người cha người chồng phải chà đạp lên chính nguyên tắc tình thương do mình đề ra.
“Văn sĩ Hộ” hay nhân vật Hộ trong tác phẩm là một nhà văn, người nghệ sĩ nghèo nhưng mang trong mình biết bao ước mơ, hoài bão lớn lao và có lí tưởng sống cao đẹp. Nhà văn Hộ luôn khao khát có cho mình những tác phẩm lớn, mang những giá trị vĩ đại, vượt thời gian, thế nhưng cái nghèo đói đã níu kéo và ràng buộc khao khát đó của Hộ. Lấy vợ vào là cuộc đời Hộ bị trói buộc và rơi vào hoàn cảnh khốn khổ, Hộ đành tạm gác lại hoài bão của mình để chăm lo cho gia đình nhưng sự mâu thuẫn trong lương tâm người làm văn và nỗi lo cơm áo đã biến Hộ trở thành một kẻ vũ phu, một vòng luẩn quẩn uống say – đánh đập vợ con – ân hận cứ thế xoay vần khiến anh rơi vào cuộc đời bế tắc, không lối thoát.
Cuộc đời Hộ chính là bi kịch “đời thừa” – sống vô ích, vô ý nghĩa và vô tích sự, thừa thãi. Trước hết, bi kịch của Hộ chính là bi kịch của một nhà văn trẻ tài năng có tâm huyết với nghề, nuôi trong mình ước mơ hoài bão cao đẹp “gã trẻ tuổi say mê lí tưởng… khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất”, nghệ thuật đối với Hộ là tất cả, ngoài nghệ thuật chẳng còn gì đáng để bận tâm.
Trong xã hội thời bấy giờ, nét nổi bật khiến Hộ trở nên không tầm thường chính là sống có ích bằng chính văn chương tâm huyết của mình. Những nhà văn khác viết văn chỉ vì văn chương hoặc nghệ thuật nhưng với Hộ, anh viết văn vì mong tác phẩm của mình có ích cho xã hội, củng cố đạo đức cho đời “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”… Tất cả đó chỉ là suy nghĩ của Hộ, thực tế những ước mơ của Hộ đã bị gạt phắt đi bởi cơm áo tầm thường. Trong hoàn cảnh có vợ có con, phải lo cho gia đình, Hộ không thể chỉ nghĩ cho mình, anh phải kiếm tiền lo cơm áo cho vợ con, phải làm tròn trách nhiệm và lương tâm của mình.
Trách nhiệm cao cả ấy đã đẩy Hộ đi đến con đường viết văn chương một cách nhạt nhẽo, nông cạn và thô thiển, khác xa với lí tưởng và tâm huyết của anh, chỉ cốt viết sao cho kiếm được nhiều tiền. Tinh thần của văn sĩ Hộ bị bức ép, dồn đến chân tường bởi cuộc sống, nhiều khi đọc lại văn của mình anh tự cảm thấy xấu hổ, trách mình là một thằng khốn nạn “là một kẻ bất lương”, “đê tiện”. Người nghệ sĩ như Hộ đã trở thành “đời thừa” trong xã hội, trong chính bản thân mình khi đánh mất tài năng và nhân cách của mình.
Bi kịch thứ hai của Hộ là bi kịch của một người có nhân cách, sống tình cảm nhưng lại chà đạp lên chính tình thương của mình. Vợ của Hộ là Từ, hai người đến với nhau trong hoàn cảnh éo le, Hộ đã cưu mang Từ cả đứa con đỏ hỏn của cô khi cô bị nhân tình bỏ rơi, nhận làm chồng và làm cha đứa trẻ. Hộ vừa cứu cuộc đời mẹ con Từ lại giữ danh dự cho cô, đây chính là tính nhân đạo, thương người, hơn thế anh còn giúp Từ lo ma chay cho mẹ già, với con cái anh cũng rất tình cảm “Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm”. Tâm huyết với văn chương vẫn cứ âm ỉ trong Hộ, anh chỉ cần có bén lửa là sẽ bùng lên, thế nhưng hoàn cảnh cuộc sống nghèo đói, vật lộn cơm áo cứ giày vò Hộ làm cho anh “nóng bỏng” lên.
Hộ tìm đến rượu để “làm mát” và xoa dịu nhưng anh đã tìm sai đường, rượu chỉ khiến con người anh trở nên thô bạo, tầm thường cả trí tuệ và nhân cách, anh thậm chí đã từ bỏ lí tưởng văn chương của mình, đánh đuổi vợ con, sống ngược lại với tất cả những gì đã đề ra và từng cố gắng. Như vậy, với cả hai tư cách là người nghệ sĩ và người cha, người chồng, Hộ đều trở thành “đời thừa”, nỗi đau của Hộ là nỗi đau sống mà không ra sống, không thể sống với tâm huyết của mình cũng chẳng thể hết mình cho gia đình. Sống với nỗi đau ấy, Hộ nhận ra sự bất lực của chính mình, tự trách mình là một kẻ vô tích sự, sống thừa thãi trên cuộc đời.
Hai tấn bi kịch mà nhân vật Hộ trải qua chính là bi kịch mà lớp trí thức nghèo tiểu tư sản phải hứng chịu trong xã hội cũ. Tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao thực sự đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về bi kịch của văn sĩ Hộ, đồng thời cho người đọc thấu hiểu quan điểm văn chương nghệ thuật đắt giá, những giá trị nhân đạo sâu sắc mà trải qua bao thăng trầm thời gian vẫn giữ nguyên giá trị.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 7
Có thể nói được rằng trong thời kỳ văn học 1930-1945, không ai vượt được Nam Cao nhất là trong việc mô tả tấn bi kịch của người trí thức, nhất là người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Và riêng nếu như ta chỉ xét riêng một truyện ngắn đặc sắc “’Đời thừa” (1943), ta dường như cũng có thể nhận ra tấn bi kịch ấy với bao nghịch cảnh, bế tắc, xót xa rồi.
Văn sĩ Hộ- nhân vật chính của Đời thừa, chính là một trong các những nhà văn có tài và đầy tâm huyết. Ta dường như có thể thấy được người đọc có thể nhận ra ở Hộ nhiều nét tự truyện của chính Nam Cao. Văn sĩ Hộ cũng như đã từng viết được những tác phẩm có giá trị, và muốn được bạn bè cùng giới viết văn và người đọc yêu mến, cổ vũ. Nhưng, quả thật là Hộ không muốn dừng lại ở bất kỳ chặng nào của thành công, ở anh như không bao giờ có chuyện mãn nguyện với những gì đã được viết ra. Ở nhân vật Hộ luôn luôn khao khát vươn tới cái tận thiện, và cái vẻ đẹp như phải tận mĩ của nghệ thuật. Hộ dường như cũng thật là thèm khát nghĩ đến một tác phẩm “nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”.
Hộ như cũng đã dốc lòng phụng sự nghệ thuật. Với Hộ có thể thấy được nghệ thuật là tất cả, nghệ thuật là trên hết, rõ ràng là niềm đam mê nghệ thuật cao nhất, loại trừ hết mọi đam mê khác. Người đọc như biết được rằng chính công việc hàng ngày của Hộ chỉ còn vẻ vẹn có hai thứ đọc và viết mà thôi, nếu như không viết thì đọc, không đọc thì viết. Vì hơn ai hết Hộ hiểu đọc để càng hoàn thiện thêm cây bút của mình, đọc để thưởng thức cái đẹp chân chính, đó cũng chính là những cái đẹp cao thượng của văn chương nghệ thuật. Còn viết để sáng tạo, để thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của mình về văn chương thế sự. Chính những sự đọc và viết, Hộ dường như cũng đã quên tất cả cuộc đời nhỏ nhen, quên tất cả những khó khăn, nghèo túng của một nhà văn nghèo. Ta như thấy được rằng chính trong cách nhìn của Hộ, cả cái nghèo túng ấy cũng là một nét đẹp, và cái đẹp của một nhà văn, một con người quên mình vì văn chương, nghệ thuật như văn sĩ Hộ.
Hộ và cả nhà văn Nam Cao chính là một nhà văn “nghệ thuật vị nghệ thuật” không? Câu trả lời sẽ là không. Bởi với Hộ, đối với Hộ thì nghề văn thật là một nghề cao đẹp trong đời, là một nghề có ý nghĩa phục vụ con người, phụng sự nhân loại ở mức độ cao. Chính văn học có tác dụng làm cho con người trở nên phong phú hơn, cao thượng hơn, nhân ái và độ lượng hơn, gần gũi nhau hơn. Văn sĩ Hộ lại như lại đang tự đòi hỏi cao và không bao giờ tự bằng lòng về mình, có lẽ chính bởi vì cái đẹp, đó cũng chính là sự tuyệt đối của nghệ thuật, đồng thời cũng vì một ý thức trách nhiệm cao đối với người đọc, đặc biệt hơn nữa đó chính là đối với nhân loại mà Hộ phụng sự.
Và có lẽ đối với Hộ, dường như cũng đã đưa ra cho người đọc một tác phẩm mờ nhạt, tác phẩm như thật nông cạn, hơn nữa, lại viết cẩu thả, là một việc làm thiếu lương tâm, tệ hơn nữa. Có thể đó là một sự lừa gạt. Không một ai không muốn chỉ làm “một người thợ khéo tay” trong nghề văn. Hộ muốn “khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. Cuộc đời đầy sắc màu này mà sống với những hoài bão như của Hộ, luôn luôn để phấn đấu để vươn tới, để hoàn thiện, luôn luôn để có thể nhìn thấy mối mâu thuẫn giữa điều đã làm được và điều đáng phải làm được. Hơn thế nữa là luôn cố gắng để xoá bỏ sự mâu thuẫn khá gay gắt giữa điều mình đang có và cái mình phải có, phải vươn tới. Và ta như thấy được chỉ nguyên chừng ấy thôi đã đủ để cho người ta không yên, đã đủ để người ta phải sầu khổ, và cũng rất nhiều khi cảm thấy đổ vỡ. Nhưng không chỉ có thế, tấn bi kịch của Hộ còn lớn hơn nhiều lần đó.
Hộ còn được xây dựng lên là một người tôn thờ cái đẹp, cái cao thượng trong văn chương, Hộ dường như cũng đã có những muốn sống đẹp trong tư cách một con người. Và chính trong nhân vật Hộ đã có một hành động đẹp, tuyệt đẹp của lòng nhân ái. Hộ từ sâu trong lòng cũng đã cứu danh dự của Từ, cứu sống đời Từ, cưu mang Từ đúng vào lúc Từ cần đến những điều ấy nhất. Và chính trong tư cách một người chồng, một người cha, Hộ dường như lại đã muốn Từ và các con mình hạnh phúc, ít nhất là không khổ, không đau khổ. Nhưng đối với Hộ đã làm được những gì? Từ dường như càng ngày càng khổ, như lại héo hon càng gầy gò, xanh xao vì thiếu thốn, đói khát. Ta như thấy được các đoạn miêu tả các con Hộ thì càng nheo nhóc, tật bệnh. Nguyên việc ta cchỉ nhìn thấy cái cảnh ấy cũng đã đau khổ rồi, đầy bi kịch rồi, bi kịch của một người muốn làm điều tốt, và đều như mong muốn hạnh phúc cho người khác mà không sao làm được.
Tuy nhiên, người đọc nếu như nghiền ngẫm sâu hơn một chút ta lại thấy được sự bi kịch chính của Hộ là ở chỗ khi mà mối mâu thuẫn giữa khát vọng của một người nghệ sĩ với ước muốn làm một con người tốt đẹp. Và nếu như để có tiền có thể nuôi vợ nuôi con thì văn sĩ Hộ phải viết vội những tác phẩm mà ngay khi biết ra xong, chính Hộ đã thấy chán. Hộ dường những cũng đã phải chống lại ngay chính mình, Hộ cũng như đã vi phạm ngay những tiêu chuẩn mà Hộ đặt ra cho mình trong tư cách nhà nghệ sĩ. Hộ dường như viết văn để kiếm tiền, viết vội, viết cẩu thả, đó là điều không thể tha thứ, không thể bào chữa được, đối với Hộ. Nhưng để có thể mà làm một người nghệ sĩ chân chính thì chắc chắn Hộ sẽ phải có hành động đó chính là bỏ mặc vợ con, thậm chí tàn nhẫn với vợ con. Nhưng như thế, với Hộ, như đang lại là hèn nhát, là vô lương tâm chắc chắn rằng điều đó cũng không thể tha thứ được.
Văn sĩ Hộ dường như cũng đã chẳng từng nêu như một tiêu chuẩn sống là gì đó chính là “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”. Lúc này đây thì nhân vật Hộ dường như cũng không thể chọn lấy một trong các hai con đường đó chính là những sự hi sinh nghệ thuật để làm một người chồng, người cha tốt được. Hoặc Hộ cũng không thể vì cái đẹp tối thượng của nghệ thuật mà hi sinh phần con người, làm một con người nhẫn tâm, vô trách nhiệm. Ta như thấy được cả hai thứ trách nhiệm ở Hộ đều được ý thức rất cao. Hộ dường như cũng không có quyền, và chắc chắn là cũng không thể chọn lấy và hi sinh bất kỳ phần nào.
Tấn bi kịch thường xuyên dai dẳng của Hộ chính là ở đó. Có thể thấy được trên cả hai phương diện trách nhiệm, Hộ đều cảm thấy mình làm được ở mức tồi nhất. Và vì thế mà ở Hộ luôn luôn lên án mình, Hộ dường như cũng đã tự xỉ vả mình. Qủa thật rằng chính tấn bi kịch ấy trở thành một chứng u uất trầm kha nơi Hộ, nó cũng đã có những lúc đã bộc phát lên. Nhưng dường như trong lúc ấy, những lúc say rượu, Hộ như đã chọn lấy một, đã muốn tìm một giải phóng cực đoan nhất cho mình. Nhưng rồi tỉnh cơn say, thì lúc này đây tình thế vẫn vậy, cái vòng lẩn quẩn vẫn vậy không đổi khác xem chừng lại nặng nề, bi đát hơn.
Tác phẩm “Đời thừa” dường như cũng đã kết thúc bằng một lần tỉnh rượu của Hộ sau một cơn say mặc dù đã có bao nhiêu lầ như vậy. Văn sĩ Hộ khóc trước cái dáng nằm ngủ khổ sở của Từ, và chính trong vòng tay gầy yếu của Từ. Thì cũng đã khiến cho cả Từ cũng khóc. Hộ khóc lú do là vì hối hận đã tệ bạc, đã tỏ ra thô bạo với Từ. Nhưng có lẽ rằng nguyên nhân chính, hẳn Hộ đã khóc cho nỗi đau của mình, Hộ cũng đã khóc vì cái bế tắc của đời mình, khóc sự tan vỡ thảm thương của hoài bão to tát và đẹp nhất của mình. Rồi cả Từ nữa, nhân vật Từ cũng khóc vì cô đã mơ hồ nhận ra điều thâm độc đó.
“Đời thừa” được viết lên liệu đó có phải là tấn bi kịch muôn đời của người trí thức? Người ta dường như có thể vừa sống với hoài bão lớn lao hiến dâng cho sự nghiệp, đồng thời cũng như vừa sống với phần con người tốt đẹp của mình không? Được lắm chứ như nguyên do chính là sự bế tắc hạn hẹp trong cuộc sống.
Nhà văn bậc thầy miêu tả tâm lý nhân vật- Nam cao, với tác phẩm “Đời thừa” dường như cũng đã để lại cho ta một bức tranh hiện thực, đồng thời cũng để lại cho ta một thông điệp. Qủa thật rằng người ta có thể sống mà không cảm thấy đời mình là đời thừa, nhưng đồng thời lại cũng đã không cảm thấy sống là sống mòn, là một cách chết mòn. Muốn thế, thì chính bản thân chúng ta cũng phải giật tung hết những cái lẩn quẩn, những bế tắc của đời sống đi để có thể thay đổi cuộc sống.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 2
Nam Cao là người có vẻ ngoài lạnh lùng ít nói nhưng lại có đời sống nội tâm phong phú và một tấm lòng nhân hậu chan chứa tình thương. Ông hay suy nghĩ về nhiều vấn đề xã hội để rồi từ đó rút ra những nhận xét có tầm triết lí và nhân sinh mới mẻ. Nội tâm Nam Cao thường diễn ra xung đột gay gắt giữa cái tốt và cái xấu, giữa giả dối và chân thật, giữa tinh thần cao cả và dục vọng tầm thường. Một số tác phẩm mang tính chất tự truyện như Mua nhà, Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn… đã nói lên điều đó.
Truyện ngắn Đời thừa (đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, 1943) là một trong các những sáng tác đặc sắc nhất của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945. Thông qua nhân vật Hộ (bóng dáng nhà văn), tác giả phản ánh chân thực tình cảnh cực khổ, tủi nhục, bế tắc của tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ nghèo trong xã hội cũ. Nam Cao tập trung thể hiện bi kịch tinh thần của họ, từ đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn.
phan tich nhan vat ho trong truyen ngan doi thua cua nam caoHộ là một nhà văn có ý thức sâu sắc về cuộc sống. Anh muốn nâng cao giá trị đời sống cá nhân bằng một sự nghiệp có ích cho xã hội và được xã hội công nhận. Nhưng chỉ vì gánh nặng áo cơm hằng ngày cuốn anh vào những toan tính vụn vặt, tầm thường nên rốt cục anh chẳng làm được cái gì hữu ích cho đời. Anh đau khổ vì phải sống một đời thừa, bất lực nhìn những ước mơ, khát khao đẹp đẽ bị thực tế phũ phàng vùi dập.
Là một nhà văn, Hộ từng ôm ấp một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương và vì nó, anh có thể hi sinh tất cả. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên tất cả bờ cõi và giới hạn, bằng cách đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.Hộ khao khát vinh quang, khao khát được khẳng định tài năng của mình trước cuộc đời. Anh không muốn sống một cuộc sống vô vị và vô nghĩa. Đó chính là niềm say mê quên mình vì một hoài bão lớn của con người sống có lí tưởng. Quan niệm về văn chương nghệ thuật của Hộ hết sức đúng đắn và tiến bộ. Anh đã từng phát biểu ý kiến trước bạn bè về giá trị của một tác phẩm văn chương đích thực: Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.
Là kẻ có tâm, có tài, Hộ say mê văn chương đến độ coi văn chương là lí tưởng, là lẽ sống. Anh tự hào vì có được một tâm hồn nhạy cảm, phong phú và cho rằng không có lạc thú vật chất nào so sánh được. Hộ quyết tâm biến hoài bão lớn lao mà anh hằng ôm ấp thành hiện thực. Nhưng khổ thay cho Hộ, anh không thể biến ước mơ thành hiện thực vì những lo lắng liên miên về vật chất, những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí của đời sống cơm áo hằng ngày mà anh phải lo cho gia đình đã choán hết tâm trí, thời gian của Hộ. Vợ yếu, con đau, nhà cửa xác xơ, túng quẫn…
Cái gì cũng cần đến đồng tiền, mà Hộ thì chỉ có thể kiếm tiền bằng ngòi bút. Cuộc sống nghèo túng, chạy ăn từng bữa bắt buộc Hộ phải viết những điều anh không muốn viết. Đó là thứ văn cẩu thả, dễ dãi, rẻ tiền mà anh gọi là văn chương quấy loãng để rồi hình dung ra lúc người đọc chửi mình mà xấu hổ đỏ mặt, tự rủa mình là đồ khốn nạn, bất lương. Hộ nói: Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là độc ác rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Tấn bi kịch tinh thần giằng xé tâm can Hộ chính là điều đó.
Chưa hết, Hộ còn rơi vào một bi kịch thứ hai cũng không kém phần đau đớn. Đó là bi kịch của con người coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình thương nhưng tại phải sống tàn nhẫn, thô bạo với vợ con, chà đạp lên nguyên tắc sống do mình đặt ra. Vậy đâu là nguồn gốc nỗi đau giằng xé con người Hộ? Cả hai bi kịch của anh đều phản ánh một mâu thuẫn của xã hội: người có tài, có tâm muốn sống đẹp, sống tốt thì lại phải khốn khổ.
Bản chất của Hộ là người tốt. Anh quan niệm kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình. Vì thế anh đã cứu giúp Từ, một cô gái lỡ làng và cưới Từ làm vợ. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ; thực hiện một hành vi như người ta làm việc nghĩa. Những đắng cay của cuộc đời mà Hộ phải nếm trải nhiều khi khiến anh trở nên cau có, tàn nhẫn với vợ con. Bế tắc, anh tìm đến rượu để giải sầu nhưng mỗi lần tỉnh rượu, Hộ lại ân hận, xót xa. Anh xin lỗi vợ trong tiếng khóc nghẹn ngào: Anh chỉ là một thằng khốn nạn!
Muốn thoát khỏi tình trạng đời thừa, Hộ chỉ còn một cách là rũ bỏ trách nhiệm đối với gia đình, thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi giấc mộng văn chương. Nhưng vốn nhân hậu, anh không thể chấp nhận sự tàn nhẫn. Với Hộ, tình thương là tiêu chuẩn xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chỉ là một thứ quái vật : Hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường. Nhưng hắn còn được là người.Vì thế, anh không thể bỏ mặc vợ con để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Anh đã hi sinh nghệ thuật để giữ lấy tình thương. Phải từ bỏ hoài bão lớn, anh âm thầm đau khổ, u uất, day dứt, nhất là khi gặp lại các bạn văn chương. Hộ thực sự lâm vào bế tắc. Không một chút tươi sáng dành cho số phận anh.
Nam Cao xoáy sâu vào bi kịch của người trí thức, văn nghệ sĩ nghèo, từ đó kín đáo kết án cái xã hội ngột ngạt, thối nát đã tước đoạt giá trị con người, không cho con người được sống đàng hoàng, tử tế theo đúng nghĩa của nó. Đối với tầng lớp trí thức vốn có ý thức cao về quyền sống, về đạo lí, thì đó là bi kịch tinh thần đau đớn nhất. Ý nghĩa nhân sinh của truyện ngắn Đời thừa là như thế.
Truyện ngắn Đời thừa là một tác phẩm có tính chất tự truyện của Nam Cao. Tác giả miêu tả tấn bi kịch của những người cầm bút trung thực. Đời thừa còn là một bản tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. Qua nội dung tác phẩm, ông muốn nhấn mạnh vấn đề công phu và tài năng sáng tạo của nghệ sĩ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Trong lĩnh vực này, nếu người cầm bút chỉ viết được những cái vô vị, nhạt phèo, không có đóng góp gì mới cho xã hội thì chỉ là một kẻ vô ích, một người thừa mà thôi.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 6
Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, cây bút hiện thực có tầm ảnh hưởng bậc nhất của nền văn học Việt Nam. Bằng tài năng và vốn am hiểu sâu sắc về cuộc sống và số phận của những người nông dân, người trí thức nghèo trong xã hội đương thời, Nam Cao đã khám phá ra nhiều hiện tượng, bi kịch mang tính thời đại. Đời thừa là truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao viết về chủ đề người trí thức với bi kịch tinh thần của con những người trí thức có hiểu biết, ý thức sâu sắc về giá trị của sự sống, có hoài bão cao cả nhưng bị cuộc sống đẩy vào cảnh sống thừa.
Hộ là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là nhân vật đại diện cho những người trí thức nghèo sống trong xã hội xưa. Thông qua nhân vật Hộ độc giả còn thấy được bóng dáng của Nam Cao, một người trí thức nhiều trăn trở về cuộc đời về sự nghiệp sáng tác của bản thân. Trong xã hội đen tối đương thời, người trí thức không có môi trường để thỏa mãn những lí tưởng, đam mê sáng tạo mà bị vùi dập bởi những lo toan vặt vãnh, những gánh nặng của cuộc sống đời thường. Đây cũng là nguyên nhân đẩy những người trí thức nghèo vào bi kịch đời thừa.
Hộ là một người trí thức nghèo có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp, Hộ tự đặt ra những yêu cầu nghiêm khắc trong việc sáng tác văn chương, anh khao khát sáng tác được những tác phẩm có giá trị, có sức lay động lớn lao đối với độc giả, đó là tác phẩm “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng…Nó làm cho người gần người hơn… Một tác phẩm thật giá trị phải là một tác phẩm chung cho cả loài người “.
Phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của nhà văn Nam CaoĐối với Hộ, sáng tác văn chương không nhằm mục đích kiếm tiềm mà để thỏa mãn lí tưởng nghệ thuật, với Hộ, giá trị văn chương có thể vượt trên trên những thứ vật chất thông thường “ Đọc được câu văn hay mà hiểu được thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng”. Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống đói nghèo với gánh nặng cơm áo gạo tiền đã buộc Hộ đi ngược với lí tưởng, nguyên tắc sáng tác ban đầu. Những tác phẩm của Hộ không còn được đầu tư, chăm chút mà được viết 1 loạt nhưng cẩu thả, không có giá trị, sự thật này khiến cho Hộ không thôi đau đớn, day dứt tự trách mình “ Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là một sự bất lương. Sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”.
Trong tư cách của một nhà văn, Hộ là người trí thức có ý thức, trách nhiệm với nghề nghiệp, trong tư cách của một con người, Hộ là người giàu tình cảm, sống theo nguyên tắc tình thương. Với tình thương ấy Hộ đã chấp nhận cưu mang mẹ con Từ, nuôi dưỡng người mẹ già yếu của Từ mà không màng đến những gánh nặng gia đình cũng như điều tiếng của xã hội.
Từ khi lấy Từ, cuộc sống của Hộ dần thay đổi, đặc biệt là khi những đứa con lần lượt ra đời. Hộ không còn thời gian để thực hiện hoài bão của mình mà lại bị cuốn vào vòng xoay của cơm áo gạo tiền. Hộ không thể tập trung sáng tác, thực hiện giấc mơ nghệ thuật của mình khi những đứa con bị bỏ đói, bị bệnh mà không có tiền thuốc thang chạy chữa. Trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình đã buộc Hộ viết ra những thứ văn chương tầm thường mà mỗi lần đọc lại Hộ đều đỏ mặt xấu hổ.
Hộ bị đặt trong bi kịch tinh thần khủng khiếp giữa sự giằng xé của lí tưởng nghệ thuật với nguyên tắc tình thương mà Hộ luôn theo đuổi. Quá đau khổ, bế tắc Hộ đã tìm đến rượu, trong cơn say Hộ đã có hành động đánh đập, chửi bới tàn nhẫn đối với Từ, coi mẹ con Từ là nguyên nhân khiến cho Hộ phải khổ. Sau khi tỉnh rượu Hộ ý thức được hành động tàn nhẫn của mình nên đã rất hối hận và cho rằng mình là kẻ khốn nạn. Đứng trước bi kịch đời thừa, Hộ có thể tự giải thoát cho mình bằng cách từ bỏ trách nhiệm với vợ con để tập trung thực hiện lí tưởng cao cả nhưng tinh thần trách nhiệm, tình thương không cho phép Hộ làm vậy nên đã đẩy Hộ vào bi kịch không lối thoát.
Như vậy, thông qua nhân vật Hộ, nhà văn Nam Cao đã khai thác đến tận cùng tấn bi kịch của những người trí thức tiểu tư sản nghèo, họ là người có lí tưởng, có ước mơ cao cả nhưng bị xã hội phong kiến ngột ngạt đẩy đến bước đường cùng, tuyệt vọng vùng vẫy trong sự bế tắc, đau khổ.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 8
Trong vườn hoa văn học Việt Nam giai đoạn từ 1930-1945 rực dỡ đã nổi bật lên một đóa hoa ngào ngạt sắc hương mang tên Nam Cao. Bằng ngòi bút đậm chất nhân văn và nhân đạo của mình Nam Cao đã viết lên một “Đời Thừa”, khắc họa nên một nhà văn
Hộ nghèo với tinh thần yêu nghệ thuật nồng nàn nhưng lại bị giằng xé nội tâm một cách đau đớn. Cùng giở lại những trang sách, nhìn lại những nhân vật Hộ đáng thương để hiểu hơn tấn bi kịch của anh và cũng chính tấn bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám. Nhà văn Hộ sống quằn quại, đau khổ trước sự nghiệp dở dang vì nỗi lo cơm áo gạo tiền. Anh mong muốn đem ánh sáng vào nghệ thuật bằng chính trái tim đầy nhiệt huyết nhưng cuối cùng phải sống trong bóng tối vô danh, một cuộc sống ê chề, thừa thải, chán ngấy.
Đã bao lần anh muốn bứt khỏi cuộc sống đời thường để cống hiến cho văn chương nhưng cũng bấy nhiêu lần anh thất bại cũng như đối với gia đình anh không thể quay lưng với vợ hiền con thơ. Tấn bi kịch nội tâm của Hộ cũng là những trí thức đương thời. Hộ muốn sống vì nghệ thuật, sống cho nghệ thuật nhưng chỉ vì những lo lắng về vật chất đã ghì sát đất khiến anh bị giằng xé đau đớn đến quyết liệt, hủy đi khát khao văn chương và tình yêu thương con người. Thế nhưng anh vẫn cố gắng giữ lối sống, lẽ sống nhân đao của mình.
Bi kịch của Hộ trước hết là bi kịch văn chương. Anh ôm ấp hoài bão về sự nghiệp, đối với anh “nghệ thuật là tất cả”. Anh khinh thường những tủn mủn về vật chất: “ đói rét không có nghĩa gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”. Anh luôn mơ ước về một tác phẩm để đời “phải làm mờ hết những tác phẩm cùng ra một thời”. Anh phải đạt được giải Nobel, làm sáng danh của anh, rạng rỡ nền văn học nước nhà. Đó là những ước mơ tươi đẹp, trong sáng, là hoài bão của anh, là khát vọng của anh. Anh quan niệm về văn chương rất đúng đắn. Với anh “sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”, “văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo mẫu đưa cho”, và nó “đòi hỏi sự đào sâu, sáng tạo…”.
Thế nhưng cuộc đời có bao giờ như người ta mong muốn, khát khao. Anh nhận xét về văn chương đúng lắm, sâu lắm thế nhưng anh đã viết những gì. Anh “cho in những cuốn văn viết vội vàng”,”gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông trến một thứ văn quá ư bằng phẳng, dễ dãi”. Cũng như trong Giăng sáng với nhà văn Điền, “nghệ thuật không là ánh trắng lừa dối, nghệ thuât là những tiếng kêu đau khổ từ những kiếp lầm than”, nó không là “ánh sáng xanh huyền ảo”. Hộ không mơ mộng về công danh, anh muốn viết những gì có giá trị để đời thế nhưng đã phản bội lương tâm nghể nghiệp của mình. “Cơm áo không đùa với khách thơ”( Xuân Diệu). Cuộc sống mà đủ lo cơm áo cũng đủ mệt, trong đầu anh toàn những tính toán, lo toan cho những chi tiêu hằng ngày thì làm sao sáng tạo được. Anh càng ước mơ cho một cuộc sống như thế thì càng rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn.
Giá như anh không có những giấc mộng văn chương thì anh đâu đau khổ đến thế mà nếu như anh cứ được bay mãi với giấc mộng thì anh cũng không bị giằng xé đến thế này. Nhưng “đau đớn thay cho những kiếp sống muốn bao cao nhưng bị cơm áo ghì sát đất” (Sống mòn), “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” (Tản Đà) mà anh lại gánh cả gia đình trên vai thế này thì “bay” là sao được.
Bi kịch giấc mộng văn chương có phần đau khổ đẩy anh vào mộ đời thừa. Anh phải viết ngược lại với những gì mình mong muốn, thề nhưng dù là trái với đạo đức nghề nghiệp nhưng anh lại thuận với gia đình. Những cuốn văn viết vội vã đã nuôi sống vợ anh, con anh và chính anh khỏi chết đói. Đó là một chút ý nghĩa còn lại, một chút có ích của cuộc sống “Đời thừa” . Nguyên tắc về tình thương có lẽ là sợi dây níu giữ anh lại. Anh hy vọng vào sự ôm ấp lòng thương người có thể khiến anh không trở thành vô nghĩa. Anh thừa thải trong xã hội nhưng là nguồn sống của Từ, của gd. Anhcưu mang đời Từ, một người đàn bà bị phụ tình với đứa con mới sinh. Có lẽ bởi cái lẽ sống “ kẻ mạnh là kẻ giúp kẻ khác trên đôi vai mình”, một lý tưởng sống cao đẹp.
Thế nhưng chính bản thân anh cũng giết chết phần người nhất trong con người của anh. Anh nghĩ cạn quá khi xem chính gia đình là nguyên nhân cho cái bi kịch vỡ mộng sự nghiệp. Nào có phải thế đâu, Từ đảm đang, hiền thế cơ mà. Xã hội, chính xã hội “chó đểu” lúc bấy giờ là ngọn nguồn xuất phát bao đau khổ. Xã hội đã không đánh giá đúng tài năng và vì xã hội đã làm nghèo ngày càng nghèo, bị áo cơm ghì chặt đến nghẹt thở.
Quá bế tắc, Hộ tìm đến rượu. Anh không say trong men rượu, men tình mà anh chết trong rượu. Rượu khiến anh trở thành vũ phu, vô học. Nó đáng đồng kẻ tốt người xấu , kẻ giàu, người nghèo . Rượu không giúp anh tìm thấy tình cảm như Chí Phèo mà nó hành hạ anh, đưa anh đến lối cùng. Bi kịch đau đớn nhất chính là anh đã vi phạm nguyên tắc tình thương cao cả do mình đặt ra. Đó thực sự là nỗi đau không gì sánh được. Trước bi kịch trong sự nghiệp, nhà văn Hộ cảm thấy ray rứt. Cũng như Chí Phèo gieo rắc tội lỗi của mình trong làng Vũ Đại, thầy giáo Thứ đưa vào đầu hs nhữg thứ chán nản thì Hộ đã gieo những tình cảm rất nông , rất nhẹ, đưa đến người đọc những bài viết mà người ta đọc rồi quên ngay sau lúc ấy.
Ray rứt đau khổ vì không tròn với lương tâm nhưng trước bi kịch của gia đình trái tim anh vỡ vụn. Qúa đau khổ vì lẽ sống không còn. Hộ đi vào đường cùng. Nam Cao khắc họa nên Hộ một nhà văn chịu bao đau khổ bởi tấn bi kịch nội tâm qua đó cũng chính là tấn bi kịch của trí thức đương thời.Nhân vật Hộ đã thay Nam Cao bộc lộ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, sâu sắc hay cao hơn là cảm hứng nhân văn. Hộ đã bộc lộ nên những giá trị vật chất bên trong con người từ đó mà Nam Cao đã ca ngợi, yêu thương , bảo vệ cho những kiếp sống đáng thương và đấu tranh cho hạnh phúc của họ, để họ sống với lẽ sống nhân đạo của mình. Cũng có ý kiến cho rằng Hộ là Nam Cao nhưng với tôi không phải vậy. Nam Cao và Hộ không giống hoàn toàn. Thật sự Nam Cao từng chịu nỗi lo cơm áo như Hộ nhưng ông không phải “đỏ mặt”, “tức giận” vì những bài viết mang tên mình. Như Chí Phèo, Đời thừa, Đôi mắt,…
Nam Cao đã rất thành công. Đó là nơi mà tài năng nghệ thuât của ông nảy nở. NC đã bộc lộ gợi nên những tư tưởng nhân văn của mình một cách mới mẻ mà sâu sắc. cò thể nói NC đã làm đúng tưởng “văn học là nhân học”, ông đã tôn lên vẻ đẹp nhân bản qua những tác phẩm để đời của mình. Đồng thời nó cũng đậm chất nhân văn vì ông đã thay họ đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền sống, lẽ sống, khát vọng , ước mơ cao đẹp. đó là những nổi bật có giá trị của NC về mặt tư tưởng trong các tác phẩm nói chung và trong “Đời thừa” với nhân vật Hộ với bi kịch tinh thần nói riêng.
Nếu Chí Phèo kết thúc với cảnh Thị Nở thoáng thấy cái lò gạch vắng kẻ lại qua, thì Đời thừa cũng không khá hơn mấy. Không ai biết được sẽ có một Chí Phèo con ra đờn hay không và cũng không ai biết được sau tiếng khóc, tiếng nấc của Hộ anh sẽ hạnh phúc trong cuộc sống của mình: Tất cả là bởi cái xã hội đương thời bóp chết cái ước mơ tốt đẹp của con người, những nhà văn không được viết theo ý của mình và họ muốn sống tốt cũng không được. Thật đau khổ vì họ biết tại sao mình khổ nhưng không thể thoát ra và Nam Cao đã giúp họ nói lên tất cả , vạch trần cái xã hội giết chết trí thức đương thời. “Tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”.
Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 5
Nam Cao là nhà văn xuất sắc trong việc phản ánh giá trị của thời đại, mỗi tác phẩm của ông đều được biểu hiện một cách chi tiết, sâu sắc những vấn đề của thời đại. Nam cao đã xây dựng nên những nhân vật trong tác phẩm của mình thật tinh tế, nó phản ánh được sâu sắc hiện thực của xã hội lúc bấy giờ. Tác phẩm Đời thừa của Nam Cao là một tác phẩm như thế, nhân vật Hộ được xây dựng sâu sắc, tinh tế trong từng đoạn văn.
Nhân vật Hộ xuất hiện trong tác phẩm, xuất thân là một nhà văn có lý tưởng sống cao đẹp, ông là nhà văn chân chính, biết hướng tới giá trị hiện thực, thế nhưng lại bị chính cuộc sống nghèo đói biến thành một gã vũ phu. Với hoàn cảnh sống khó khăn, thiếu thốn, ông bị áp lực trước cuộc sống, tiền bạc, cơm áo gạo tiền hàng ngày.
Trong tác phẩm tác giả đã xây dựng những hình ảnh về sự giằng xé về nội tâm nhân vật, ở đó nhân vật Hộ xuất hiện là người có khát vọng sống cao cả, có trách nhiệm với cuộc sống gia đình. Từ sau khi lấy Từ cuộc sống của anh như bị thêm phần áp lực về cuộc sống, lúc nãy biết bao nhiêu vấn đề từ cuộc sống đang giằng xé về nội tâm của nhân vật trong tác phẩm.
Hộ là nhà văn có lý tưởng sống cao đẹp, thế nhưng vì cuộc sống hàng ngày mà ông phải gác lại để lo cho vợ con của mình, gác lại bao hoài bão, ước mơ của mình, ông hy sinh ước mơ, sự nghiệp của mình cho cuộc sống. Bởi thời bấy giờ tiền kiếm ra được từ viết văn chương quá rẻ mạc, chính vì thế ông phải từ bỏ nó. Mâu thuẫn nội tâm đã xuất hiện rõ nét trong đoạn trích, nó phản ánh sâu sắc, hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Việc xây dựng tâm lý nhân vật trong cảnh rằng xé đã khắc họa sâu sắc được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều biểu hiện một giá trị riêng, mang nét sâu sắc trong cách sáng tạo, tạo nên giá trị biểu hiện trong tác phẩm, con người đang bị tha hóa, bởi cái nghèo, đói, sự lưu manh của con người. Bao nhiêu hoài bão bị tiêu tan, anh là biểu hiện cho những người tiểu tư sản nghèo trước cách mạng bị xã hội tha hóa, anh rơi vào tấn bi kịch tự đau khỏ, rồi nhận ra những nỗi lầm của mình.
Chính sự tinh tế trong cách sáng tác của mình mà Nam Cao đã thể hiện được giá trị hiện thực sâu sắc trong một tác phẩm, giá trị đó biểu hiện những nét riêng, sâu sắc trong phong cách sáng tác, sáng tạo nên một tác phẩm nghệ thuật. Giá trị đó được biểu hiện sâu sắc trong nghệ thuật thể hiện hay sáng tạo của mình, giá trị đó sâu sắc, mang những cung bậc riêng, phản ánh hiện thực của xã hội lúc bấy giờ.
Với cách sáng tạo và rằng xé nội tâm nhân vật, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật của mình với những nét tính cách điển hình, đại diện cho những con người tri thức ở xã hội. Họ bị xã hội lưu manh, tha hóa, con người rơi vào tấn bi kịch của thời đại, chính cái nghèo khổ đó đã là hiện thực sâu sắc của xã hội Việt Nam trước năm 1945.
Có thể bạn thích: