Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Bài thơ đã khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không có kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe hiên ngang, dũng cảm, ung dung, lạc quan giữa bom đạn của kẻ thù với tinh thần đồng chí, đồng đội và một ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số ít bài văn phân tích thi phẩm rất sáng tạo và hấp dẫn trong bài viết mà TopChuan.com tổng hợp dưới đây để thấy rõ hơn vẻ đẹp đó.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 10
Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong các những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong các những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.
Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970, Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, 1-1 giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.
Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình.
Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới. Nhìn đất nhìn trời, người lính lái xe còn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ, xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, Còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ 1-1 thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm. “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”.
Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng. Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.
Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến mấy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.
Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 2
Phạm Tiến Duật là một trong các những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phường ra tiền tuyến: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra trận lúc bấy giờ như ánh sáng chói chang, như gió mát lồng lộng phả vào tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ, khiến thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu thật khỏe khoắn, tràn đầy sức sống, rất tinh nghịch, tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.
Không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái, mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực, sống động đến vậy. Tất cả, cứ hiển hiện hồn nhiên, trực diện ngay trước bạn đọc: những chiếc xe không kính, cả tiểu đội xe, tiểu đội lính vận tải vui vẻ, tếu táo mà thật đĩnh đạc, hiên ngang, can đảm…
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh trớ trêu: “Xe không có kính”. Kết thúc là một hình ảnh bất ngờ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng, tiểu đội xe không kính ấy lăn bánh thông đường mau lẹ được là nhờ… “những trái tim cầm lái” ? Xin hãy lắng nghe lời người chiến sĩ lái xe, hãy đọc thơ và suy ngẫm…
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Lời kể, hay lời giới thiệu đoàn xe ? Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ ý như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Những chiếc xe kì lạ – “không có kính” (chắn gió) – mà thật anh hùng, đang vượt qua chặng đường nguy hiểm quân thù đánh phá ác liệt: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ đang vững tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”. Nào là “con đường chạy thẳng vào tim” rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném,… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình.
Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực dường ấy: cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng… Các anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”.
Hai câu thơ có nhịp thật cân đối: 2/ 2/ 2 và 2/ 2/ 2. Đó là sự căng thẳng của chiếc xe đang lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh, tự tin của người lái. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng… Nhìn thấy… nhìn thấy… thấy…”. Những điệp từ ấy cứ nhấn đi nhấn lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái. Hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua.
Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát – vút cao, vui vẻ:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách – dù sao cũng vẫn mơ hồ – thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn, mưa xối” – hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị mất kính bảo vệ.
Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “Không có kính, ừ thì có bụi… Không có kính, ừ thì ướt áo” – những câu thơ như lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi, toát ra một thái độ bất chấp mọi khó khăn. Đằng sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Thanh điệu phối hợp khá linh hoạt : thanh bằng – trắc (phì phèo châm — điếu thuốc); trắc – bằng (mặt lấm – cười ha ha); rồi lại bằng – trắc (trâm cây – số nữa). Và cuối đoạn là câu thơ bảy tiếng, sáu thanh bằng (“Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”) gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản.
Đó là khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Nhạc vui hài hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “… phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” và một ý nghĩ táo tợn: “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” làm cho thơ rộn rã, sôi động, luôn luôn hối hả, như sự sôi động, hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
Song, cũng có lúc đoàn xe dừng lại. Ấy là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích, giao hàng. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ, vui vầy trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng đội thật cảm động:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Lúc cắm trại các anh trò chuyện, ăn uống nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, “mắc võng chông chênh” … song cũng chỉ trong một thoáng chốc. Để rồi, lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm…”.
Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.
Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ,… Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “Không có kính / rồi xe không có đèn – Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc “cua vòng, rẽ ngoặt”… trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hai câu cuối có âm điệu đối chọi, mà trôi chảy, êm ru, hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước. Đặc biệt toả sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”.
Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ? Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích ?
Ngữ điệu của câu thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc hoạ hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đằm sâu, trĩu nặng. Ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về 1 bàn chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Có thể nói, cả bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là “nhãn tự”, là “con mắt của bài thơ”, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Trở lại với phong cách thơ Phạm Tiến Duật như phần đầu đã nêu, đọc “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, cũng như một vài tác phẩm tiêu biểu khác của ông – “Lửa đèn”; “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”; “Nhớ”,… thật thú vị khi nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết chiến vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn. Nổi bật trong cả bài thơ là hình ảnh: trong xe có một trái tim và một chất giọng vui đùa, hóm hỉnh, lãng mạn.
Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Do đó không phải ngẫu nhiên tác giả đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ, chất thơ tỏa ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui cuộc sống của con người thời đại.
Chất thơ ấy đi từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết…, đã khắc hoạ đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá con người, và cuối cùng cất bổng lên, hòa nhập với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả giai đoạn văn học Việt Nam trong ba thập kỉ chiến tranh chống xâm lược – từ năm 1945 đến năm 1975. Để hiểu rõ hơn về hình ảnh người lính các em có thể xem bài văn mẫu Cảm nhận vẻ đẹp của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 5
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây…
(Trường Sơn đông, Trường Sơn tây)
Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ trung và hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mỹ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô thanh niên xung phong,… là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được anh viết vào năm 1969 – khi cuộc chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mỹ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đuôi nhau đi lên phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ.
Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính “đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam.
Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng ác liệt, dữ dội, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng.
Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe “không có kính”. Cấu trúc câu thơ dưới hình thức “hỏi-đáp”. Ba chữ “không” đi liền nhau, hai nốt nhấn “bom giật, bom rung” biểu lộ “chất lính” trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm đặc chất văn xuôi, nhưng đọc lên nghe vẫn thú vị:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Mười bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nụ cười… Một tư thế ngồi lái “ung dung” tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai. Những cái nhìn khoáng đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai chữ “ta ngồi “với điệp từ “nhìn” láy lại 3 lần; giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc. Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ “nhìn thấy”. Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khắc nào một đoạn phim quay nhanh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Có gió thổi, có cánh chim chiều và cả ánh sao đêm. Gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng: “gió vào xoa mắt đắng”. Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên mới có cảm giác “đắng” như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó còn mang hàm nghĩa, “chạy thẳng vào tim”, con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc.
Các từ “nhìn thấy”… “nhìn thấy… ” “thấy… “với các chữ “sa”, chữ “ùa” góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn! Nếu khổ thơ trên nói đến “gió” thì khổ thơ tiếp theo nói đến “bụi”. Gió bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách. Chữ “ừ” vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ động của người chiến sĩ lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Bao chi tiết hiện thực đầy ắp vần thơ. Một mái tóc xanh của chàng trai qua mấy dặm trường có sự đổi thay đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Một hình ảnh so sánh hóm hỉnh, độc đáo, một kiểu hút thuốc rất “lính”. Một nụ cười lạc quan yêu đời và hồn nhiên “ha ha” cất lên từ một gương “mặt lấm “khi đồng đội gặp nhau: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”.
Sau “bụi” nói đến “mưa”: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”.
Thế là người lính nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mưa đã “tuôn” tất nhiên phải “xối”. Bao nhiêu áo quần ướt sạch vì ngồi trong buồng lái mà “như ngoài trời”. Chấp nhận, ngang tàng, phơi phới lạc quan:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ 7 từ mà có đến 6 thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”.
Hai khổ thơ thứ 5, thứ 6 ghi lại hình ảnh tiểu đội xe không kính và cuộc trú quân giữa rừng. Sau những chặng đường gian khổ, những tháng ngày mưa gió, bụi mù và bom đạn, họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng vô cùng độc đáo. Trong niềm vui gặp gỡ đã có nhiều mất mát hi sinh:
… Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có bữa cơm hội ngộ. Tình đồng đội cũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Cảnh mắc võng dã chiến “chông chênh ” bên đường. Rồi đoàn xe “lại đi, lại đi”, nối tiếp nhau ra tiền phương. Trên đầu họ, trong tâm hồn họ “trời xanh thêm”, chứa chan hi vọng, lạc quan dạt dào:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh: Chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích. Đã có biết bao chiến sĩ lái xe dũng cảm hi sinh. Chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường, 3 cái “Không có” và chỉ có 1 cái “có”: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. Sau cái “thùng xe có xước”, người chiến sĩ lái xe tự hào khẳng định cần “có một trái tim “trong xe.
“Có trái tim?” ấy là sẽ có tất cả: “Trái tim”- hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe trẻ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp thống nhất đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;
Chỉ cần trong xe có một trái tim
“Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận? Phải chăng câu thơ của Phạm Tiến Duật khơi nguồn cảm hứng từ câu nói nổi tiếng của Hồ Chủ tịch kính yêu: “Miền Nam luôn luôn trong trái tim tôi”? Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp 1 cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ “góc cạnh” đầy ấn tượng.
Nếu có gió, bụi, mưa, cánh chim, ánh sao sa vào, ùa vào buồng lái chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với lối nói thường đậm chất văn xuôi tràn vào bài thơ. Có nhiều câu thơ mang cái dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng một thời trận mạc:
– “Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
– “Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già…”
– “Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời…”
– “Không có kính, rồi xe không có đèn
– Không có mui xe, thùng xe có xước…”
Nếu tước đi những câu thơ ấy, thay vào bài thơ bằng những câu óng ả êm xuôi, chắc chắn giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của Bài thơ về tiểu đội xe không kính sẽ chẳng còn gì nữa. Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật: lấy cuộc sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa. Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo.
Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Ngoài các ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, Phạm Tiến Duật rất thành công trong sáng tạo các hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, tim,…) khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp ý chí của người chiến sĩ lái xe tiền phương.
Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt bài thơ. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 7
Phạm Tiến Duật( 1941 -2007) là một trong các những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử, tiêu biểu là bài thơ “Bài thơ tiểu đội xe không kính” ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang diễn ra ác liệt.
Qua việc khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính nhà thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Trước hết nguồn cảm hứng của bài thơ bắt đầu từ hình ảnh độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực, thực đến mực trần trụi.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Cấu trúc câu thơ dưới hình thức hỏi đáp, ba từ ” không” đi liền nhau thể hiện cách nói hồn nhiên đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân xe mất kính là do bom giật, bom rung, đó chính là sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng trải qua mưa bom bão đạn những chiếc xe càng trở nên méo mó biến dạng.
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Nhưng kì diệu thay, những chiếc xe không còn nguyên vẹn ấy vẫn kiên cường vượt qua mọi thử thách mưa bom, tiến về miền Nam yêu dấu, những chiến sĩ lái xe đã tạo nên sức mạnh ấy. Nét đẹp đầu tiên ta bắt gặp ở những người chiến sĩ lái xe là tư thế hiên ngang, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, lãng mạng:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy “ung dung” được đảo lên câu đầu kết hợp với từ ” nhìn” được lặp lại ba lần đã khắc họa một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tất, cụm từ” nhìn thẳng” được dùng thật hay, nhìn thẳng là nhìn vào con đường trước mắt, nhìn thẳng vào gian khổ nhưng không hề run sợ lé tránh. Không chỉ đẹp ở tư thế hiên ngang, dũng cảm người lính còn rất đáng yêu bởi tâm hồn trẻ trung lãng mạng.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những câu thơ nhanh, gấp mà nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng việc sử dụng phép điệp ngữ ” nhìn thấy” kết hợp động từ “xoa, chạy thẳng, sa, ùa”, tác giả đã diễn tả cảm giác mạnh và đột ngột của người chiến sĩ lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người lính như cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
Đặc biệt “con đường chạy thẳng vào tim” là hình ảnh đặc sắc gợi lên tốc độ của chiếc xe đang nhanh trên con đường, nó cũng là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính chỉ quan tâm tới nhiệm vụ không hốt hoảng sợ hãi dường như tất cả thiên nhiên vạn vật đồng hành cùng họ tiến về phía trước. Xe không kính biết bao nguy hiểm nhưng người lính vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng tinh thần lạc quan, bất chấp mọi gian khổ.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Ngoài sự ác liệt của chiến tranh, các chiến sĩ còn phải chịu nhiều gian khổ bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những câu thơ trên đầy ắp chất sống hiện thực ở chiến trường, hiện thực đầy gian khổ nhưng các chiến sĩ đã bình thường hóa cái gian khổ ấy, chấp nhận nó như một tất yếu vẫn đùa vui, tếu táo: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”, một tâm hồn đáng yêu sôi nổi làm sao?
Đó còn là bản lĩnh kiên cường của những người chiến sĩ, vẻ đẹp ấy còn được tác giả khắc họa bằng giọng thơ trẻ trung như lời nói của miệng “Không có kính, ừ thì có bụi”, gian khổ là vậy nhưng qua cách nhìn của những người lính thì vô cùng nhẹ nhàng, bởi lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất người lính trong cuộc chiến đấu. Trong gian lao thử thách tình đồng chí, đồng đội của họ càng thêm sâu nặng, thắm thiết.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Nhịp thơ như lắng lại, những người chiến sĩ nói về đồng đội cũng như đang nói về mình, họ gặp nhau từ chỗ bom rơi, nghĩa là từ chỗ ác liệt của cuộc chiến, cũng từ nơi này họ đồng cảm chia sẻ và trở thành bạn bè, họ chào nhau bằng những cử chỉ hết sức thân mật “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”, đó là niềm vui, lời động viên và chúc mừng nhau khi vượt qua khó khăn, là niềm tự hào sau mỗi lần chiến thắng.
Cảnh sinh hoạt của người lính bữa ăn giấc ngủ được khắc họa bằng hai hình ảnh ” bếp hoàng cầm, võng mắc” tất cả đều tạm bợ nhưng cách nhìn, cách nghĩ rất cảm động: ” gia đình đấy” họ coi nhau như anh em trong nhà, càng thiếu thốn thì càng xích lại gần nhau, tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp chặng đường mới và làm nên chiến thắng.
Điệp ngữ ” lại đi” có ý nghĩa khẳng định đoàn xe không ngừng tiến về phía trước khẩn trương và kiên cường, hình ảnh ẩn du ” trời xanh thêm” gợi lên tâm hồn lạc quan” phơi phới tràn đầy niềm tin, hi vọng của người lính lái xe. Bốn câu thơ cuối bài đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe bởi ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lòng yêu nước nồng nhiệt của họ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bằng việc sử dụng biện pháp liệt kê ” không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước” kết hợp với điệp ngữ “không có” hai câu đầu củ khổ thơ không chỉ nhấn mạnh sự thiếu thốn về vật chất mà còn diễn tả sự mất mát đau thương dồn dập của tiểu đội xe không kính do bom đạn của quân thù dội xuống càng về cuối cùng càng ác liệt, nhưng điều kì lạ là những chiếc xe không còn nguyên vẹn ấy vẫn tiếp tục đi “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”
Câu thơ cuối cùng như đọng lại một tâm huyết, cũng như một lời giải thích cho tất cả những điều kì lạ đẹp đẽ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim là hình ảnh hoán dụ, là hình ảnh yêu nước nồng nàn, trái tim của ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thân yêu.
Trái tim dũng cảm, trái tim ấy có sức mạnh vô biên, mạnh hơn mọi lỗi nguy lan, mạnh hơn mọi thứ bom đạn, mạnh hơn cả cái chết, sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là công cụ vũ khí mà chính là con người mang trái tim nồng nàn yêu nước, kiên cường dũng cảm. Có thể nói bai thơ hay nhất ở câu thơ cuối, nó như con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính.
Thật vậy bằng thể thơ tự do ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng, tinh nghịch, hình ảnh thơ chân thực, độc đáo ” bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật” đã khắc họa thành công bức chân dung độc đáo về người chiến sĩ lái xe Trường Sơn với những nét đẹp về tâm hồn tình cảm, tinh thần của họ chính là tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Chúng ta mãi yêu mến, tự hào về họ – những con người đẹp nhất trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 9
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
Những câu hát rộn ràng, mà vẫn đầy tha thiết được phổ từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng đến với thơ ca ông ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với chất ngang tàng, khí thế, vô cùng dũng cảm kiên cường của những người lính, họ là đại diện tiêu biểu cho người lính Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời vào những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay go và quyết liệt nhất. Ở khắp nơi các thanh niên gác lại chuyện học tập lên đường đánh giặc, xung phong vào chiến trường. Lúc này con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch, nối liền hậu phương và tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt.
Nhưng bằng sự dũng cảm, lòng quyết tâm những chiếc xe đã vượt qua mưa bom bão đạn lên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thật, âm điệu khỏe khoắn, hào hùng Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của người lính lái xe. Ngay từ câu thơ mở đầu, người lính đã giới thiệu về người bạn đồng hành của mình – những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Câu thơ vừa có gì đó ngang tàng, nhưng đồng thời cũng hết sức dí dỏm. Lời thơ tự nhiên, chân thật như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ba chữ không đi cùng với các động từ mạnh: giật, rung giúp diễn tả cái dữ dội, ác liệt của chiến tranh , đồng thời cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính. Câu thơ như một lời phân trần, về vẻ ngoài sứt mẻ, thiếu thốn của chiếc xe. Và đằng sau những chiếc xe thiếu thốn, vỡ kính ấy hiện lên chân dung của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trước hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh, người lính vẫn hết sức ung dung, đường hoàng. Họ luôn chủ động trước mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Cái nhìn thẳng ấy cho thấy tư thế hiện ngang, nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến đấu mà không hề né tránh.
Những chiếc xe không kính đó còn tạo điều kiện cho người lính hòa mình vào thiên nhiên. Là những luồng gió mạnh táp thẳng vào buồng lái, khiến cho ai nấy phải cay mắt, nhưng đã được Phạm Tiến Duật hình dung hết sức dí dỏm “xoa mắt đắng” – xoa dịu cái rát bỏng của luồng gió Trường Sơn.
Nào đâu chỉ có vậy, còn chim chóc và sao trời cũng hòa chung với người lính một nhịp thở. Lúc này âm thanh của tiếng chim đã đẩy lùi mọi khó khăn, nguy hiểm, nhường chỗ để họ cảm nhận từng vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói bằng cái nhìn bình thản, lạc quan, tư thế ung dung người lính đã chiến thắng mọi bom đạn của kẻ thù. Ở hai khổ thơ tiếp theo, vẻ đẹp của người lính tiếp tục được khắc họa khi đối mặt với khó khăn, gian khổ ấy chính là khói bụi Trường Sơn:
Không có kính, ừ thì có bụi…
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Khổ thơ đã sử dụng thủ pháp lặp cấu trúc kết hợp với điệp từ “ừ thì” “chưa cần” khiến cho cả khổ thơ như một lời thách thức trước những thử thách của thiên nhiên. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực về những khó khăn mà người lính lái xe phải trải qua: đối mặt với mưa rào, đối mặt với khói bụi khi trời nắng nóng.
Nhưng đối với họ những thử thách đó chỉ làm cho họ thêm phần kiên cường, họ “chưa cần thay” “chưa cần rửa” để lái trăm cây số, lái nhanh ra tiền tuyến. Ngoài vẻ đẹp về sự kiên cường, dũng cảm, ở họ còn toát lên tình đồng chí đồng đội gắn bó. Sau những quãng đường đầy mệt nhọc và nguy hiểm, qua cửa kính vỡ rồi họ bắt tay nhau, trao cho nhau sức mạnh, niềm tin vào tương lai đất nước.
Đối với họ, không dừng lại ở tình đồng chí 1-1 thuần mà đó còn là tình cảm gia đình: “Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy” . Để rồi sau bữa cơm quây quần, đầm ấm đó họ chia tay nhau, tiếp tục lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khổ thơ cuối cùng hình ảnh những chiếc xe không kính xuất hiện lại một lần nữa, xe không kính, không đèn, không mui, vô cùng thiếu thốn, đã bị biến dạng vì bom đạn kẻ thù.
Nhưng đó không phải là điều mà Phạm Tiến Duật muốn hướng đến, đối lập với cái không ấy là một cái có vô cùng cao cả, thiêng liêng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim là hình ảnh hoán dụ đặc sắc, biểu tượng cho những người lính lái xe.
Chỉ cần trong những chiếc xe đó có trái tim nhiệt huyết, tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thì những chiếc xe đó vẫn ngày đêm băng đèo vượt suối, vượt qua mọi hiểm nguy, tiến về phía trước. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy những chiếc xe chứ không thể phá hủy lòng nhiệt thành yêu nước của những chiến sĩ cách mạng.
Với ngôn từ giản dị, đậm chất khẩu ngữ cùng giọng thơ ngang tàng, hóm hỉnh, Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc chân dung đẹp đẽ của người lính. Họ vừa có cái hóm hỉnh của tuổi trẻ vừa có sự kiên cường, anh dũng, quả cảm. Vẻ đẹp của những người lính cũng như một bài học nhắc nhở cho chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 8
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng thời với Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Trà… Với giọng thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc, thơ Phạm Tiến Duật chủ yếu tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua hình tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một thi phẩm hay, rất tiêu biểu cho đặc điểm thơ và phong cách nghệ thuật đó của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái xe ở chiến trường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ.
Qua đó, nhà thơ phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến chiến đấu ngoan cường của những người lính trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đầu tiên, điểm gây ấn tượng khác lạ và độc đáo ban đầu nơi người đọc qua tác phẩm là cách đặt nhan đề của Phạm Tiến Duật: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính cái điểm ấy mà tạo nên cái độc lạ, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Tác giả đã thêm vào nhan đề tác phẩm hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc.
Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe không kính”.
Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Cho nên, ngay nhan đề thơ đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc thái thẩm mĩ riêng cho toàn bộ bài thơ: hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, rất lính tráng.
Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Thực ra, trước Phạm Tiến Duật đã có rất nhiều phương tiện giao thông đã được các nghệ sĩ đưa vào trong thơ của mình. Đó là hình ảnh của một con tàu tiến lên Tây Bắc trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên hay đó là con thuyền tiến ra khơi đánh bắt cá của những người ngư dân miền chài lưới trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận…
Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi, “sống sít”. Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật” , “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá của chiến tranh.
Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên hết sức trần trụi khủng khiếp:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Điệp từ “không có…” kết hợp với cách liệt kê hình ảnh các bộ phận thiếu thốn của xe “kính, mui, đèn, thùng xe” đã cho thấy cái nhìn rất chân thực về chiến tranh. Đó là sự hủy diệt vô cùng tàn khốc của bom rơi, đạn lạc nơi chiến trường xa xôi. Chủ nhân của những chiếc xe không kính ấy là những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Phạm Tiến Duật đã dùng thủ pháp “đòn bẩy”, những chiếc xe không kính càng trần trụi, khốc liệt bao nhiêu thì phẩm chất của những người lính lái xe lại càng nổi bật lên bấy nhiêu. Qua đó tác giả muốn cho người đọc thấy được: lòng quả cảm, can trường, bất chấp mọi hiểm nguy, thiếu thốn của người lính lái xe nơi chiến trường. Mặc dù những chiếc xe bị hủy hoại, tàn phá nhưng người lính vẫn rất hiên ngang, ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh ra chiến trường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là sao trời, cánh chim “như sa, như ùa vào mặt, vào người, vào buồng lái của người lính lái xe. Các động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính phải đối diện.
Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái: “Ung dung buồng lái ta ngồi / Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính.
Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn, hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính vỡ. Trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa, bụi:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời”
Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, người lính đã vượt qua tất cả:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rời
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.
Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của Phạm Tiến Duật về gia đình – về mối quan hệ thiết thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp.
Chính tình cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước. Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng.
Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàng sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, trông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi.
Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một pho tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mỹ cứu nước với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dạy tương lai.
Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu…Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son.
Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mỹ vẫn mãi sống với thời gian và trong lòng dân tộc.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật số 3
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau chuốt mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. Hình ảnh người lính hiện lên đậm nét qua ngòi bút sắc sảo của Phạm Tiến Duật.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn khốc, ác liệt đã khiến nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than, đất nước điêu đứng. Những người chiến sỹ vượt qua gian lao để làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ được đặc tả chân thực, sâu sắc qua những vần thơ của Phạm Tiến Duật. Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định chắc nịch:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá nhưng tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Tác giả đưa ra một lý do hiển nhiên, đủ sức thuyết phục cho việc chiếc xe không có kính. Hai từ “không” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định rằng đó là sự thật hiển nhiên, bọn Mỹ cường bạo đã trút bao nhiêu hận thù xuống mảnh đất đầy đau thương này.
Những lời thơ của tác giả gần gũi với lời ăn tiếng nói của mỗi người nên rất dễ hiểu, dễ thấm. Sang đến câu thơ thứ ba, hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ hiện lên với phong thái hiên ngang, oai phong:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “ung dung” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm chủ được chiến trường mà không hề nao núng. Đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa mang ý nghĩa đại diện cho nhiều người, cho một quốc gia luôn trong tâm thế sẵn sàng đánh địch. Đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của chính tác giả.
Trước mắt người chiến sỹ là trời đất bao la, rộng lớn, phải tiến về phía trước thì mới có thể giành được chiến thắng. Từ “nhìn” ở câu thơ tiếp theo được lặp lại 3 lần như khẳng định sự kiên trì, vững vàng và tập trung cao độ cho trận chiến.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hai câu thơ này đã có sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, nhạy cảm. Từ “nhìn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc nữa mà đã chuyển sang ý nghĩa khác. Lúc này không những nhìn thấy đường, thấy trời đất, mà thấy cả “gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui tươi giữa cảnh bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao liệng ở phía ngoài kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa” vào buồng lái. Đến đoạn thơ sau tác giả đã diễn tả được sự khốc liệt của chiến tranh:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Hiện thực chiến tranh khốc liệt, tàn khốc được vẽ lên qua ngòi bút chân thực của tác giả. Với ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống của con người. Một từ “ừ” khiến cho câu thơ trở nên nhẹ tênh, không một chút do dự hay vướng bận. Một từ “ừ” khiến cho tâm trạng của những người lính trở nên nhẹ nhõm hơn. Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không làm chùn bước, ý chí của những người lính cách mạng.
Điệp từ “chưa cần” càng khẳng định tâm thế hiên ngang, bất cần đời của anh bộ đội cụ Hồ. Nhưng chính điều này đã làm nên phong cách “ngông”, phong thái ung dung cần phải có trong cuộc kháng chiến đầy ác liệt như thế này. Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội luôn được đề cao và khẳng định:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng ngưỡng mộ. Vượt qua bao nhiêu bom đạn, thử thách những chiếc xe từ trăm mọi ngả đường đã về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những trận chiến đã vượt qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” thực sự khiến người đọc ứa nước mắt, vì nó thật đẹp và cao cả.
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cho cuộc chiến tranh bớt tàn khốc, bớt ảm đạm hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh thì tình cảm luôn có thể chiến thắng tất cả. Nó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng. Có lẽ đoạn thơ cuối là đoạn thơ đẹp nhất, ấn tượng nhất:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng hơn hết vẫn là ý chí, là niềm tin và sự nỗ lực vì miền Nam phía trước. Hình ảnh “trái tim” ở cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thật nên thơ, trữ tình. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa kiên cường, vừa hiên ngang. Đó là một hình ảnh đẹp xuyên suốt cả bài thơ.
Có thể bạn thích: