Tnú là nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, đây là hình tượng nổi bật nhất làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tnú vừa là đại diện số phận, vừa là kết tinh của lòng yêu nước và những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Nguyên. Dù chỉ trong dung lượng ngắn ngủi nhưng bằng nội lực dồi dào, tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Tnú. Mời các bạn tham khảo một số ít bài văn phân tích hình tượng nhân vật trung tâm này mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn vẻ đẹp đó.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 10
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí. Kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên.
Mới 10 tuổi, Tnú đã thay 18+ vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm 3 năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.
Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai – cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xô man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
Tnú đã không kìm nén được lòng mình, anh chồm lên xông vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản không thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận. Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng của một nỗi đau thương và tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đẩu tranh của dân làng Xô man.
Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thội nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam.
Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “còn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ôn đã giết mẹ con Mai).
Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.
Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, không biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm.
Bước chân về đến đầu làng anh xúc động mãnh liệt “cứ vấp mãi vào mấy cái gốc cây”. Tnú sung sướng tắm mình trong dòng nước mát của con suối. Vào tới nhà Ưng, lòng anh như náo nức những tiếng gọi thân thương với những cái tên quen thuộc, mộc mạc đã gắn bó với anh như ruột thịt. Tnú là đứa con yêu thương của tất cả dân làng Xô Man.
Câu chuyện về anh Tnú và sự trưởng thành của anh tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và con đường trưởng thành cách mạng của tất cả các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tnú mang trong mình dòng máu của Đăm săn, Sinh Nhã… dòng máu anh hùng thần thoại của xứ sở Tây Nguyên. Anh cũng mang sức mạnh của rừng xà nu hào hùng ngay cả trong đau đớn, bất diệt ngay trong sự hủy diệt. Tnú hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng mang đậm chất sử thi hoành tráng.
Qua nhân vật này, tác giả muốn đã biểu dương vẻ đẹp một thế hệ cách mạng trẻ trung, kiên cường, bất khuất. Cũng qua cuộc đời nhân vật này, tác giả muốn khắc sâu vào tâm can đời sau một chân lý “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý mà chúng ta đã chọn cho còn đường cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 7
Rừng xà nu là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Trung Thành viết về thiên nhiên và con người Tây Nguyên anh dũng, bất khuất, kiên cường. Đó là bao thế hệ cách mạng đầy bản lĩnh chiến đấu, giàu lòng yêu nước, là đại diện tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, theo lý tưởng, ánh sáng cách mạng của dân tộc. Tnú là một nhân vật nổi bật trong truyện hiện lên với những vẻ đẹp đại diện cho người anh hùng sử thi của thời đại, kết tinh mọi phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên.
Cuộc sống của Tnú từ nhỏ đã chịu nhiều bất hạnh, sớm mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong sự yêu thương, che chở và đùm bọc của dân làng Xô man. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã bộc lộ những phẩm chất ánh hùng, gan góc của mình. Được truyền dạy về cán bộ, về Đảng, giác ngộ sớm về cách mạng nên luôn có lòng tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cách mạng.
Cậu làm giao liên rất giỏi, táo bạo, không sợ hiểm nguy, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Tnú học chữ thua Mai, nhưng không vì thế mà cậu nản chí, khi nghe anh Quyết dặn dò, cậu tự lấy đá đập vào đầu chính mình để nhắc nhở bản thân cố gắng học hành. Không chỉ vậy, Tnú còn rất thông minh và nhanh trí, khi trong một lần giặc bắt đã kịp trở tay nuốt lá thứ của cách mạng vào bụng, che giấu bí mật cách mạng.
Trải qua bao đau đớn khi bị tra tấn dã man, vẫn không quên đảm bảo bí mật nhiệm vụ của mình, thậm chí còn thách thức bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và bảo: “Cộng sản ở đây này!”. Nhờ sự giỏi giang và nhanh trí của mình, Tnú đã giúp nhiều cán bộ thoát khỏi vòng vây của địch “Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”. Tnú mang trong mình những phẩm chất cần có của một người chiến sĩ làm cách mạng: sự dũng cảm, kiên trì, cẩn thận và yêu nước.
Sau khi vượt ngục trở về, Tnú ngày càng trưởng thành hơn. Khi anh Quyết hi sinh, Tnú nhận nhiệm vụ thay anh, đứng lên lãnh đạo cuộc chiến của dân làng. Anh kết đôi cùng Mai – người bạn chí cốt thời niên thiếu của mình và có một đứa con minh chứng cho tình yêu đẹp. Những tưởng sẽ được hạnh phúc bên gia đình nhỏ thì quân giặc tràn xuống buôn làng, đàn áp phong trào giải phóng.
Vợ và con anh bị giặc bắt để dụ Tnú ra mặt, chứng kiến cảnh vợ con đập đánh dã man, không chịu được, đã xông vào cứu vợ con, nhưng không được. Bọn giặc ác nghiệt đã nhẫn tâm phá hoại hạnh phúc bình yên của một gia đình nhỏ. Một lần nữa, đau đớn lại bủa vây Tnú, chúng dùng nhựa xà nu đốt đi mười ngón tay anh.
Nhưng anh không hề có một chút sợ hãi nào trong ánh mắt, bởi vợ con đã mất rồi, gia đình không còn nữa thì có nghĩa lý gì đâu, trong Tnú bây giờ là nỗi thù hận ngập tràn, ” Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… hai con mắt anh bây giờ là một cục lửa lớn”. Mắt anh hướng về thằng Dục, cái thằng đã thẳng tay giết chết đi người mà anh thương nhất, nỗi căm hờn lan toả trong anh.
Từ nỗi đau thương vô hạn, Tnú càng căm thù bọn giặc, nỗi căm thù ấy biến thành hành động, một lần nữa đứng lên, gia nhập quân giải phóng trả mối thù lớn cho gia đình cho dân làng Xô man. Vượt lên những nỗi đau thương của số phận, của cuộc đời, sức mạnh mẽ đã giúp Tnú giết chết những kẻ như thằng Dục còn tồn tại.
Lập được nhiều chiến công hiển hách, Tnú xin nghỉ phép một đêm để trở về quê nhà bởi nỗi nhớ quê hương da diết, anh đã chấp hành đúng quy định của cấp trên, thực sự là người cán bộ mẫu mực, mang gương sáng cho những Dít, bé Heng,… là niềm tự hào của thế hệ cha anh và buôn làng Tây Nguyên. Đôi bàn tay của Tnú minh chứng cho sự đau thương và tội ác của chiến tranh. Đôi bàn tay ấy còn là nhân chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng lợi của nhân dân, đôi bàn tay cầm giáo mác chiến đấu với súng đạn của kẻ thù để giành lại tự do cho dân tộc, đôi bàn tay yêu thương và ấm áp tình người.
Tnú là một con người với số phận đầy đau khổ nhưng vượt lên tất thảy là nhân cách bao la, ngời sáng. Anh chính là đại diện vô cùng tiêu biểu cho những người anh hùng, cho vẻ đẹp của người con núi rừng Tây Nguyên. Có thể nói, bằng tài năng trong ngòi bút, tinh tế trong cảm nhận, đặc biệt là vận dụng khéo léo những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật vô cùng độc đáo.
Đọc xong tác phẩm, em càng thêm khâm phục những người chiến sĩ đã hy sinh xương máu, hy sinh cả những hạnh phúc tốt đẹp nhất để bảo vệ dân tộc, càng thêm trân quý những hòa bình hôm nay. Tấm gương của Tnú cũng như của hàng vạn những anh hùng liệt sĩ dũng cảm đã thôi thúc em học tập, cố gắng trở thành người công dân tốt cho xã hội, phấn đấu vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam thân yêu.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 9
Là một trong nhà văn nổi bật trong nền văn học Việt nam qua thể loại truyện ngắn, Nguyễn Trung Thành đã mang tới độc giả những hình ảnh hùng vĩ, oai hùng nhất cả về khung cảnh và con người vùng đất Tây Nguyên qua tác phẩm Rừng Xà nu. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình ảnh của những cây xà nu “luôn hướng về phía ánh sáng” tựa như con người của Tnú. Tnú được xem là hình ảnh người con tiêu biểu của nhân dân Tây Nguyên luôn kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong giai đoạn đất nước trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt, đã có biết bao người anh hùng, chiến sĩ cán bộ không quản ngại xả thân vì sự nghiệp nước nhà. Nhân dân khắp nơi trên đất nước đều hòa chung không khí chiến đấu, từ vùng đất “Việt Bắc“ đáng mến, cho tới Tây Nguyên bạt ngàn, người dân trên dải đất hình chữ S đều luôn mang cao tinh thần chiến đấu, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù của dân tộc.
Nhân vật Tnú là một trong nhân vật trung tâm của câu chuyện, bên cạnh cụ Mết, Mai, Dít tới bé Hen. Tnú lớn lên cùng dân làng Xô man. Dân làng đã nuôi dưỡng, đùm bọc và tiếp lửa tinh thần chiến đấu trong tâm trí của Tnú. “nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô man này nuôi nó”. Tuy anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhưng cuộc đời anh vẫn dành trọn tình thương của cả dân làng.
Anh lớn lên trong những cánh rừng xà nu bạt ngạt, trong tiếng chày giã gạo của những cô gái, của những cụ già lão làng. Được thấm nhuần tư tưởng của Đảng, Tnú lớn lên đã luôn ý thức được con đường đi của Cách Mạng. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan dạ. Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết – một cán bộ cốt cán của nhà nước.
Tuy nhỏ nhưng tiềm thức không hề bị khiếp sợ trước quân thù. Có lần vượt thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy anh, thế nhưng anh quyết giữ bí mật của bức thư mà anh Quyết đã trao. Có lần anh bị giặc bắt, quân thù tra tấn dã man để hỏi “Cộng sản ở đâu”. Tnú đã quả quyết, ngang nhiên trả lời rằng “Cộng sản ở đây này”. Chẳng hề một chút lung lay, run sợ, anh kiên cường trả lời với tư tưởng tự hào nhất vì được đứng trong hàng ngũ của những người làm cách mạng.
Tnú còn là một người rất ham học, để thể hiện quyết tâm học lấy con chữ, Tnú đã dứt khoát hành động tự đập đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi anh thua Mai trong việc học hành. Thật đáng quý biết bao khi đất nước ta có những người con như Tnú, luôn luôn biết phấn đấu để trau dồi hiểu biết, phục vụ con đường giải phóng đất nước.
Những tính cách ấy đã góp phần tạo nên một người anh hùng Tnú. Tnú lớn lên cường tráng như một cây xà nu. Mang trong mình tinh thần cứng rắn, kiên cường như cây xà nu, dù trên thân mình đã phải chịu biết bao đòn roi, dọc ngang vết chém nhưng anh quyết không lùi bước.
Phía sau lưng anh còn có một gia đình ấm êm, khi anh lớn lên và kết hôn cùng Mai – người bạn thời niên thiếu. Nhưng tiếc thương thay, những kẻ thù bạo tàn ấy đã cướp đi hạnh phúc của Tnú khi chúng đã giết hại vợ con anh. Nỗi đau này biết kể sao cho xiết. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. .. bụng anh có lửa đốt”.
Nỗi đau của riêng anh nhưng cũng là nỗi đau chung của biết bao nhân dân, khi đất nước loạn lạc, chiến tranh thì nỗi chia ly, tang tóc càng tăng lên. Tnú không cứu được vợ, phải chứng kiến cái chết của vợ con anh ngay trước mắt càng làm khắc sâu nỗi đau ấy. Hình ảnh mười đầu ngón tay bị đốt cháy bởi nhựa rừng xà nu như mười ngọn đuốc sáng, nhưng anh vẫn không lùi bước. Đó là ý chí sức mạnh của một người lính cách mạng đã được tôi luyện, rèn rũa bởi Đảng.
Không đắm chìm trong đau thương mất mát, nỗi đau thương ấy càng trở thành động lực đẩy cao tinh thần căm thù giặc của anh. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú càng trở nên lo lắng khi không có ai tiếp tục lãnh đạo dân làng khi Đảng có lệnh. Anh vùng lên chiến đấu, khi bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn sẵn sàng cầm giáo, cầm súng để chiến đấu. Thà chết chứ không chịu đầu hàng, 2 tay anh vẫn kiên cường chiến đấu, xiết chết cổ họng tất cả những thằng Dục ác nghiệt hơn cả cầm thú. Anh đã trở thành điểm tựa cho cả dân làng Xô man, không hề khuất phục trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tnú từ khi còn là thiếu niên cho tới lúc trưởng thành, chưa bao giờ ngọn lửa cách mạng vụt tắt trong anh. Đôi tay anh đã chăm sóc, bảo ban biết bao thế hệ nhỏ. Đôi tay ấy đã kiên trì cầm phấn học con chữ, cầm đá ghè vào đầu vì trách bản thân mình kém cỏi, chỉ hiên ngang lên bụng để tuyên bố “Cộng sản ở đây”. Đôi tay ấy dù có mất đi mười ngón tay cũng vẫn không chịu từ bỏ, khi máu ngập tràn, mặn chát ở đầu lưỡi bởi nỗi đau, nhưng tay anh vẫn chiến đấu, vẫn vững vàng trên con đường đánh đuổi quân thù.
Nhật vật Tnú dưới tài năng bút pháp của Nguyễn Văn Trung đã trở thành một tượng đài trong lịch sử văn học và lòng độc giả. Anh là những kết tinh đẹp nhất của vẻ đẹp anh hùng, hào kiệt của người dân Tây Nguyên. Tinh thần “vì nước quên mình, thà chết chứ không chịu khuất phục” luôn sống mãi trong tinh thần của các anh chiến sĩ. Truyền thống tinh thần ấy mãi mãi là nét đẹp đáng quý, đáng phát huy trong muôn đời sau.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 1
Nhà văn Nguyễn Trung Thành như một người con của mảnh đất Tây Nguyên với những cánh rừng đại ngàn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất phải kể đến là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật Tnú hiện lên, đại diện cho lớp người Xô Man kiên cường, bất khuất trước chiến tranh xâm lược.
Tnú từ nhỏ đã mồ côi, thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Nhưng bù lại, Tnú được dân làng bao bọc, chăm sóc. Bởi vậy mà Tnú sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm: “có cái bụng thương núi, thương nước”. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Bởi thế, cậu bé con ngày nào luôn ý thức được lí tưởng sống của buôn làng, luôn tin tưởng đi theo con đường Cách mạng.
Vì vậy dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan góc táo bạo, đầy quả cảm. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù,, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết – một cán bộ trung kiên của Đảng. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt.
Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Cộng Sản ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Công việc khó khăn và đầy nguy hiểm là vậy nhưng Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ”Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”.
Trong việc học, Tnú còn là một người nghiêm khắc với bản thân, có ý chí, nỗ lực, quyết tâm không ngừng nghỉ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình: “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú thực sự đã mang trong mình những tố chất cần có để mai này trở thành một người chiến sĩ Cộng Sản trung kiên, anh dũng.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Mai – người bạn từ thuở thiếu thời – nay đã là vợ của Tnú và đứa con là kết quả của mối tình đẹp ấy. Song kẻ thù tàn bạo đã dập tan mái ấm bé nhỏ của Tnú.
Chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trước cái chết của vợ con hoàn toàn trở nên bất lực: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù, Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
Nhưng không còn kịp nữa! Tnú bị bắt. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản vì giờ gia đình anh đã không còn. Duy còn một điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là làng Xô man của mình. Ai sẽ cùng dân làng đánh đuổi quân giặc? Ai sẽ cùng dân làng đi theo lí tưởng của cụ Hồ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú.
Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về… Giặc đã đốt mười đầu ngón tay Tnú để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man lại bùng cháy.
Tnú không kêu van khi bị lửa thiêu ngón tay, mà Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Người Xô Man nhất nhất đồng loạt vùng dậy giết giặc. Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman.
Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục ác nghiệt hơn cả dã thú. Từ đây, Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên mảnh đất quê hương. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
Nhân vật Tnú tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Xây dựng nhân vật Tnú cho thấy được nét tài hoa của nhà văn Nguyễn Trung Thành khi viết về con người Tây Nguyên.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 6
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối.
Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.
Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,… sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ – Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”.
Giặc vây các ngả đường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà di, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng.
Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vượt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhường nhịn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự ác nghiệt của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí.
Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn: khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu.
Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo…”. Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được.
Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi.
Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây…
Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng.
Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm.Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số ít phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 5
Truyện ngắn Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được đánh giá như một bài “Hịch Tướng Sĩ” thời kì đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì gian khổ. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – biểu tượng cho sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
Hình ảnh Tnú và hình ảnh rừng xà nu đại ngàn là hai hình ảnh trung tâm xuyên suốt chiều dài tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Trung Thành không tự mình kể về Tnú mà ông lựa chọn 1 cách rất khéo léo để cho chính già làng – Cụ Mết kể về Tnú. Cụ là người đã sống cùng Tnú những ngày khi anh còn bé, đã dõi theo mọi chặng đường anh đi cùng anh trải qua mọi buồn vui khó khăn. Cụ Mết là nhân chứng sống về cuộc đời Tnú. Hình ảnh người anh hùng Tnú hiện lên qua giọng kể ồm ồm của cụ Mết sao thật hào hùng và đậm chất sử thi.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xôman. Với anh dân làng Xôman và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh. Anh luôn một lòng gắn bó với dân làng và sau này khi lớn lên chính cậu bé mồ côi người Strá được dân làng nuôi nấng ngày nào đã trở thành người chiến sĩ cách mạng cầm súng bảo vệ dân làng.
Tnú cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia luôn ôm áp bao bọc người dân làng Xôman. Cụ Mết từng nói về Tnú “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng. Tnú như 1 tấm gương phản chiếu cho sự bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách của người dân Xôman nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung.
Khi còn nhỏ Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Khi nhìn thấy những tấm gương làm liên lạc như anh Xút, bà Nhan bị bọn địch kia chặt đầu treo cổ thì Tnú vẫn không hề run sợ, anh vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Với anh cái chết của anh Xút và bà Nhan như tiếp thêm động lực để anh tiến đến gần hơn với cách mạng, tiến đến gần hơn với con đường có Đảng và cách mạng soi đường chứ không làm anh phải run sợ và chùn bước như chúng nghĩ.
Anh cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia dù có chịu đau thương đến nhường nào vẫn không chịu buông tay người dân Xôman “bên cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tnú đã dùng trí thông minh của mình để tìm ra con đường liên lạc an toàn và “lọt qua hết vòng vây của giặc”, anh “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc.
Hình ảnh người anh hùng Tnú càng hiện lên oai hùng và đầy mưu trí khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc trói bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng, không van xin chúng đến nửa lời.
Tất cả những đau đớn ấy chỉ làm cho lòng căm thù trong anh ngày một lớn dần, không hề làm anh nhụt chí mà đó như ngọn lửa châm ngòi cho ngọn lửa nghĩa khí trong anh bùng cháy. Người ta thường nói tuổi trẻ thường gắn liền với sự nông nổi, bồng bột nhưng ở người anh hùng trẻ tuổi Tnú người đọc không hề thấy một chút nào của sự bồng bột mà thay vào đó là một tinh thần chiến đấu quả cảm, một người chiến sĩ liên lạc gan dạ và đầy mưu trí.
Chắc hẳn người đọc không thể nào quên được hình ảnh Tnú cầm viên đá đập vào đầu để có thể nhớ được chữ. Cậu bé ấy cứ nghĩ rằng có thể nhét được những con chữ loằng ngoằng kia vào trí óc bằng cách bạo lực ấy. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và cố gắng vượt lên chính mình của Tnú không phải ai cũng có được và điều đó càng làm cho mọi người tin tưởng và yêu mến đứa con người Strá này hơn.
Động lực nào đã giúp Tnú gan dạ đến vậy. Bởi chính cuộc sống đã dạy anh, đã bồi đắp cho anh những phẩm chất của một người chiến sĩ ngay từ khi còn nhỏ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng vậy nên với anh dân làng chính là cuộc sống là dòng máu đang chảy trong con người anh. Anh đã lớn lên trong vòng tay dân làng, cùng dân làng bảo vệ cán bộ. Anh đã được sống cùng với cán bộ, đã cùng dân làng nuôi và che chở cán bộ nên anh hiểu làm cách mạng là như thế nào, và từ đó lòng yêu nước thù giặc trong anh đã lớn lên từng ngày.
Cậu bé ấy đã lớn lên trong vòng tay của những người dân lương thiện, trong vòng tay của những chiến sĩ quả cảm vì nước quên thân thì không có lí gì lại không thể trở thành đứa con của cách mạng, đi theo con đường mà Đảng và cách mạng đã chỉ đường soi lối. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ khai lấy nửa lời.
Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn giết chết người vợ yêu quí và đứa con hết mực yêu thương của vợ chồng anh nhưng không làm anh khuất phục. Lúc đó ai cũng hiểu nỗi đau trong lòng Tnú lớn đến nhường nào, trái tim anh như vỡ òa bởi những người thân duy nhất của anh, chỗ dựa vững chãi nhất của người chiến sĩ ấy đã bị hành hạ cho đến chết ngay trước mắt anh mà anh không thể làm gì được.
Anh đã “bứt đứt hàng chục trái vải mà không hay” và nổi đau đã biến “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Chúng nghĩ đánh một đòn tâm lí trí mạng như vậy với Tnú chắc anh không thể đứng dậy được nhưng không ngờ nỗi đau không từ ngữ nào tả hết ấy như tiếp thêm động lực để người con làng Xôman ấy ấy có thêm ý chí và động lực để gia nhập quân đội, để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Không chỉ dành tình yêu cho gia đình nhỏ của mình, Tnú còn có một tình yêu lớn lao với quê hương với bản làng. Trên đường trở về với bản làng đi qua cụm cây, ngọn cỏ hay suối nước nào mọi kỉ niệm trong anh đều ùa về. Dường như mọi thứ nơi đây vẫn thuộc về anh như ngày nào. Khi đã được tham gia lực lượng của cách mạng, Tnú là một người luôn tôn trọng kỉ luật đã đề ra.
Tuy rất nhớ quê hương, nhớ dân bản nhưng Tnú chỉ trở về thăm quê hương khi có giấy phép, trong giấy ghi được về bao ngày thì anh chỉ về vỏn vẹn đúng số ngày đã được ghi. Với Tnú tôn trọng kỉ luật, tôn trọng cấp trên là đang tôn trọng chính mình. Mọi tình cảm riêng tư được anh dồn nén ở trong lòng và không cho chúng được phép chi phối tới công việc, ảnh hưởng tới niềm tin mà cách mạng và cán bộ đã dành cho anh.
Bằng những ngôn từ sinh động tác giả Nguyễn Trung Thành đã dựng nên một hình tượng một người lính đầy gan dạ, kiên cường. Người chiến sĩ ấy được nuôi dưỡng và lớn lên trong cái nôi cách mạng. Chính người chiến sĩ mang tên Tnú ấy đã để lại trong lòng độc giả sự thán phục về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương đất nước.
Anh như những cây xà nu bất khuất kia, lấy thân mình che chở cho dân làng, góp xương máu của mình cho cách mạng và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho lí tưởng quang vinh.
Bài văn phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng xà nu” số 4
Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được nhiều người đánh giá là bản sử thi bi tráng và anh hùng của dân tộc. Trong chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của làng Xô Man, Tnú nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về con người Tây Nguyên anh hùng, bất khuất.
Tnú có tuổi thơ bất hạnh khi đã mồ côi ngay từ khi lọt lòng, anh được nuôi dưỡng bởi dân làng. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Cậu bé luôn thấm hiểu được lí tưởng sống buôn làng, tin tưởng đi theo Cách mạng.
Dù tuổi còn nhỏ nhưng Tnú không thua kém các chiến sĩ khác, rất dũng cảm và đầy quả cảm. Dù có sự vây lùng của kẻ thù, Tnú, Mai nuôi dưỡng và bảo vệ anh Quyết (cán bộ Đảng). Tnú trong một lần vượt qua thác thì bị địch bao vây, nhanh trí Tnú nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng. Mặc dù địch bắt tra tấn làm cơ thể trầy xước, thương tích nhưng anh kiên quyết không hé răng nửa lời về cách mạng, góp phần giữ bí mật cho cuộc chiến.
Tnú đã hoàn thành công việc của mình 1 cách xuất sắc góp phần bảo vệ cán bộ đảng an toàn. Không chỉ dũng cảm, gan dạ, anh còn có ý chí, nỗ lực trong học tập. Khi học chữ thua Mai, Tnú trừng phạt mình bằng cách đầy bất ngờ “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú toát lên vẻ gan lì, dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng. Trải qua một quãng đường từ nhỏ đến lớn rèn luyện cộng với ý chí sắt đá Tnú trở thành chiến sĩ trung thành với cách mạng.
Trở về làng sau quãng thời gian dài, Tnú lãnh đạo dân làng Xô man chống lại bọn ác ôn, Mai nay đã trở thành vợ của Tnú, hai người đã có chung một đứa con. Thế nhưng lại một lần nữa kẻ thù lại cướp đi mái ấm của anh, chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trở nên bất lực trước cái chết thảm thương của vợ con, không chỉ vậy anh còn bị bắt và vũng vẫy như một con thú hoang bị thương. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú, mười đầu ngón tay đã cháy nhưng Tnú không hề kêu than một lời.
Trước sự dã man, ác ôn của kẻ thù ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man bùng cháy. Người Xô Man nổi dậy đồng loạt giết chết giặc. Lòng hận thù biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Tnú đã xiết vào cổ họng của kẻ thù trả thù cho vợ con và cả những người đã bị bọn chúng giết.
Tnú vượt mọi đau thương cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quét sạch kẻ thù ra khỏi mảnh đất quê hương mang lại độc lập, tự do cho ngôi làng. Tnú thể hiện cho ý chí chiến đấu và khát vọng tự do cho chính mảnh đất Tây Nguyên.
Cuộc đời của Tnú cũng như chính vận mệnh của dân tộc Việt Nam, trải qua mọi đau thương từ kẻ thù nhưng vẫn bất khuất kiên cường để đi đến bến bờ của tự do, hạnh phúc. Tác phẩm ”Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ca ngợi mảnh đất, con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, đó cũng là hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ xâm lược.
Có thể bạn thích: