Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là nhà văn mang đậm sắc thái Nam Bộ. Thơ văn của ông thể hiện lý tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân. Bài thơ “Chạy giặc” đã tái hiện chân thực cảnh quê hương khi thực dân Pháp đến tàn sát. Bài thơ còn thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết của tác giả. Đó là những giây phút đau thương trước cảnh nước mất nhà tan. Ông đã lên tiếng kêu gọi những người có trách nhiệm đứng lên đánh giặc cứu nước và thức tỉnh lòng yêu nước trong mỗi người dân Việt. Mời các bạn tham khảo 1 số ít bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn nội dung này.
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 2
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 19. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường, công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. Ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc săn sóc sức khỏe của nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành ngôi sao sáng trong nền văn nghệ Việt Nam cuối thế kỉ 19.
Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như truyện “Lục Vân Tiên”, truyện “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” … Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như “Chạy giặc”, “Xúc cảnh”, “Văn tế Trương Công Định”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v…
Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…”. Nếu các truyện thơ “Lục Vân Tiên”, “ Ngư Tiều y thuật vấn đáp”…. sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như “Chạy giặc” đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…
Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những người anh hùng, suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.” (Phạm Văn Đồng). Khi Tổ quốc bị xâm lăng “súng giặc đất rền”, những người áo vải chân đất “dân ấp dân lân” đã quật khởi đứng lên đánh giặc với ý chí căm thù sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”
Họ đánh giặc là để bảo vệ “tấc đất ngọn rau”, để giữ lấy “bát cơm manh áo ở đời” Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xung trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng tham gia đánh giặc. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là “lòng đạo” chung thủy, sắt son, sáng ngời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước… Vì thế mà niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu con người Việt trong thế kỉ qua:
“Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”
(Xúc cảnh)
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 8
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Đừng nói tới cảnh dân chạy giặc vội mà trước hết hãy chú ý đến tiếng súng Tây rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là bắt đầu sự sum họp của gia đình.
Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà. Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba giống mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật… cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho; hay giản dị hơn chỉ có râu tôm nấu với ruột bầu… Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.
Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm, súng giặc đất rền. Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. Vừa nghe thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng phút sa tay. Thất bại ập đến nhanh chóng. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng hỗn loạn, lộn xộn sẻ nghé tan đàn:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc tan chợ:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. Một bàn cờ thế là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, bất lương liệt.
Ba tiếng phút sa tay trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ nhanh chóng của quân triều đình tại thành Gia Định. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ vận dụng sắc sảo: Vị ngữ bỏ nhà và mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay.
Nếu viết Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy và Đàn chim mất ổ dáo dác bay thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn nữa! Cặp từ láy lơ xơ và dáo dác gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội bất lương của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của, tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: Của tiền Bến Nghé tan bọt nước và Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây, mà đã viết:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lí bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ XIX vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang.
Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch tan bọt nước. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh tan bọt nước và nhuốm màu mây là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội bất lương của giặc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận 1 cách sâu sắc bài thơ Chạy giặc đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như một bài ca yêu nước. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiểu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
(Núi đôi – Vũ Cao)
Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây.
(Quê mẹ – Tố Hữu)
Trong hơn một thế kỉ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu kết trong bài Chạy giặc, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Trang dẹp loạn cũng là trang anh hùng hào kiệt. Rày đâu vắng: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! Chạy giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ XIX.
Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỉ XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do.
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 5
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông là gương mặt tiêu biểu của nhân dân Nam Bọ trong phong trào thơ ca yêu nước chống quân xâm lược. Những tác phẩm của ông thường có tính đấu tranh vô cùng mạnh mẽ. Phê phán và lên án sự tàn bạo của quân thực dân xâm lược. Bài thơ “Chạy giặc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ dường như đã tái hiện được khung cảnh xã hộ Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, với những sự hoang tàn, bi đát. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu.
Thực dân Pháp đô hộ nước ta vào những năm 1958. Chúng đã thể hiện sự bành trướng của mình, khiến cho nhân dân ta lâm vào cảnh khổ cực khốn cùng. Trước những cảnh đau thương thương tang tóc này. Nguyễn Đình Chiểu đã không khỏi đau xót thương tâm.
Lòng yêu nước trỗi dậy, sự căm thù quân xâm lược càng dâng cao. Và trong cái tình cảnh ấy, ông đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc” như là một sự minh chứng về thời kỳ lầm than của dân tộc ta trong bối cảnh hỗn loạn. Bài thơ cũng thể hiện sự căm thù đến tột cùng đối với quân xâm lược tàn bạo. Mở đầu bài thơ là một sự tái hiện về những tiếng súng dữ dội của kẻ thù”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại không khí đầy dữ dội khi tiếng súng Tây. Làm cho mọi người trở nên hoảng loạn, mọi vật đều nhuốm màu bi thương. Không gian mà nhà thơ tái hiện đó chính là không gian của một khu chợ. Và thời điểm được gợi nhắc đến đó chính là thời điểm “tan chợ”.
Lúc này chính là lúc người người đang tấp nập rủ nhau ra về sau buổi chợ. Khi ấy thì tiếng súng Tây bắt đâu nổ dồn, đây là sự hủy diệt tàn bạo của lũ giặc cướp nước. Bởi chúng nhằm vào thời điểm con người mất cảnh giác nhất, tập trung đông đúc nhất để nổ súng, sát hại người dân ta. Ở đây tác giả vừa thể hiện được hành động tàn bạo, vô nhân tính của quân Pháp. Vừa thể hiện được thái độ căm thù của mình với chúng.
Hai từ “súng Tây” như một kiểu nói cộc lốc. Một sự coi thường quân cướp nước, một sự lên án của những kẻ chỉ muốn dùng vũ lực bằng súng. Và trong cái tiếng súng đột ngột đó khiến cho rất nhiều người phải sợ hãi, hoảng loạn. “Một bàn cờ thế lúc sa tay” với ý nghĩa là khi đang chơi một ván cờ thế. Bỗng dưng do tiếng súng kia là cho giật mình và làm những quân cờ sa xuống bàn cờ. Tội bất lương của kẻ thù thực sự đáng ghê sợ, một hành động đáng bị lên án.
Hai từ “súng Tây” đã thể hiện được điều đó, tác giả không lên án trực tiếp bọn thực dân Pháp mà gọi chúng với cái tên đầy coi thường. Bọn Tây, tức những người khác chúng ta về chủng tộc, mang trong mình âm mưu thâm độc, thấp hèn đáng coi thường, chúng dùng bạo lực chèn ép dân ta, hành động thật đáng lên án. Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng thể hiện được thái độ căm thù khôn siết của mình đối với bọn giặc.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tiếng súng Tây đột ngột nổ dồn khiến cho mọi người có mặt trong khung cảnh ấy hoảng loạn, sợ hãi “Một bàn cờ thế lúc sa tay”. Câu thơ này có thể hiểu là những người chơi cờ vì bị tiếng súng làm cho giật mình mà làm sa những quân cờ xuống bàn cờ.
Hoặc ta cũng có thể hiểu bàn cờ thế lúc sa tay này chính là thực trạng của Việt Nam lúc bấy giờ, là lúc dân tộc ta đang thất thế trước quân giặc. Chúng đã lợi dụng tình hình bất ổn của đất nước ta mà nhảy vào xâm lược, gây ra bao nhiêu cảnh đau khổ. Khung cảnh khi có tiếng súng Tây cũng thật hỗn loạn, xơ xác. Không chỉ con người mà ngay cả những loài vật cũng hoảng loạn, tìm đường chạy chốn, ẩn náu:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Đó là cảnh những đứa trẻ vì bị tiếng súng dọa cho giật mình, sợ hãi mà bỏ nhà chạy toán loạn. Muốn chạy trốn tiếng súng cũng như sự hủy diệt đáng sợ ấy “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, chúng mới chỉ là những đứa con nít. Hàng ngày phải sống trong khung cảnh dữ dội, hủy diệt của bom đạn quả thực vô cùng đáng thương. Chúng đang ở tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, là những lúc vô lo, vô nghĩ nhất nhưng lại sinh ra trong giai đoạn đất nước đầy biến động, bạo loạn.
Không chỉ có lũ trẻ sợ hãi, mà ngay cả những loài vật trong tự nhiên cũng bị sự hủy diệt của kẻ thù mà mất đi nơi sinh sống. Hoảng loạn mà bay dáo dác khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn. Không khí mà nhà thơ gợi ra ở đây thật hỗ loạn, bi thương.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Một địa danh của Gia Định là Bến Nghé, khi bị xâm phạm. Những thứ vô tri như bến nước, dòng sông cũng đã bị lay động. Những đồng cảm của những thứ vốn vô tri đó với thực cảnh đất nước đang trong chiến tranh. Bọt nước vỡ tan ở Bến Nghé, khung cảnh yên bình không còn nữa. Sự vỡ tan ấy cũng như sự phẫn nộ của đất trời, thiên nhiên vô tri trước tội bất lương của quân giặc.
Dòng sông Đồng Nai cũng bị nhuốm màu của bi thương, đau khổ. Đó chính là sự đồng cảm, hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Cái cảnh đau thương của con người, cũng làm cho cảnh vật vô tri cũng có cảm xúc. Nó chính là một sự phẫn nộ trước sự tàn phá của kẻ thù.
“Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Như một câu hỏi trước sự thật đau lòng. Đất nước đang bị tàn phá, người dân phải chịu khổ cực. Một câu hỏi như là một lời trách móc đối với cái triều đình vô dụng nhà Nguyễn. Một triều đình thực sự nhu nhược, chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên đi những người dân đang sống trong cảnh mắc nạn. Để cho quân xuân lược chèn ép, áp đặt “mắc nạn này”. Một sự chờ đợi mong mỏi, có một người tài trí, một vị tướng tài ba sẽ đứng lên chống lại kẻ thù. Nhưng vào thời điểm này, thì đâu có xuất hiện ai bởi cái triều đình thối nát đó.
Qua “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta thấy được đây thực sự là một tuyệt phẩm thơ của ông trong thời kỳ biến loạn của đất nước dưới sự xâm lực của quân thực dân. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu đất nước, và qua đó cũng thể hiện sự căm thù quân xâm lược. Bài thơ là một sự thể hiện cảm xúc thực, tình cảm thực của chính Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 10
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, ông là gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào văn chương yêu nước chống thực dân xâm lược khu vực Nam Bộ, ông để lại rất nhiều những sáng tác hay có tính đấu tranh mạnh mẽ, chống lại thực dân Pháp xâm lược, và bài thơ “Chạy giặc” là 1 trong những bài thơ tiêu biểu của ông.
Bài thơ này tái hiện được chân thực khung cảnh xã hội Việt Nam khi thực dân Pháp xâm lược, đó là khung cảnh hoang tàn, bi đát trước sự tàn phá của đội quân xâm lược. Đồng thời bài thơ này cũng thể hiện được rõ nét thái độ chán ghét, căm thù của tác giả Nguyễn Đình Chiểu với quân Pháp.
Năm 1958 Thực dân Pháp đã nổ súng, mở đầu cho công cuộc xâm lược dân tộc ta, từ Đà Nẵng chúng đã mở rộng đánh chiếm vào khu vực Gia Định, trước thực trạng xâm lược tàn bạo của thực dân Pháp, nhân dân ta bị đẩy vào bước đường lầm tham, đau khổ đến cùng cực.
Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà văn giàu lòng yêu nước nên khi chứng kiến thực trạng ấy đã không khỏi đau xót, thương tâm. Càng yêu nước bao nhiêu thì lòng căm tù giặc càng lớn bấy nhiêu, và trong hoàn cảnh ấy, tình cảm ấy nhà thơ đã viết bài thơ “Chạy giặc” vừa là để tái hiện lại thời thế hỗn loạn, nhân dân lầm tham vừa là để thể hiện lòng căm thù sâu sắc của mình đối với đội quân xâm lược.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại không khí đầy dữ dội khi tiếng súng Tây làm cho mọi người trở nên hoảng loạn, mọi vật đều nhuốm màu bi thương. Không gian mà nhà thơ tái hiện đó chính là không gian của một khu chợ, và thời điểm được gợi nhắc đến đó chính là thời điểm “tan chợ”, lúc này chính là lúc người người đang tấp nập rủ nhau ra về sau buổi chợ.
Khi ấy thì tiếng súng Tây bắt đâu nổ dồn, đây là sự hủy diệt tàn bạo của lũ giặc cướp nước, bởi chúng nhằm vào thời điểm con người mất cảnh giác nhất, tập trung đông đúc nhất để nổ súng, sát hại người dân ta. Ở đây tác giả vừa thể hiện được hành động tàn bạo, vô nhân tính của quân Pháp, vừa thể hiện được thái độ căm thù của mình với chúng.
Hai từ “súng Tây” đã thể hiện được điều đó, tác giả không lên án trực tiếp bọn thực dân Pháp mà gọi chúng với cái tên đầy coi thường, bọn Tây, tức những người khác chúng ta về chủng tộc, mang trong mình âm mưu thâm độc, thấp hèn đáng coi thường, chúng dùng bạo lực chèn ép dân ta, hành động thật đáng lên án.
Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng thể hiện được thái độ căm thù khôn siết của mình đối với bọn giặc “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tiếng súng Tây đột ngột nổ dồn khiến cho mọi người có mặt trong khung cảnh ấy hoảng loạn, sợ hãi “Một bàn cờ thế lúc sa tay”. Câu thơ này có thể hiểu là những người chơi cờ vì bị tiếng súng làm cho giật mình mà làm sa những quân cờ xuống bàn cờ.
Hoặc ta cũng có thể hiểu bàn cờ thế lúc sau này chính là thực trạng của Việt Nam lúc bấy giờ, là lúc dân tộc ta đang thất thế trước quân giặc, chúng đã lợi dụng tình hình bất ổn của đất nước ta mà nhảy vào xâm lược, gây ra bao nhiêu cảnh đau khổ. Khung cảnh khi có tiếng súng Tây cũng thật hỗn loạn, xơ xác, không chỉ con người mà ngay cả những loài vật cũng hoảng loạn, tìm đường chạy chốn, ẩn náu:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Đó là cảnh những đứa trẻ vì bị tiếng súng dọa cho giật mình, sợ hãi mà bỏ nhà chạy toán loạn, muốn chạy trốn tiếng súng cũng như sự hủy diệt đáng sợ ấy “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, chúng mới chỉ là những đứa con nít, hàng ngày phải sống trong khung cảnh dữ dội, hủy diệt của bom đạn quả thực vô cùng đáng thương, chúng đang ở tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, là những lúc vô lo, vô nghĩ nhất nhưng lại sinh ra trong giai đoạn đất nước đầy biến động, bạo loạn.
Không chỉ có lũ trẻ sợ hãi, mà ngay cả những loài vật trong tự nhiên cũng bị sự hủy diệt của kẻ thù mà mất đi nơi sinh sống, hoảng loạn mà bay dáo dác khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn. Không khí mà nhà thơ gợi ra ở đây thật hỗ loạn, bi thương.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Bến Nghé, Đồng Nai là những địa danh của Gia Định, khi quê hương, xứ sở của mình bị xâm phạm, thì ngay cả những thứ vô tri như bến nước, dòng sông dường như cũng bị lay động, chúng dường như thế hiện được sự đồng cảm của mình với thực cảnh của đất nước. Sự dữ dội của khung cảnh chiến tranh, những bọt nước ở Bến Nghé cũng vỡ tan, khung cảnh yên bình nơi bến nước không còn, sự vỡ tan ấy cũng như sự phẫn nộ của đất trời, thiên nhiên vô tri trước tội bất lương của quân giặc.
Dòng sông Đồng Nai cũng bị nhuốm màu của bi thương, đau khổ, đó chính là sự đồng cảm, hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Đọc đến câu thơ này tôi chợt nhớ đến một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đúng như vậy, những vật vô tri này có thể bị hiện thực dữ dội tàn phá hoặc nó được cảm nhận trong dòng tâm trạng phẫn nộ, đau đớn của nhà thơ.
“Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Đau lòng trước thực trạng đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, lòng người đau đớn vì sự bạo tàn Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện sự băn khoăn, trăn trở cũng là sự trách móc thầm kín đối với triều đình bất lực, vô dụng nhà Nguyễn. Trong lịch sử, mỗi khi đất nước có chiến tranh thì lại xuất hiện những con người tài giỏi, những vị tướng tài ba, những trang dẹp loạn vĩ đại.
Nhưng vào thời điểm này, trang dẹp loạn nơi nào vẫn chưa xuất hiện, nhà thơ như tự hỏi mình, câu hỏi không có câu trả lời. Đồng thời nhà thơ cũng hướng sự trách móc, phê phán của mình đến triều đình nhà Nguyễn, khi chỉ biết đến lợi ích của mình mà nhu nhược, nhún nhường trước quân bạo tàn, để chúng gây ra bao nhiêu đau khổ cho dân đen như vậy.
Bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu là bài thơ tái hiện được chân thực và sống động một thời kì biến loạn, đau thương của đất nước, của dân tộc. Đồng thời cũng thể hiện được một tấm lòng yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc của chính nhà thơ. Đó chính là những cảm xúc thực, tình cảm thực của tác giả khi đất nước có biến loạn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 9
Nguyễn Đình Chiểu một ngôi sao sáng trong nền văn học dân tộc, tuy ông bị mù nhưng tâm hồn lại trong sáng như gương. Ông đã thấu hiểu hết nỗi thống khổ của người dân bần hàn cùng cực, nỗi khổ của những con người mất nước. Bài thơ “Chạy giặc” chính là một tác phẩm tiêu biểu của phong cách nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tác phẩm đã trở thành nhân chứng lịch sử, gắn với niềm vui, nỗi buồn của dân tộc. Bài thơ mang một ý nghĩa sâu sắc lay động bạn đọc.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ðồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc”, bài thơ đã thể hiện chân thực nỗi khổ của nhân dân khi bị bọn thực dân giày xéo. Tác giả tuy bị mùa lòa nhưng nhìn thấu hết thế sự, lòng đau đớn xót xa khi dân tộc lâm vào cảnh lầm than, con trẻ phải sống trong sợ hãi, khổ cực.
Hai câu đề bài thơ đã nói lên cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ, chiến tranh nổ ra, trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế” chỉ cần “phút sa tay” vậy mà Thành Gia Định thất hủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Chỉ với hai câu thơ thôi mà mọi thứ đã hiện lên như một trang lịch sử.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bài cờ thế phút sa tay”
“Tiếng súng Tây” mới nghe thôi cũng có thể cho bạn đọc hình dung đến cảnh chiến tranh tàn khốc. Thực dân Pháp mang đến vũ khí hiện đại hơn chúng ta nhiều lần, chúng xâm chiếm nước ta, ép nhân dân ta vào bước đường cùng. Vậy mà “vừa nghe tiếng súng”, “phút sa tay” làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng và nói lên sự kinh hoàng của chính nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định thất thủ.
Trong hai câu thơ, tác giả đã sử dụng hình ảnh “Một bàn cờ thế” 1 cách nói ẩn dụ sâu sắc đầy ước lệ, hàm súc khiến cho bạn đọc hiểu ngay rằng đó là tình hình, cục diện chiến trường, và bàn cờ thế ấy đang nghiên về thực dân Pháp.
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Khó thể có hình ảnh nào đặc sắc hơn khi tác giả đã sử dụng những hình ảnh lũ trẻ và bầy chim để tả cảnh chạy loạn. Nhà thơ lấy hình ảnh bé bỏng, yêu thương “lũ trẻ” làm biểu tượng cho thế giới của con người, lấy hình ảnh đẹp đẽ, tự do “đàn chim” là biểu tượng của thế giới thiên nhiên. Hai hình ảnh rất điển hình cho quê hương đất nước. Vậy mà giờ đây “bỏ nhà”, “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dác bay” đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng.
Những từ láy gợi hình đã để lại những ấn tượng cực kỳ sâu sắc, nước mất thì nhà tan, trẻ em nhẽ ra phải được sống trong cảnh yêu bình mà giờ đây cũng phải chịu theo số mệnh đất nước, bị thực dân giày xéo, cảnh quê hương thanh bình nay trở nên dáo dác khi có bóng xâm lăng. Đặc sắc nghệ thuật của tác giả trong hai câu thơ này là phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ “bỏ nhà” và “mất ổ” tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên cảnh tang thương, đau xót nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Hai nơi ấy trước đây là là nơi sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập, Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Vậy mà trong “phút sa tay” đã bị giặc Pháp tàn phá, cướp bóc đến tiêu điều xơ xác. Tài sản của nhân dân bị cướp sạch, đã trở thành “tan bọt nước”. Nhà cửa, làng xóm bị đốt phá tan hoang, lửa khói ngút trời bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh lồng trong những hình ảnh đặc sắc “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây”, những hình ảnh đầy chắt lọc đã làm hiện lên tội bất lương tày trời của giặc. Thêm vào đó cũng chính là nỗi lòng của tác giả, nỗi đau đớn và sự căm thù kẻ cướp nước. Hai câu kết của bài thơ được viết ra là một câu hỏi tu từ:
“Hỏi trang dẹp loạn dày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Đây chính là cảm xúc nghẹn ngào đã trào dâng, biểu lộ một tâm trạng đau đớn. Một câu hỏi rất mong có câu trả lời. Rồi sau đây vận mệnh đất nước sẽ ra sao, tính mạng và tài sản của nhân dân ta rồi sẽ ra sao. Một câu hỏi thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng, thực sự sao lại để dân đen đến nỗi khổ cực này, thật quá xót xa.
Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc.
Bài thơ hiện lên như một trang lịch sử dân tộc đầy đau thương, thực dân Pháp xâm lăng, bờ cõi quốc gia khó giữ. Những khung cảnh chân thực, đầy bi đát hiện lên và lồng ghép trong đó chính là tình yêu thương của tác giả đối với dân tộc, đối với đất nước. Ngòi bút nhân đạo vừa thương vừa hận, hận lũ cướp nước, hận lũ gieo rắc lầm than, đây nhân dân đến chỗ khốn cùng.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế ỷi XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc.
Qua bài thơ Chạy giặc đã để lại trong lòng ta nhiều suy ngẫm, một thời kỳ lịch sử đất nước đau thương, thật sự đầy xót xa được ngòi bút nhân đạo Nguyễn Đình chiểu khắc họa rõ nét. Từ đó cho thấy một tâm hồn giàu tình thương con người, yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống, và thêm vào đó là lòng căm thù giặc sâu sắc, căm thù những kẻ đã lấy đi cuộc sống bình yên của biết bao con người của tác giả. Nghệ thuật trong bài thơ cũng mang đậm chất Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 1
Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ “Chạy giặc” là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguvễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc”. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội bất lương quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
…Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế” phút chốc thay đổi bất ngờ “phút sa tay”. Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.”
Các từ ngữ: “vừa nghe tiếng súng Tây”, “phút sa tay” làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nồi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. “Một bàn cờ thế” là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).
Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: “bỏ nhà”. “lơ xơ chạy”. “mất ổ” “dáo dát bay” đặc tả sự tan nát. hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là “lũ trẻ” lấy thế giới thiên nhiên là “đàn chim”, hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước, quê hương bị xâm lược:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ “bỏ nhà” và “mất ổ” tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành. Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man.
Tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh ‘”tan bọt nước”. Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chi bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, đổi nhau: “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây” đã căm thù lên án tội bất lương tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Tội bất lương quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội bất lương ghê tởm của giặc Pháp:
“Bình tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
làm cho bốn phiá mây đen ;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,
ai cứu một phường con đỏ
( Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Vốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa…”
(Cảm tác)
Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp bóc dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
“Chạy giặc” là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và tình thương xót nhân dân trước họa xâm lăng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy tiếng súng Tây, nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ “Chạy giặc” là một chứng tích về tội bất lương giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Với ông “thơ là súng là gươm”. (“Đọc thơ Đồ Chiểu” – Lê Anh Xuân)
Bài văn phân tích tác phẩm “Chạy giặc” số 3
Các nhà thơ, nhà văn được coi là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thật vậy, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là 1 trong số các tác giả như thế. Ông đã dùng ngòi bút sắc nhọn của mình để chĩa thẳng mũi súng căm thù vào quân xâm lăng, bài thơ “Chạy giặc” là 1 trong những bài thơ khắc họa khung cảnh khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, đó cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu về tội bất lương của chúng.
Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công vào thành Gia Định – quê hương của nhà thơ (17/2/1859). Chứng kiến cảnh tượng ấy, ông không khỏi xót xa. Là một người yêu quê hương, dân tộc có ai lại không đau đớn khi mảnh đất máu thịt bị xâm chiếm, nhân dân bị áp bức tàn bạo. Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay”.
Thời điểm bắt đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời điểm “tan chợ”. Mọi người trong phiên chợ vừa mới bước chân ra về thì tiếng súng bắt đầu nổ. Chắc hẳn nơi ấy đã diễn ra trận càn quét của quân địch. Tiếng súng vang lên như xé tan cuộc sống yên ổn nơi đây vốn có, thay vào đó là sự lo sợ bởi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.
“Tiếng súng Tây” là tiếng súng của thực dân Pháp. Phép ẩn dụ bàn cờ phút “sa tay” ám chỉ triều đình đã để thành Gia Định rơi vào tay giặc. Nói cách khác, quân thực dân đã xâm chiếm được đất Gia Định. Cảnh chạy giặc của nhân dân được tác giả miêu tả chi tiết mà đau xót biết nhường nào:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.
Đảo ngữ “bỏ nhà” và “dáo dác” giàu sắc thái biểu cảm khiến cho câu thơ nhuốm màu bi thương. Tiếng súng phát ra như báo trước một điều không hay sẽ xảy đến. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ có khả năng gợi hình cao cùng phép đảo ngữ khiến người đọc có thể hình dung ra sự chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả. Đám trẻ con chạy không định hướng vì không có người dẫn dắt.
Chúng chạy 1 cách thất thần để tránh sự nguy hiểm đang ập tới. Không chỉ có con người hoảng loạn, những loài vật như đàn chim cũng bay 1 cách hốt hoảng, không phương hướng vì bị mất ổ, mất nơi cư trú. Từ láy “lơ xơ” và “dáo dác” đã gợi tả một khung cảnh tan tác, mọi thứ bị đảo lộn vì tiếng súng.
“Lũ trẻ” là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, vô tội. Đáng lẽ chúng phải được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm nhưng sự xâm lược của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi. Hiện lên trước mắt người đọc còn là cảnh tượng chết chóc, điêu tàn:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Miền Nam đang chìm trong khói lửa nghi ngút. Thành Gia Định và miền Đông Nam Bộ đã chìm trong ngọn lửa. Đi đến đâu, quân địch thực hiện càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành đến đấy. Hành động của chúng vô cùng tàn ác, gây bao thiệt hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền của, tài sản tan nhanh chóng như bọt nước.
Những tội bất lương của thực dân Pháp đã được diễn đạt qua hai câu thơ có sức khái quát lớn. Nhưng những tang tóc, đau thương nhân dân ta phải gánh chịu còn nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Đến cả những gì vô tri vô giác như con rạch, con sông cũng ngùn ngụt chí căm thù. Các ngôi nhà đổ vỡ, ngập chìm trong lửa đốt. Phải chứng kiến cảnh tượng những mái nhà bị thiêu cháy, tiền bạc của mình bỗng chốc tiêu tan có mấy ai không xót xa? Trước cảnh tượng tàn khốc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên câu hỏi đầy mỉa mai:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mặc nạn này”.
Câu hỏi tu từ đã lột tả được khung cảnh tan tác, hoảng loạn khi nhân dân chạy giặc. Đây là câu hỏi không chỉ của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân nói chung đối với triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Nhân dân lầm than, khổ cực, rất cần một con đường giải thoát, chống lại ách áp bức nhưng “trang dẹp loạn” lại vắng bóng. Vua quan, triều đình nhà Nguyễn đi đâu vắng lại không xuất hiện và cứu giúp nhân dân đang chịu cảnh cơ cực?
Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện sự xót thương của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan mà còn bộc lộ thái độ căm thù giặc sâu sắc, sự thất vọng khi triều đình không chăm lo cho cuộc sống nhân dân mà họ còn nhu nhược, bắt tay với thực dân Pháp.
Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước, chăm lo cho cuộc sống nhân dân thật đáng mỉa mai, khinh bỉ. Sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta rơi vào cảnh điêu đứng, không lối thoát. Câu hỏi tu từ đó cũng nhằm mục đích thức tỉnh những người con yêu nước đứng lên chống lại sự đô hộ, mang lại cuộc sống ấm no cho “dân đen”.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có kết cấu đề – thực – luận – kết chặt chẽ. Là một người con của đất Gia Định nên ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Bút pháp hiện thực – trữ tình được tác giả vận dụng rất triệt để và đạt hiệu quả cao. Ẩn chứa đằng sau bức tranh “Chạy giặc” là tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả chân thật cảnh tượng đất nước bị quân thực dân chà đạp, giày xéo mà còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tuy rằng ông bị mù lòa, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của ông vô cùng sắc sảo. Bài thơ “Chạy giặc” là một bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX, là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn về tội bất lương của thực dân Pháp.
Có thể bạn thích: