Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1945. Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông là 1 trong những số những cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biêu đạt mới qu hình thức câu thơ tự do, xóa bỏ mọi ràng buộc, khuôn sáo bằng nhịp điệu bất thường để mở đường cho một cơ chế liên tưởng phóng khoáng nhằm đem đến cho thơ một mĩ cảm hiện đại với hệ thống thi ảnh và ngôn ngữ hiện đại. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” rút trong tập “Khối vuông ru-bic”, là 1 trong những số nhũng sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư duy của Thanh Thảo. Qua bài thơ, tác giả thể hiện nỗi đau và sự xúc động sâu sắc trước cái chết bi thảm của nghệ sĩ Lorca – một nghệ sĩ khao khát tự do, dân chủ, luôn mong muốn sự cách tân nghệ thuật và nghệ thuật đi tới không ngừng. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 8
Thanh Thảo là nhà thơ với tài năng thơ ca mà đã đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Thơ Thanh Thảo cũng chứa đựng những nét tài hoa và mang tính liên tưởng cao. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca in trong tập Khối vuông rubich, là 1 trong những số đó, và được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt.
Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, chính vì vậy khi Thanh Thảo yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca trong tâm tưởng những người mến mộ.
Đàn ghi ta của Lorca viết về cái chết a Lor-ca một thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Hình tượng Lorca là một hình tượng lẫm liệt và dòng máu về nhiệt huyết về đam mê vẫn chảy mãi và khắc ghi trong những con người Tây Ban Nha. Chính vì dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc ông cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Lorca đã bị sát hại khi tuổi chỉ mới 38.
Qua tiếng đàn người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca và biểu tượng nghệ thuật Lor-ca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả. Lorca được cảm nhận từ nhiều góc độ và đa chiều với hình tượng yêu tự do và ông là một nghệ sĩ cô đơn.
Bài thơ “ Đàn ghi ta của Locar” đã làm sống lại huyền thoại của đất nước Tây Ban Nha. Mở đầu với sự cất lên tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi, nó tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Những nét đặc trưng của Tây Ban Nha ngay từ đầu đã được khơi gợi một cách khéo léo, đó là màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha. Những nét chấm phá vẽ ra hình ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc một cách đầy ấn tượng. Áo choàng đỏ khiến người ta liên tưởng tới môn đấu bò môt nét văn hóa ở Tây Ban Nha, vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca.
Áo đỏ của các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay, bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả. Cảm xúc từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng.
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Đó là cái chết của Lorca khiến nhiều người không khỏi kinh ngạc và ám ảnh. Bằng cách sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Từ đó đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực hiểm độc của bọn phát xít giữa niềm lạc quan yêu đời với hiện thực đẫm máu.
Biểu hiện cho sự sống bỗng nhiên tắt trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn: áo choàng bê bết đỏ. Lorca đã bị bắn máu chảy thành dòng và rướm cả vào áo choàng và cây đàn ghita. Tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là linh hồn của Lor-ca, là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi.
Những câu chữ trong thơ tạo nên hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau.
Sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, tình yêu, nỗi đau, cái chết tương ứng với tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy. Câu thơ như tiếng nấc có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức:
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng l
ong lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạcchàng ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la…
Các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin, vì quá thương tiếc mà nhà thơ dùng những hình ảnh ẩn dụ cho cái chết cảu Lorca Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã.. Và hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca.Sự bất tử của Lorca thì tinh thần của ông và nghệ sĩ tài năng như ông đã có sức lan tỏa tới người đọc, tới những con người yêu chuộng tự do và hòa bình yêu lạc quan.
Tiếng đàn của ông cứ thế lan tỏa không ai có thể chế ngự và cất lên những âm thanh vang vọng: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại.
Nó còn chứa đựng cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Cuộc đời, số phận của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn và sự ảnh hưởng của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la.
Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại. Bằng chính tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc khiến người đọc bị cuốn hút.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 10
Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học Tổng Hợp Hà Nội, ông vào công tác ở chiến trường chống Mỹ ác liệt. Thanh Thảo được công chúng yêu văn học biết đến qua các tác phẩm mang diện mạo độc đáo về chiến tranh và thời kì hậu chiến như: “Những người đi tới biển” (1977), “Dấu chân qua trảng cỏ” (1958), “Khối vuông ru-bích” (1985), “Từ 1 đến 100” (1988)…
Thanh Thảo là nhà thơ đi tiên phong trong nỗ lực đổi mới thơ Việt. Ông luôn có ý thức tìm tòi, cách tân cho nền thơ Việt đương đại. Bài thơ: ”Đàn ghi-ta của Lorca” được ông viết ở trại sáng tác Quân khu 5 – Đà Nẵng năm 1979, được công chúng biết đến lần đầu vào 1985 khi tập thơ “Khối vuông ru-bích” ra đời. Đây là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy Thanh Thảo.
Bài thơ đã tái hiện được vẻ đẹp hình tượng Garcia Lorca, nhà thơ vĩ đại nhất Tây Ban Nha thế kỉ 20. Federico Garcia Lorca sinh ngày 5/6/1898ở tỉnh Granada, miền Nam Tây Ban Nha. Không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng, ông còn có tài năng về âm nhạc và hội hoạ. Là con chim hoạ mi xứ Espagna, ông sáng tác rất nhiều khúc ngẫu hứng cho ghi-ta. Như một nghệ sĩ du ca lãng tử, Lorca đi lang thang cất lên tiếng hát ca ngợi tự do và cái đẹp cùng cây đàn duyên dáng này.
Lorca không chỉ vĩ đại với đất nước TBN, ông còn là nhà thơ vĩ đại đối với toàn thế giới. Người TBN gọi ông là con chim hoạ mi TBN, còn người Mỹ thì coi Lorca như nhà thơ vĩ đại của chính nước Mỹ. Chính những câu thơ mạnh mẽ,hùng hồn thấm đậm tư tưởng lớn lao, phi thường của Lorca đã khiến cho bọn thể chế độc tài Franco lo sợ. Ngày 19/8/1936, chúng điệu Lorca ra bãi bắn để phi tang 1 con người với những tư tưởng tiến bộ. Là nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa phát xít, thi thể Lorca được tìm thấy trong đống xác 1500 người trên 1 miệng sâu gần Granada, nơi khởi đầu và cũng là nơi kết thúc sự sống của một con người kiệt xuất, một nhà thơ vĩ đại.
Bài thơ “đàn ghi ta của Lorca” thể hiện chân dung đẹp đẽ của nghệ sĩ Lorca trong sự ngưỡng mộ, lòng đồng cảm và sự tiếc thương sâu sắc của tác giả TT. Xuyên suốt bài thơ, song hành với hình tượng Lorca là hình tượng cây đàn. Tiếng đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là linh hồn, là tinh thần của Lorca, và hơn hết là số phận của nhà thơ vĩ đại này: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”_PH.G.LORCA_
Bằng hình ảnh cây đàn ghi-ta, nhạc cụ truyền thống tiêu biểu nhất của đất nước và âm nhạc TBN dùng làm hình ảnh biểu tượng nv trữ tình trong bài thơ, tác giả nói đến sự gắn bó máu thịt, suốt đời giữa Lorca và âm nhạc. Qua cây đàn truyền thống của âm nhạc và đất nước mình, một nét độc đáo trong bản sắc văn hoá của con người và đất nước TBN, nhà thơ Lorca đã thể hiện tình yêu sâu sắc,tha thiết đỗi với quê hương, tổ quốc. Tình yêu nghệ thuật và quê hương đó sẽ mãi mãi sánh bước cùng Lorca đi đến bất cứ nơi đâu, kể cả khi sang bên kia thế giới.
Mở đầu bài thơ, ta hình dung ra một không gian Tây Ban Nha đặc thủ, một đất nước của những làn điệu ghita du dương- Tây Ban cầm, cả tấm áo choàng matador khoác trên mình các đấu sĩ:
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
lila lila lila
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”
Thanh Thảo đã gợi vẻ đẹp của tiếng đàn dựa trên những liên tưởng ngoài thơ: ”tiếng đàn bọt nước”, ta chợt thấy hình ảnh có những nét tương đồng trong ca dao: “Trời mưa bong bóng phập phồng”. Bọt nước dường như là hiện thân của số phận tiếng đànm thật mong manh, ngắn ngủi và dễ vỡ. Câu thơ tuy giản dị nhưng khắc hoạ rõ nét định mệnh phũ phàng, chông gai đang đón chờ người nghệ sĩ tài hoa phía trước.
Nếu như “tiếng đàn” khiến ta nghe được âm thanh, “bọt nước” gợi ta thấy được hình ảnh, thì câu thơ trên là kết quả của sự kết hợp tài tình giữa cơ quan thính giác với thị giác để ta có thể cảm nhận tiếng đàn một cách rõ nét và sâu sắc. Thanh Thảo đã rất thành công khi cấu tạo nên hình ảnh bằng sự ánh chiếu của nhiều kênh cảm giác, gây ấn tượng cho người đọc.
“Tấm áo choàng đỏ gắt” nhắc ta nhớ tới những đấu trường bò tót truyền thống ở Tây Ban Nha. Thế nhưng, trong bối cảnh chính trị ngột ngạt và căng thẳng lúc bấy giờ, thì đây lại là một đấu trường xã hội bạo lực và đẫm máu giữa nền chính trị độc tài và khát vọng dân chủ tự do, cũng như nền nghệ thuật già nua với khát vọng cách tân, đổi mới nghệ thuật. Dù trong đấu trường chính trị, nghệ thuật hay số phận thì Lorca mãi là người đấu sĩ đơn độc và cô đơn.
Giữa bầu không khí sôi sục của bạo lực, của máu, tiếng đàn ghi-ta vẫn cất lên du dương và êm đềm: ”lila lila lila” như muốn xoa dịu, trấn an con người, góp phần xua đi sự hiện diện của bạo tàn, tội ác nơi đây. Đặc biệt, câu thơ còn vẽ ra 1 bức tranh đầy ý nghĩa: Giữa cánh đồng xơ xác đầy gai nhọn, sự chết chóc bao trùm, ta chợt nhận ra sự xuấ hiện của loài hoa màu tím: lila-loài hoa đặc trưng cho xứ sở Tây ban Nha, còn có cái tên khác thật đẹp: tử đinh hương.
Loài hoa ấy như biểu tượng của sự kiên cường, sức sống, đem lại hoà bình nơi tội ác đang ngự trị. Như vậy, chỉ với một dòng thơ “lila lila lila”, tác giả TT đã khéo léo hoà quyện hai yếu tố âm thanh và màu sắc để phác lên nỗi buồn mang mác, dìu dịu của người nghệ sĩ lãng du, yêu tự do khi đứng trước tỉnh cảnh rối ren của nước nhà.
Như vậy, dù ở góc độ nào, ta cũng nhần ra đây là cuộc đấu không cân sức, Lorca đang rất đơn đọc trên hành trình lí tưởng đầy gian nan, soi bóng lẻ loi giữa con đường đầy nguy hiểm mà chỉ có cây đàn, tiếng hát hộ thân. Với tiếng đàn, người nghệ sĩ du ca lãng tử Lorca đi lang thang, chếnh choáng trong men hơi say của đất trời nghệ thuật. Chàng là người cất tiếng hát ca ngợi tự do và cái đẹp trong một thế giới bạo tàn và tăm tối:
“đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”
Lấy trăng làm bầu bạn, lang thang trên yên ngựa tiến về 1 nơi vô định, Lorca gợi cho ta nhớ về chàng hiệp sĩ Đôn Kihote nổi tiếng của nhà văn Xécvantec. Nhưng nếu Đôn Kihote bước tới phía trước với niềm hứng khởi trên con đường làm hệp sĩ, thì Lorca lại cất bước lang thang với nỗi buồn vô hạn trên con đường nghệ thuật còn bế tắc. Nếu Đôn Kihote có người giám mã trung thành Xancho Panxa kề cận, thì Lorca chỉ có mảnh trăng cô đơn làm tri kỉ. Như vậy, dù ở phương diện nào, Lorca mãi là một thi sĩ, một chiến sĩ cô độc, lẻ loi với lí tưởng, mục đích nghệ thuật riêng.
Qua khổ thơ đầu bài, hình tượng Lorca được cảm nhận ở nhiều khía cạnh, ở nhiều góc độ khác nhau, thông qua những nét chấm phá, những mảng màu dường như không đồng chất, đồng tông, Thanh Thảo đã dựng lên một khối toàn vẹn về một nghệ sĩ tài năng và chân chính nhưng có 1 mặt hàng oan khốc trong môi trường chính trị bạo tàn.
”Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du”
Với sự chuyển ý nghĩ và cảm xúc thật bất ngờ, cái chết của người nghệ sĩ thật đột ngột và đau đớn. Những tiếng hát “nghêu ngao” vô mục đích chợt im bặt. Thay vào đó là cảm giác “bỗng kinh hoàng”, 3 tiếng ngắn ngủi nhưng đã thể hiện rất trọn vẹn sự sửng sốt, bất ngờ của toàn thể nhân dân trước sự ra đi của nhà thơ tài năng vĩ đại Lorca. Có thể nói đây là cái chết gây chấn động, ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại.
Nếu như màu “đỏ gắt” ở đầu bài thơ là tượng trưng cho chiến trường xã hội, thì hình ảnh “bê bết đỏ” ở sau là màu của máu, là dấu hiệu của sự chết chóc, tang thương. Và Lorca như một đấu sĩ bị hành hình trên đấu trường chính trị Tây Ban Nha trong bầu không khí tai ương bao phủ:”Lorca bị điệu về bãi bắn: chàng đi như người mộng du.
”Tôi không muốn nhìn thấy máu!” (Que no quiero Verla!) Lorca đã thảng thốt kêu lên trong một bài thơ định mệnh của mình, bài ” Bica cho Igracio Sanchez Meijas”. Nhưng “máu đã chảy tràn” chỉ một năm sau khi bài thơ tuyệt tác này ra đời, và máu đó là của Lorca.
Ngay ở câu đề từ bài thơ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”, ta dễ dàng nhận ra Lorca luôn dự cảm và ám ảnh bởi cái chết, thế nhưng ông cũng không ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình quá sớm, ở cái tuổi 38, tuổi con người đang vào độ phát tiết tinh hoa và bao nhiêu hoài bão, khát vọng còn dang dở. Vậy nên “chàng đi như người mộng du”, đầy bàng hoàng và đau đớn, khi con đường nghệ thuật biết bao công sức gây dựng, như một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, giờ đành bỏ hoang.
Lorca từng suy nghĩ về cái chết, từng tự trả lời câu hỏi:”Mình sẽ chết như thế nào? Ở đâu?” Và Lorca muốn được chết ” tử tế trên giường mình”, muốn được nằm trong đất cùng với cây đàn thơ của mình. Nhưng sự Bạo Tàn nào chịu buông tha cho ai. Bọn Phát xít là giống ruồi nhặng, là mầm mống cái chết mang hình con nhặng, “cái chết đẻ trứng vào vết thương” như một câu thơ của Lorca đã chỉ chính xác.
Đau đớn thay, trong thơ của Lorca lại mang nặng những vết thương, những nỗi đau, trăn trở trở về con người và sự tự do. Lorca trở thành nạn nhân của bọn phát xít Franco là điều ko thể tránh khỏi. Nhưng nghiệt ngã thay, chúng ko những là kẻ sát nhân, à còn là những tên tội đồ dám ra tay sát hại cái đẹp, thủ tiêu cái tài, huỷ diệt nghệ thuật chân chính.
Khi đứng trước họng súng tử thần, ai cũng có những hồi tưởng về quá khứ, về những kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Lorca cũng không phải là ngoại lệ, tâm tưởng chàng hiện lên như 1 thước phim quay chậm về những gì chàng đã trải qua: có ngọt ngào và đắng cay, có đau khổ và hạnh phúc:
“tiếng ghita nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghita lá xanh biết mấy
tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghita ròng ròng
máu chảy”
Tiếng đàn của Lorca vửa có đầy đủ các cung bậc, vừa tái hiện những màu sắc hình khối đầy tính tượng trưng và biểu cảm. Màu nâu là màu sắc có sự biến ảo nhiều nét nghĩa. Có khi là màu nâu của chất liệu cây đàn, có khi là màu nước da của những cô gái Di gan cuồng nhiệt, sôi nổi. Và đặc biệt đó cũng là màu của đất mẹ Tây Ban Nha thân yêu.
Trên phông nền của màu nâu, Lorca nhớ về bầu trời tượng trưng cho sự tự do, nhớ về cô gái Digan, hình ảnh tiêu biểu cho xứ sở Tây Ban Nha. Như vậy, chỉ thông qua 2 câu thơ, ta nhận ra cảm xúc chủ đạo của Lorca khi cận kề cái chết là nỗi niềm hướng tới quê hương, tổ quốc. Chuyển sang màu xanh của lá, màu xanh của hy vọng, của khát vọng sống, tuổi trẻ, niềm tha thiết của Lorca với cuộc sống trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Thông qua những hình ảnh thị giác (“tròn”,”vỡ tan”),âm thanh thính giác (“ròng ròng”,”máu chảy”), Thanh Thảo đã thốt lên sự nuối tiếc, ngậm ngùi cho 1 vẻ đẹp nghệ thuật đang bị phá huỷ. Tiếng vỡ oà, tức tưởi cất lên đau đớn đến xót xa.
Phép điệp “tiếng ghita” chạy trước bài thơ vừa dẫn dắt mạch thơ vừa liên kết khổ thơ, tạo nên độ luyến láy của 1 bản nhạc. Tiếng đàn đã tạo nên hình sắc, hoá thân thành số phận, linh hồn, nghệ thuật của người nghệ sĩ Lorca.
Như vậy, cái chết bất ngờ của Lorca đã được diễn tả bảng hình ảnh thực, tạo cú sốc dây truyền theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác qua hệ thống âm thanh vỡ ra thành màu sắcm hình khối (“dòng máu chảy”). Chỉ qua âm thanh mà ta có thể cảm nhận đủ mọi dáng vẻ, sắc màu, linh hồn của con người và thần thái của vạn vật. Có thể nói nếu Lorca là 1 nghệ sĩ tài hoa, kiệt xuất thì Thanh Thảo cũng thực sự là một nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy.
“Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”
Nhà thơ Thanh Thảo đã lấy lời di chúc của Lorca: ”Khi tôi chết …” làm lời đề từ cho bài thơ của mình. Đậy chính là di ngôn đầy tâm huyết của một người nghệ sĩ chân chính. Lorca ko muốn nghệ thuật của mình vì được công chúng yêu mến mà đưa lên đài danh dự rồi vô tình trở thành vật cản trên con đường cách tân, phát triển thơ ca của thế hệ sau.
Thơ ca cũng như văn chương, luôn cần hơi thở mới. Như nhân vật Hộ trong tác phẩm của NC từng nhận xét: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những cái gì chưa có”. Hay Đại thi hào M.Gorki cũng từng thốt lên: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”
Thế nhưng, trái ngược với tâm nguyện của Lỏca: ”không ai chôn cất tiếng đàn” và thực tế dù có muốn chôn vùi cũng không được. Đây là một tiếng đàn, một giá trị tinh thần chứ không phải là một cây đàn vâth thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn ko ngừng vươn lên, lan toả ngay cả khi người nghệ sĩ đã sáng tạo ra nó đã ra đi.
Đau đớn thay, cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi khát vọng, sự nghiệp của anh ta ko có ai kế tục, nhưng cái chết đau đớn hơn của một nhà cách tân còn là khi tên tuổi và sự sáng tạo của anh ta được đem lên bệ thờ và trở thành 1 bức tường kiên cố, cản trở sự cách tân văn chương của những người đến sau.
Bằng biện pháp so sánh “cỏ mọc hoang”, nhà thơ TT đã thể hiện sức sống mãnh liệt, sự bất tử, sự lan toả của nền nghệ thuật chân chính. Câu thơ “Giọt nước mắt vầng trăng” gợi cho ta sự ngưng đọng của buồn đau, thương xót. Giọt nước mắt sáng đẹp và vĩnh cửu như vầng trăng đó cũng là những giọt nước mắt của anh hùng: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” (Nguyện Đình Chiểu)
Tại giếng nước, nơi kẻ thù vứt xác Lỏca lại là nơi toả sáng tâm hồn chàng như có ánh trăng soi vào: “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm…tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ…” Thông qua đoạn thơ, tác giả đã gửi gắm nỗi đau xót, thương tiếc cho hành trình nghệ thuật còn dang dở của Lorca, đồng thời thể hiện niềm tin sâu sắc vào sự bất tử của nghệ thuật chân chính.
“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc”
Nếu như hình ảnh “đường chỉ tay” là hiện thân cho thiên mệnh thì biểu tượng “dòng sông” là vạch mốc ngăn cách hai cõi âm dương. “Đường chỉ tay đã đứt” thể hiện cho cái hữu hạn, cho số phận con người, tượng trưng cho cú giáng phũ phàng, trái ngang của số mệnh, đối lập với “dòng sông vô cùng”, tượng trưng cho sự vô hạn, dòng chảy cuộc đời, dòng chảy nghệ thuật và sự siêu thoát về cõi hư vô.
Hình ảnh “chiếc ghi-ta màu bạc” là biến ảnh của chiếc ghita nâu khi đã sang cõi khác. Sự biến chuyển màu sắc từ nâu sang bạc tức là sự biến đổi trạng thái từ thực sang hư, từ cõi dương sang cõi âm. Đặc biệt màu bạc là màu của sự vĩnh hằng, ánh bạc biêng biếc tạo nên sự hư ảo của 1 màu huyền thoại.
Hãy nhắm mắt và lặng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của định mệnh, của thời gian vĩnh cửu, ta thấy bóng chàng Lorca “bơi sang ngang, trên chiếc ghita màu bạc”. Chàng đang vẫy tay chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi-ta chàng gắn bó suốt cuộc đời nay cũng là con thuyền thơ cùng chàng đi về miền đất hư vô, huyền thoại.
“chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt”
Lorca đã ném “lá bùa cô gái Digan” vào xoáy nước 1 cách dứt khoát. Chàng còn cần lá bùa hộ mệnh làm gì khi nó ko thể giúp chàng níu kéo sự sống? Lá bùa định mệnh dần dần trôi vào xoáy nước, khép lại cuộc đời Lorca, một người chiến sĩ phát xít kiên cường, vĩ đại.
Trái tim đã dừng nhịp đập, cũng như khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật đã phải ngừng lại mãi mãi. Chàng nghệ sĩ du ca Lorca đã câm lặng, tự nguyện chôn vùi, hi sinh vì nghệ thuật mà suốt đời chàng theo đuổi. Với hình ảnh đầy chất mộng, câu thơ đã tái hiện sự giã từ của Lorca, thật thanh thản, nhẹ nhàng, đậm chất nghệ sĩ. Chàng đã có thể thực sự chia tay với những ràng buộc và hệ luỵ trần gian để nhắm mắt yên nghỉ trong giấc ngàn thu. “lila lila lila…”
Những âm thanh, nốt nhạc xao xuyến của tiếng đàn sẽ mãi ngân nga, vang vọng trong lòng độc giả nói chung và người yêu thơ Lorca nói riêng. Những đoá hoa tử đinh hương tím ngát âm thầm tiễn biệt linh hồn Lorca. Có thể nói sự vùi dập đã nhường chỗ cho sự thăng hoa, sự đau đớn đã nhường chỗ cho sự tôn vinh.
Bài thơ có mạch cảm xúc rất đa dạng. Từ sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với người nghệ sĩ tự do, cô đơn đến nỗi xót thương, đau đớn trước cái chết oan khuất của một con người có tài năng xuất chúng. Cuối cùng, khép lại bài thơ là tấm lòng ngưỡng mộ, niềm tin vào sự bất tử của Lorca.
Qua đó nhà thơ Thanh Thảo đã khắc hoạ một hình tượng Garcia Lorca huyền thoại. Xuyên suốt bài thơ, song hành cùng hình tượng Lorca chính là cây đàn thơ muôn thuở. Đàn ghi-ta là tâm hồn của chính Lorca, là khí phách kiên cường của người chiến sĩ yêu tự do, hoà nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân và toàn thể nhân loại.
Bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca”; là tp tiêu biểu cho tư duy thơ của Thanh Thảo: với nội dung giàu chất suy tư về các vấn đề xã hội và thời đại, mạch cảm xúc mãnh liệt và phóng túng, cùng với lối biểu đạt ấn tượng và hiệu quả, bài thơ sẽ mãi vấn vương, in dấu sâu đậm trong lòng người đọc.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 5
Nhà thơ Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tài năng thờ ca của Thanh Thảo phát triển và trưởng thành trong những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Thanh Thảo đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc, vẫn là cái tôi công dân đầy nhiệt huyết nhưng thơ Thanh Thảo nghiêng về phản ánh tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại.
Thanh Thảo muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lối biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Những tập thơ viết về con người trong chiến tranh và hòa bình của Thanh Thảo đã được đánh giá cao: Những người đi tới biển, Dấu chân qua trảng cỏ, Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông ru-bich, Từ một đến một trăm…
Bài thơ Đàn ghi ta của Lorca in trong tập Khối vuông ru-bich, xuất bản năm 1985 được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt của Thanh Thảo: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn”. (Ph. G. Lorca).
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la ti-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi tar màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Bài thơ viết về cái chết của Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lorca (1898 -1936), thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc nhà thơ cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Ông đã bị chúng sát hại ngày 19-8-1936, khi ông mới 38 tuổi. Cả đất nước Tây Ban Nha khóc thương ông, một nhà thơ – chiến sĩ của tự do.
Cái chết của Lorca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo vô cùng khâm phục và yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lorca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lorca trong tâm tưởng những người mến mộ ông qua một hình ảnh quen thuộc mà độc đáo: cây đàn ghi ta.
Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lorca và biểu tượng nghệ thuật Lorca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả. Hình tượng Gar-xi-a Lorca trong bài thơ có thể được cảm nhận ở nhiều cấp độ, nhiều khía cạnh khác nhau nhưng khái quát lại có thể thấy 1 số nét chính: Đó là một nghệ sĩ tự do và cô đơn. Tuy bị giết chết bởi thế lực phát xít hiểm độc nhưng tâm hồn Lorca bất diệt. Bài thơ làm sống lại huyền thoại về một con người, một nghệ sĩ, một chiến sĩ của đất nước có truyền thông âm nhạc, thi ca và những vũ điệu rực lửa.
Câu nói nổi tiếng: Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn của Lorca được lấy làm đề từ của bài thơ giống như một “chìa khóa” ngầm hướng người đọc tới sự hiểu biết đúng đắn thông điệp của bài thơ. Trong nhận thức của một người đọc bình thường, câu nói này hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lorca với nghệ thuật. Nhưng không chỉ có vậy, nó còn là tình yêu tha thiết của người nghệ sĩ với xứ sở của mình.
Mở đầu bài thơ là tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lorca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung. Hình ảnh Lorca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc – được giới thiệu bằng những nét chấm phá gây ấn tượng mạnh mẽ:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la ti-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lorca, vừa gợi hồi tưởng đến trò chơi đấu bò tót mạo hiểm, dũng mãnh có sức cuốn hút rất lớn với đông đảo dân chúng Tây Ban Nha và du khách quốc tế. Các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay. Đơn độc với thanh kiếm hoặc mũi lao, chàng đấu sĩ bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả trên sân.
Nhưng ở đây không, phải là đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bò tót mà là một đấu trường đặc biệt với cuộc đấu dai dẳng, bền bỉ mà không kém phần ác liệt giữa khát vọng dân chủ của công dân Lorca với nền chính trị độc tài phát xít Phơ-răng-cô.
Ở khổ thơ thứ hai và thứ ba, tác giả diễn tả cái chết đột ngột của Lorca bằng các chỉ tiết đặc biệt gây ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc. Từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng:
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Có thể nói Thanh Thảo đã thực sự hóa thân vào nhân vật trữ tình để cảm nhận thấm thía nỗi đau đớn vô biên và thể hiện điều đó bằng ngôn ngữ của trái tim, của ngòi bút như rướm máu. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong đoạn thơ này là cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lorca. Đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực hiểm độc của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời với hiện thực phũ phàng đẫm máu.
Cái chết đến với Lorca hoàn toàn bất ngờ. Người nghệ sĩ ấy tuy luôn bị ám ảnh bởi cái chết nhưng không hề nghĩ là nó lại đến sớm như thế và đến vào lúc không ngờ nhất. Tiếng hát tượng trưng cho sự sống bỗng nhiên tắt lịm trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn: áo choàng bê bết đỏ. Dòng máu sôi sục khát vọng tự do của Lorca đã tuôn đổ trên mảnh đất mà ông yêu quý.
Hình ảnh này chứa đựng ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô đối với nhân dân Tây Ban Nha yêu chuộng tự do, hòa bình, công lí. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú sốc dây chuyền được tác giả diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau.
Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, về tình yêu, về nỗi đau, về cái chết: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy. Hình ảnh tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là con người, là số phận, là linh hồn của Lorca. Đây là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi trong tâm hồn người đọc.
Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lorca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lorca là cơ sở vững chắc của niềm tin mãnh liệt ấy. Tình cảm đau xót thể hiện qua những câu thơ có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi tar màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Ở đoạn thơ này, Thanh Thảo vẫn tiếp tục sử dụng các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin. Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã, ít nhiều nhắc nhớ đến chi tiết Gar-xi-a Lorca bị bọn phát xít thủ tiêu và ném xác xuống giếng.
Các hình ảnh tượng trưng như giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng, dòng sông, lá bùa, chiếc ghi ta màu bạc,… đều được sáng tạo theo lối thơ tượng trưng ám chỉ cõi chết, nơi siêu thoát. Các hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lorca.
Câu thơ: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… chứa đựng nhiều tầng nghĩa. Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lorca, cho tình yêu tự do và yêu con người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Đây cũng là nỗi xót thương trước cái chết bi thảm của một thiên tài; trước hành trình cách tân nghệ thuật dang dở không chỉ với bản thân Lorca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha.
Nghệ thuật bỗng thành thứ cỏ mọc hoang? Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường như còn có cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Câu thơ gợi những suy tư, liên tưởng đa chiều trong lòng người đọc.
Nói về cái chết và để cái chết của Lorca bớt phần bỉ thảm, nhà thơ Thanh Thảo đã kết hợp những hình ảnh dân gian với những hình ảnh hiện đại để thể hiện sáng tạo nghệ thuật của riêng mình: đường chỉ tay đã đứt, dòng sông rộng vô cùng; phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì mênh mang. Lorca đã đi vào cõi bất tử với hình ảnh: Lorca bơi sang ngang – trên chiếc ghi ta màu bạc.
Các hành động ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào cõi lặng yên bất chợt đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những ràng buộc và hệ lụy trần gian… Cây đàn ghi ta quen thuộc gắn bó với Lorca như hình với bóng giờ đây đã trở thành con thuyền đưa linh hồn ông sang thế giới bên kia, một thế giới an lạc vĩnh hằng không có chiến tranh, không còn đổ máu. Cuộc đời, số phận của Lorca đã kết thúc nhưng tiếng đàn của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la.
Đàn ghi ta của Lorca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình tượng Gar-xi-a Lorca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại – người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Có thể nhận ra nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc. Những từ mô phỏng âm thanh qua các nốt đàn ghi ta. Giai điệu bài thơ mang dáng dấp một bản nhạc không lời.
Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật, cho tình yêu tự do, tình yêu con người của Lorca, tượng trưng cho Cái Đẹp của đời. Bạo lực phát xít giết chết Lorca nhưng không thể nào giết chốt tiếng đàn du dương, réo rắt của ông đã gieo vào lòng người dân Tây Ban Nha những hạt giống tự do và khát vọng. Cái Đẹp là bất tử. Lorca được coi là thần tượng bởi lòng yêu tự do, yêu con người, bởi khí phách kiên cường không khuất phục trước những thế lực bạo tàn. Tâm hồn trong sáng và tài năng hiếm có khiến tên tuổi Lor-ca sống mãi trong tâm hồn người dân Tây Ban Nha.
Nhắc tới Lorca, những người yêu mến ông nhớ ngay đến câu nói nổi tiếng bộc lộ tính cách của một nghệ sĩ chân chính: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về Lorca bằng rung động mãnh liệt của cảm xúc, bằng tấm lòng “liên tài” rất đáng trân trọng. Những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ chứng tỏ tâm huyết và khát vọng đổi mới thơ ca của tác giả, góp phần làm cho khả năng thể hiện của ngôn ngữ tiếng Việt thêm tinh tế, phong phú và đa dạng.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 3
Thanh Thảo là nhà thơ có tiếng nói riêng, phong cách nghệ thuật riêng thể hiện cái tôi cá nhân ấn tượng trong nền văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông đem đến cái nhìn mới mẻ cho thơ ca hiện đại. Bài thơ “Đàn ghi-tar của Lor ca” trích “Khối vuông rubich” đã để lại sức chứa lớn trong lòng người đọc về hình tượng nhân vật Lorca – người nghệ sĩ vĩ đại của xứ sở Tây Ban Nha.
Lorca là cái tên quen thuộc đối với đất nước Tây Ban Nha, vì anh là biểu tượng của tự do, cho sự đấu tranh đòi hòa bình, đòi 1 cuộc sống bình yên cho nhân dân. Mặc dù bị sát hại nhưng Lorca mãi là biểu tượng mà nhân dân Tây Ban Nha tôn thờ.
Thanh Thảo đã mượn lời của người nghệ sĩ này làm lời đề từ cho bài thơ của mình có ẩn ý muốn gợi mở ra chiều dài thời gian và chiều sâu của không gian về người nghệ sĩ tài hoa này. Cả cuộc đời cống hiến, chiến đấu nhưng cuối cùng Lor ca lại chết thảm dưới chế độ phát xít tàn bạo. Với thể thơ tự do, không viết hoa đầu dòng, Thanh Thảo đã khiến người đọc tò mò về cách viết giàu sức gợi như thế này.
Những tiếng đàn bọt nước
Táy Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Li la li la li la li la
Đi lang thang về miền đơn độc
Với vầng trăng chuếnh choáng
Trên yên ngựa mỏi mòn
Nhịp thơ nhẹ nhàng, dàn trải nhưng giàu sức gợi, sức tả khiến người đọc mường tượng đến đất nước xinh đẹp Tây Ban Nha với tiếng đàn ghi tar đắm say, những trận đấu bò tót hài hùng, những mảnh đất thảo nguyên mênh mông, lãng mạn. Tuy nhiên cụm từ “tiếng đàn bọt nước” dường như gợi lên sự mờ ảo, biến đổi khó lường, có thể vỡ tan ra bất cứ lúc nào không hay. Có một dự báo nào đó chẳng lành, đầy bất an ở dâu thơ này.
Tây Ban Nha là mảnh đất của những trận đấu bò tót độc đáo, đầy ấn tượng nhưng trong thơ Thanh Thảo, nó có còn giữ nguyên ý nghĩa đó nữa không. Chiến trường đấu bò tót có lẽ đã trở thành chiến trường chính trị ác liệt, nhiều đấu tranh, nhiều bon chen. Màu đỏ của áo choàng đã biến thành “đỏ gắt” phải chăng chính là chế độ độc quyền của chủ nghĩa phát xít đang hoành hành trên đất nước này.
Hình ảnh Lor ca trở nên nhỏ nhoi, mệt mỏi trong cuộc chiến nhiều bấp bênh này. Tiếng đàn vẫn cứ cất lên “li la li la li la li la” và người nghệ sĩ đó “lang thang”, “chuếnh choáng”, “mỏi mòn” với những gì đang diễn ra. Cuộc chiến giữa nghệ sĩ chân chính với chế độ độc tài trở nên căng thẳng hơn. Người chiến sĩ đơn độc ấy trở nên lẻ loi, cô độc, không một ai có thể biên cạnh.
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
Những hình ảnh thơ gây ấn tượng mạnh, cứa sâu vào lòng người sự chua xót trước hình ảnh người nghệ sĩ tài ba nhưng bất hạnh. Dân tộc Tây Ban Nha “kinh hoàng” sững sốt khi hình ảnh Lorca bị điệu về bãi bắn một cách trắng trợn, đầy man rợ như vậy. Sự thật phũ phàng do chế độ phát xít mang lại đã khiến cho mọi người thất bất an. Từ “bỗng” ở đầu khổ thơ thứ hai chính là sự ngạc nhiên trước hình ảnh bi thương của nghệ sĩ Lorca.
Mặc dù bị “điệu” về bãi bắn một cách đầy đau đớn như vậy nhưng Lorca vẫn giữ được sự bình thản, dám chấp nhận của bản thân bằng phong thái “chàng đi như người mộng du”. Đây là trạng thái tâm hồn không nhận thức được, tâm hồn và thể xác dường như tách lìa khỏi nhau. Đó là một phong thái rất đáng trân trọng, rất đáng nâng niu và ngưỡng mộ. Ở những khổ thơ tiếp, nỗi tiếc thương cho cuộc đời nhiều chua xót ấy:
Tiếng ghi ta nâu
Bầu trời cô gái ấy
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
“Tiếng ghi ta” được lặp đi lặp lại như dồn nén cảm xúc trong lòng người, hay là tiếng căm phẫn đầy xót xa. Tiếng đàn ghi ta gắn liền với những thứ bình dị, với thiên nhiên ấm áp, với một cô gái, với bầu trời màu xanh tươi mới. Có lẽ đó là những thứ mà con người Tây Ban Nha muốn vươn tới, muốn giành dược. Nhưng tiếng ghi ta rơi “vỡ” thành “bọt nước” đã như khẳng định thêm hiện thực đau lòng ấy.
Những đường khối, đường nét hiện rõ lên trang viết, cứa thêm vào lòng người cảm xúc nghẹn ngào, đau đớn. Một tiếng “Vỡ” cất lên đã tố cáo chế độ độc tài của phát xít, sự căm phẫn và muốn bóp nghẹt của những người đang chịu sự áp bức. Nỗi đau ấy tạo thành dòng máu chảy âm ỉ trong tim tê tái. Thanh Thảo với sự tài hoa của mình đã làm sống dậy một không gian sống đầy bất tử:
Không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng
Người đọc nên hiểu ý nghĩa của câu thơ thứ nhất như thế nào, có lẽ không một ai có thể “chôn cất tiếng đàn” của Lorca được, bởi vì nó như “cỏ mọc hoang” tràn lan, khiến cho người ta mê mải và đắm say, không thể buông lơi ra được. Cái Lorca để lại cho người đời chính là âm nhạc, chính là sự cao quý của tâm hồn, của những hi sinh và cống hiến. Phép so sánh trong câu thơ đã khiến cho Lorca trở thành một biểu tượng vĩ đại nhất.
Tiếng đàn của Lorca trở nên bất tử, một vẻ đẹp còn ý nghĩa cho đến những ngày sau. Ở khổ thơ cuối, xuất hiện thêm chiêm nghiệm, suy nghĩ của Thanh Thảo về nghệ thuật và cuộc đời cũng như sự giải thoát:
Đường chỉ tay đã đứt
Dòng sông rộng vô cùng
Lor ca bơi sang ngang
Trên chiếc ghita màu bạc
Chàng ném lá bùa cô gái Digan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt.
Khi “đường chỉ tay đã hết” thì coi như sinh mệnh của mình đã chấm dứt. Lorca đã lường trước được cái chết, ý thức được những điều mà mình làm rũ bỏ hiện thực, rũ bỏ cuộc sống nhiều đau thương để rơi vào “lặng yên bất chợt”. Có lẽ đây chính là sự giải thoát mà Lorca đã chọn cho mình, cũng như sự giải thoát khỏi chế độ phát xít độc tài.
Như vậy “Đàn ghi tar của Lorca” thực sự là bài thơ giàu sức ám ảnh khi tái hiện lại cuộc đời bi tráng của người nghệ sĩ Tây Ban Nha dành cho nghệ thuật, cho cuộc đời, cho sự bình yên của đất nước.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 4
Thanh Thảo nhà thơ của những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, thơ ông giàu chất suy tư, triết lí. Đàn ghi-ta của Lor-ca là 1 trong những những bài thơ như vậy. Đây có thể coi là tác phẩm để đời trong sự nghiệp thơ ca của Thanh Thảo.
Tác phẩm được sáng tác năm 1979, nó là kết tinh từ niềm thương xót vô hạn cũng như sự cảm phục, trân trọng và ngưỡng mộ của Thanh Thảo dành cho Lor-ca. Bài thơ nhanh chóng gây được tiếng vang lớn trong văn học Việt Nam nhờ nội dung đầy tính nhân văn và hình thức nghệ thuật thơ hết sức sáng tạo, mới mẻ.
Thanh Thảo đã đặt cho tác phẩm của mình một nhan đề giản dị nhưng giàu ý nghĩa. Đàn ghi-ta không chỉ là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha mà còn được coi là biểu tượng cho nền nghệ thuật ở đất nước này. Còn Lor-ca là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng người Tây Ban Nha, là người đã khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Với nhan đề này, Thanh Thảo ngầm khẳng định Đàn ghi ta của Lor-ca là biểu tượng cho những cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca. Nhan đề đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ.
Thanh Thảo đã sử dụng một câu thơ đồng thời cũng là tâm nguyện của Lor-ca trước khi chết để làm lời đề từ cho bài thơ của mình. Lời đề từ đã thể hiện tình yêu nghệ thuật say đắm của Lorca. Đồng thời cũng khẳng định tình yêu tha thiết của Lorca với quê hương đất nước.
Không chỉ có vậy, lời đề từ còn thể hiện quan điểm đầy tính nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật. Lor-ca hiểu rằng những cách tân nghệ thuật của mình đến một lúc nào đó là sẽ chướng ngại ngăn cản những người đến sau sáng tạo. Bởi vậy, ông đã căn dặn thế hệ sau phải biết chôn vùi nghệ thuật của ông để đi tới và bước tiếp. Mở đầu tác phẩm Lor-ca xuất hiện cùng với tiếng đàn bọt nước:
những tiếng đàn bọt nước
Tây ban Nha áo choàng đỏ gắt
Tiếng đàn không chỉ đơn thuần là âm thanh của tiếng ghi ta mà nó còn gợi ra sự nghiệp nghệ thuật đồ sộ, giàu giá trị của Lor-ca, đồng thời đây cũng chính là tiếng lòng của người nghệ sĩ, gửi gắm lại cho hậu thế. Hình ảnh bọt nước cũng là hình ảnh hết sức đặc sắc, gợi cái đẹp lung linh, gợi sự tan biến vào mênh mông, sự “lưu trú” mong manh, ngắn ngủi… Một câu thơ nhưng có đến hai hình ảnh biểu tượng, nó vừa gợi ra vẻ đẹp trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, vừa cho thấy số phận mong manh ngắn ngủi, đầy bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca.
Câu thơ thứ hai, nhắc trực tiếp đến quê hương của người nghệ sĩ Lor-ca. Gắn liền với địa danh Tây Ban Nha với hình ảnh Lor-ca là hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” mang nhiều nét nghĩa: trước hết về nghĩa thực, gợi ra phông nền văn hóa của đất nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò tót nổi tiếng, đẫm máu; nhưng đồng thời cũng gợi nhắc chúng ta đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt – đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật.
Nếu như câu thơ đầu gợi ra vẻ đẹp bi kịch cũng như sinh mệnh ngắn ngủi của người nghệ sĩ, thì câu thơ sâu đã khắc họa sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ. Âm thanh tiếng đàn li la li la vang vọng trong không gian để đưa người đọc đến với hành trình vươn tới lí tưởng của người nghệ sĩ:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Hành trình vươn đến lí tưởng là hành trình hết sức gian nan, chất chứa cả sự cô đơn, không có điểm dừng. Đây cũng chính là hành trình của Lor-ca trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Hành trình ấy tuy có nhiều khó khăn, nhưng đó là hành trình đẹp đẽ. Vầng trăng vốn là biểu tượng nghệ thuật, điều đó cho thấy cái mà Lor-ca hướng đến không phải cuộc sống xa hoa hưởng lạc, mà là tình yêu, niềm đam mê mãnh liệt cho nghệ thuật. Trên hành trình vươn tới lí tưởng trong một thế giới bạo tàn, hình ảnh Lor-ca hiện lên vừa đáng ngưỡng mộ vừa khiến người đọc không khỏi xót thương.
Không đi sâu vào từng tiểu tiết cuộc đời Lor-ca, Thanh Thảo nhấn đậm ngòi bút vào cái chết bi tráng của chàng. Bốn câu thơ đầu là sự đối lập giữa sống và chết:
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Sự sống ở đây chính là Tây Ban Nha với điệu hát nghêu ngao, không gian phóng khoáng, tự do, Lor-ca hiện lên hết sức đẹp đẽ trong khung vảnh đó. Nhưng phía bên kia lại là hiện thực kinh hoàng, là cái chết đẫm máu của người nghệ sĩ tài hoa. “bỗng kinh hoàng” cho thấy sự thảng thốt, hốt hoảng, không thể tin rằng Lor-ca đã bị cái xấu, cái ác bức hại. Cùng với đó là cảm xúc xót thương, căm phẫn đến tận cùng.
Lor-ca hiện lên hết sức đáng thương trong bạo lực hiểm độc của chế độ độc tài. Trước cái chết ấy, Lor-ca như người mộng du: “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”. Câu 5 là kiểu câu bị động với những thanh trắc là hai dấu nặng đặt cạnh nhau gợi ấn tượng nặng nề, trĩu nặng về cái chết. Nhưng câu 6 lại là kiểu câu chủ động với những thanh bằng liên tiếp đã cho thấy hình ảnh Lor-ca nhanh chóng lấy lại thăng bằng và thái độ chủ động để đi từ hành trình kết thúc sự sống vật chất đến hành trình khởi đầu sự sống tinh thần bất tử.
Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh. Điệp khúc tiếng ghi ta lần lượt xuất hiện, mỗi âm điệu vang lên lại mang nhưng ý nghĩa khác nhau: Tiếng ghi ta nâu – bầu trời cô gái ấy: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về tình yêu của Lor-ca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…;
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy/ Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của Lor-ca; Tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy: Tiếng ghi-ta được đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn. “tiếng ghi ta” là điệp khúc, đều đặn vang lên 4 lần trong nhịp thơ dồn dập, gửi gắm những tình cảm, tâm sự, nỗi niềm chất chứa của Lor-ca còn mãi vang vọng với hậu thế, như khẳng định sức sống bất diệt của Lor-ca.
Mười ba câu thơ cuối cùng là những suy tư của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp và sự ra đi của Lor-ca. Tiếng đàn là biểu tượng của nghệ thuật, là biểu tượng cho lí tưởng đấu tranh vì những điều tốt đẹp của Lor-ca bởi vậy không ai nỡ “chôn cất tiếng đàn”.
Bởi vậy, Thanh Thảo đã so sánh tiếng đàn như cỏ mọc hoang, tức nó có sức sống mạnh mẽ, sức lan tỏa mãnh liệt, bất diệt, không gì có thể ngăn cản nổi. Dù Lorca hi sinh tiếng đàn của ông còn mãi với hậu thế. Cũng chính bởi vậy vầng trăng – cái đẹp, dù bị chôn vùi nơi đáy giếng vẫn tỏa rạng nơi tối tăm, lạnh lẽo, ánh sáng lí tưởng nghệ thuật không bao giờ bị vùi lấp.
Hình ảnh đường chỉ tay đứt là một ám chỉ về sự sống vật chất đã chất dứt, và cuộc đời vô hạn vẫn không ngừng chảy trôi: “Dòng sông rộng vô cùng”. Trong tương quan với câu thơ trên, hình ảnh thơ dễ gợi một cảm giác bi quan. Nhưng Lor-ca đã vượt lên trên những lẽ thường tình ấy, ông dung cây đàn ghita để vượt lên mỗi cái hữu hạn, vượt lên cái ngắn ngủi của đời người để vươn đến cõi vô cùng, bất tử.
“Chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…”.
Hành động vô cùng mạnh mẽ quyết liệt, ném “lá bùa” vào “xoáy nước” với tinh thần sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Nhưng đồng thời cũng “ném trái tim mình vào lặng yên” – vào sự lãng quên là hi sinh sự sống của mình để dọn đường cho hậu thế vươn tới những đỉnh cao mới trong nghệ thuật. Sau sự ra đi “lặng yên” của Lor-ca, “bất chợt” vang lên chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la” lan tỏa, ngân nga.
Bài thơ mang đậm phong cách thơ siêu thực: hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao độ, bài thơ có hình thức âm thanh, câu thơ không vần, không dấu, không viết hoa đầu dòng,…; những tương phản gay gắt được sử dụng liên tiếp;… Cho thấy sự cách tân nghệ thuật sâu sắc của Thanh thảo.
Bằng những hình ảnh tượng trưng cao độ, Thanh Thảo đã tái hiện chân thực và gợi cảm vẻ đẹp của hình tượng Lorca. Đồng thời thể hiện tiếng lòng tri âm của một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ. Và thể hiện triết lí nghệ thuật của Thanh Thảo: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, sức sống của nghệ thuật làm nên sự bất tử của người nghệ sĩ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 9
Được chú ý trên thi đàn từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, thơ Thanh Thảo chứa đựng nhiêu suy tư nghiêm túc về thế hệ mình, về quyền tự vệ chính đáng của dân tộc. Cái tôi công dân nhiệt huyết tự biểu lộ qua những câu hỏi mang chiều sâu nhận thức đã tránh cho thơ ông sự ồn ào dễ dãi.
Từ khi đất nước hoà bình rồi đổi mới, Thanh Thảo vẫn giữ nguyên được niềm say mê với thơ và vẫn là tác giả được bạn đọc chờ đợi. Có thể nhận ra hai đối tượng thấm mĩ mà ông tha thiết nhất: đó là những tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do, thanh cao, bất khuất và những cái đẹp lặng thầm bé nhỏ mà xiết bao kì diệu – cái đẹp giản dị như Tự nhiên, vô tư như Tự nhiên: “những giọt sương lặn vào cỏ – qua nắng gắt, qua bão tố – vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh – vẫn long lanh bình thản trước vầng dương” (Bùng nổ của mùa xuân).
Nhưng Thanh Thảo còn tha thiết hơn với việc kiếm tìm những khả năng biểu đạt mới mẻ, hiệu quả hơn cho thơ. Trong xu hướng vận động tích cực, mạnh mẽ của cả nền văn học Việt Nam từ sau năm 1975, Thanh Thảo thuộc số những người có nhiều nỗ lực thể nghiệm cách tân thơ táo bạo, đầy tâm huyết. Năm 1985, ông cho xuất bản tập Khối vuông ru bích và nhận được sự quan tâm rộng rãi của công chúng.
Tên tập thơ không chỉ thể hiện một quan niệm về tính đa chiều của cuộc sống mà còn là cách hình dung của tác giả về cấu trúc thơ: một mô hình mở, khước từ mọi khuôn mẫu ổn định, quen thuộc để giải phóng cảm xúc và tưởng tượng (trong trò chơi ru bích, người chơi tự do xoay chuyển các ô màu để thử nghiệm những phương án mà mình chọn, cuối cùng tìm ra được cơ chế vận hành thống nhất của chúng).
Đàn ghi ta của Lor-ca là một thi phẩm thành công, kết tinh nhiều nỗ lực tìm tòi sáng tạo của thơ Thanh Thảo theo hướng hiện đại hoá. Bài thơ mượn cây, đàn, đúng hơn, tiếng đàn, để diễn tả nhân cách cao đẹp cùng số phận oan khuất của người nghệ sĩ Tây Ban Nha tài hoa đã khiến ông ngưỡng mộ và xúc động sâu sắc. Lor-ca được tôn vinh là “con hoạ mi” của thơ ca Tây Ban Nha thế kỉ XX.
Thơ ông rất giàu chất nhạc dân gian vùng An-đa-lu-xi-a và chắc chắn tình yêu âm nhạc đã xui khiến thi nhân làm người du ca tự nguyện đổ hát lên cùng cây đàn những vẻ đẹp thơ của cuộc đời. Thanh Thảo đã cố gắng khắc hoạ hình tượng Lor-ca thi sĩ – ca sĩ trong một bài thơ vừa dồi dào nhạc tính, vừa có dáng dấp một ca khúc, không chỉ có hình ảnh cây đàn mà còn cả những lời thơ mô phỏng cách đệm đàn, hình ảnh, và âm thanh tiếng đàn ghi ta (tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, li-la li-la li-la).
Việc khai thác các đặc tính của những loại hình nghệ thuật khác để làm giàu thêm khả năng thơ đã được biết đến từ lâu nhưng khi điều này trở thành ý thức tự giác về bút pháp thì nhất định nó phải được dẫn đường bởi một quan niệm sáng tạo mới mẻ: hình thức phải mang tính nội dung, hình thức phải là một nội dung của sự sáng tạo.
Ngoài dáng dấp ca khúc và ít nhiều cả lối diễn tấu ghi ta, nhà thơ Việt Nam còn đưa vào nhiều chi tiết, hình ảnh, ý thơ của chính Lor-ca để mở ra một trường nghĩa “liên văn bản” rộng rãi (ví dụ những câu trong bài Ghi nhớ: “Khi nào tôi chết – hãy vùi xác tôi cùng cây đàn – dưới lớp cát”, hình ảnh “trái chanh vàng nho nhỏ” và lời để nghị “Hãy ném trái chanh nho nhỏ ấy – vào gió” trong bài Than thở về cái chết). Với Đàn ghi ta của Lor-ca, Thanh Thảo đã tạo ra hình thức “lai ghép” thơ – nhạc thật độc đáo.
Sự đồng cảm sâu sắc giữa người làm thơ và đối tượng cảm xúc thể hiện đầu tiên ở khả năng hoà nhập. Chỉ qua mấy nét chấm phá ban đầu, bài thơ ngay lập tức gợi được hình tượng Lor-ca trên cái “nền” đặc trưng của văn hoá Tây Ban Nha:
những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nhaáo choàng đỏ gắt li-la li-la li-lađi lang thang về miền đơn độcvới vầng trăng chếnh choángtrên yên ngựa mỏi mòn.
Trật tự từ và hình ảnh không kết hợp theo nguyên tắc tả thực rành rõ của lô gích lí tính thông thường mà như ngẫu hứng, như phi lí. Tính bất thường này có thể đưa đến nhiều cách “diễn dịch” khác nhau nhưng chắc chắn sẽ có một ấn tượng chung về hình tượng người nghệ sĩ cô đơn mà kiêu hãnh trên con đường thăm thẳm của tự do và cái đẹp. Hành trình ấy đối lập với bạo lực và xiềng xích cũng như “tiếng đàn bọt nước” (tượng trưng cho cái bé nhỏ / phù du hay giản dị mát lành) đối lập với “áo choàng đỏ gắt” (tượng trưng cho tai họa / chết chóc). Trong tương quan đối lập này, số phận người nghệ sĩ thật mong manh:
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du.
Giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời Lor-ca được tái hiên thật ngắn gọn và đặc sắc: tiếng hát “nghêu ngao” – tiếng hát vô tư, vô hại lại đưa đến hậu quả tàn khốc: “áo choàng bê bết đỏ”. Sự bất công này, tội ác nàỵ nằm ngoài cái đẹp, không bao giờ thuộc về cái đẹp nên làm sao Lor-ca hiểu? Phản ứng của chàng (“kinh hoàng”, “đi như người mộng du”) là nỗi xót xa ngàn đời trước tình thế không thể tự vệ của những nghệ sĩ như chàng khi “bị điệu về bãi bắn”. Nhịp điệu đứt gãy của những câu thơ này làm bùng nổ cảm xúc ở người đọc, nó nén một tiếng kêu bi phẫn không sao cất thành lời chính vì cái vẻ “mộng du” kia.
Vẫn lối kết hợp từ phóng túng mà cô đúc, Thanh Thảo dành cho độc giả một biên độ thênh thang của liên tưởng, tưởng tượng: Tây Ban Nha (không có định ngữ “áo choàng đỏ gắt”) có cùng ý nghĩa với “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” ở trên hay là một Tây Ban Nha thân yêu mà Lor-ca cất lời ca ngợi? Chiếc “áo choàng bê bết đỏ” là nỗi “kinh hoàng” của Lor-ca hay của cả dân tộc chàng đang chìm trong cuộc nội chiến đẫm máu?
Thanh Thảo đã từng viết: “Lor-ca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lor-ca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên”. Với Đàn ghi ta của Lor-ca, Thanh Thảo đã nỗ lực làm cuộc kiếm tìm nhịp điệu quyến rũ của những giấc mơ, những xúc cảm hân hoan và đau đớn, buồn phiền và dịu dàng mà chàng thi sĩ Tây Ban Nha kí thác vào những bài ca sâu thẳm “thật sâu, sâu hơn nhiều so với tất cả các giếng sâu và mọi vùng biển bao quanh thế giới, sâu hơn nhiều so với con tim hiện tại tạo ra nó và so với tiếng hát nó hát lên, là vì nó hầu như vô tận (Lor-ca).
Tâm hồn Lor-ca xao động đầy tràn mộng mị và linh cảm. Nhưng làm thế nào để diễn giải nó? Chắc chắn, cũng chỉ có thể tìm đến thứ ngôn từ mộng mị, đầy tràn linh cảm như thế, như bài thơ của Thanh Thảo.
Đàn ghi ta, với Lor-ca, có lẽ không chỉ là một nhạc cụ thân thiết, là tình yêu thi sĩ dành cho âm nhạc, mà còn là định mộĩih: “khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn”. Hơn cả định mệnh, nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo cảm nhận nó là tâm hồn, là linh hồn của thi sĩ Lor-ca. Nó chính là sự bất diệt (“những tiếng đàn bọt nước”, “đi lang thang về miền đơn độc”).
Miêu tả âm thanh, ở dạng đơn giản, là sự mô phỏng. Ở một mức cao hơn, là sự mô phỏng bằng hình dung về những tính chất. Ví dụ: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nứa vời” (Truyện Kiều), những hình dung dù rất đẹp, vẫn nhằm “minh họa”, “mô phỏng” cho cái “trong” “đục” của âm thanh. Nhưng cẩm nhận của Thanh Thảo đã nghiêng về cảm nhận của giấc mơ, không cần một sự tương đương trong hiện thực, nó đầy dư ba và sức gợi liên tưởng:
– những tiếng đàn bọt nước
– tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Những điệp khúc tạo hình âm nhạc bằng chính nhịp điệu, và bằng hình ảnh (bọt nước, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng, máu chảy) bằng màu sắc (nâu, xanh biết mấy), bằng liên tưởng (Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt, bầu trời cô gái ấy,…). Sự kết hợp ngẫu hứng các từ ngữ thường thấy trong lối thơ tượng trưng cũng là sự kết hợp của kiểu tư duy âm nhạc.
Đặc biệt, với “tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy”, âm nhạc đã thành thân phận. Nó là tiếng van vỉ than khóc của “trái tim tử thương” trong thơ Lor-ca, nó chính là định mệnh nghiệt ngã của người nghệ sĩ yêu tự do và cái đẹp – người chiến sĩ kiên cường đã chết dưới tay phát xít. Thanh Thảo đã tượng trưng hoá âm thanh: không ai chôn cất tiếng đàn.
Tiếng đàn trở thành linh hồn, hơn thế, thành cả thân thể, thành một sinh thể, một thân phận… (Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu thơ Nguyễn Du thác lời Thuý Kiều nói về lẽ tử sinh: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”). Bọn phát xít có thể giết Lor-ca nhưng làm sao giết được tiếng thơ, tiếng đàn người nghệ sĩ ấy để lại trong lòng dân chúng? “Không ai chôn cất tiếng đàn” vì đó là điều không thể.
Kẻ thù muốn xoá tên tuổi Lor-ca như đã hèn hạ vùi xác ông trong một nấm mồ vô danh nào đó nhưng chúng làm sao chôn được tiếng đàn mãi còn “thở than”, “ai oán”, “van vỉ” và “khóc” cùng con tim những người dân Tây Ban Nha bị tước đoạt tự do, bị đẩy vào loạn li binh lửa! Sau khi Lor-ca bị thủ tiêu, có nguồn tin nói rằng bọn phát xít đã bí mật quăng xác ông xuống giếng. Câu thơ này ít nhiều gợi lại chi tiết đó.
Điều quan trọng mà Thanh Thảo khẳng định ở đây chính là chân lí về sự bất tử: có thể giết chết con người nhưng không thể tiêu diệt được khát vọng sống của con người. Khát vọng ấy Lor-ca đã “phổ” vào tiếng đàn và giờ đây nó vẫn đang lên tiếng, đang sinh sôi mãnh liệt bằng sức sống tự nhiên không gì chặn nổi: “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Có bao nhiêu lần Thanh Thảo đã dùng “cỏ” tượng trưng cho sự bất khuất, cho sức sống trường tồn (Dấu chân qua trảng cỏ, cỏ vẫn mọc,…).
“Cỏ hoang” là thứ vô danh, chẳng chút cao sang quý phái nhưng khả năng sinh tồn thì thật phi thường. So sánh tiếng đàn Lor-ca với “cỏ mọc hoang” là một so sánh lạ nhưng hợp lí, nhất quán trong bút pháp tạo hình tượng trưng hoá của bài thơ.
Xem thêm: Phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn và nói lên suy nghĩ của bạn
Hình ảnh “giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng” tuy có thấp thoáng gợi lại cái chết oan khuất của Lor-ca nhưng ấn tượng nổi bật vẫn là một vẻ đẹp cao khiết, rạng ngời. Phép tỉnh lược (bỏ bớt từ) làm cho mối liên kết giữa các hình ảnh trở nên linh động, biến ảo và trường liên tưởng của người đọc được kích thích mạnh. “Giọt nước mắt” của ai?
Lor-ca? Nhân dân Tây Ban Nha? Hay Thanh Thảo? “Giọt nước mắt” như “vầng trăng” hay “giọt nước mắt” là “vầng trăng”? Hay cả hai? Lô gích ngữ pháp có vẻ bị phá vỡ nhưng ấn tượng về nỗi đau và vẻ đẹp mà hình ảnh thơ chuyển tải thì rất tự nhiên, sâu sắc. Thêm nữa, hoàn toàn có thể coi hình ảnh “giọt nước mắt vầng ưãng” như một ẩn dụ tượng trưng rất giàu sức gợi cảm của huyền thoại: giọt nước mắt hoá ra vầng trăng, giọt nước mắt là cái đẹp thiên nhiên vĩnh cửu, là tình yêu,…
Nhiều bạn đọc Việt Nam hẳn sẽ nhớ lại những giọt nước mắt có khả năng giải oan, tái sinh tình yêu và cái đẹp như vậy (chẳng hạn: Giọt nước mắt trong các truyền thuyết Trương Chi, Mị Châu – Trọng Thuỷ). Từ kí ức văn hoá và từ cuộc đời Lor-ca, Thanh Thảo tạo dựng một huyền thoại khác:
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc.
“Đường chỉ tay đã đứt”, định mệnh nghiệt ngã đã cắt ngang sự sống của Lor-ca, chàng trở về với tự nhiên, về với thế giới vĩnh hằng trong dáng vẻ nghệ sĩ của mình. Trong thế giới siêu thoát ấy, cây ghi ta của chàng thành con thuyền đẹp và huyền bí. Nó phải là “chiếc ghi ta màu bạc”. Người Việt chúng ta hay nói đến sự tẩy rửa, và “nước” hoặc “sông” gắn với sự tẩy rửa này bởi qua cái chết, Lor-ca tìm một sự bình yên. Nhưng phía sau chàng là những gì chàng đã thương yêu, khao khát. Giã từ thế nào đây’?
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Giây phút cuối cùng thi sĩ chỉ hiện diện duy nhất bằng trái tim – cũng là lá bùa, là định mệnh – đã trở thành chàng Đan-kô, để âm thanh vang nhịp đập con tim mãi đầy hương thơm với điệp khúc “li – la li – la…” (li la còn là tên một loài hoa xứ Tây Ban Nha). Giấc mơ “tiếng đàn bọt nước”, giấc mơ âm thanh “li – la li – la li – la” vừa ngân vang nhạc vừa đọng hương siêu thực.
Bài thơ còn vẽ lên hình ảnh một hành trình nghệ sĩ: “đi lang thang vể miền đơn độc – với vầng trăng chếnh choáng – trên yên ngựa mỏi mòn”; người thi sĩ – chiến sĩ hát nghêu ngao “bị điêu về bãi bắn”, “đi như người mộng du”, nhưng linh hồn chàng – tiếng ghi ta ấy – thì hoá màu sắc, thanh âm, máu chảy,…Theo bước chân lãng tử, theo câu thơ lãng tử, người đọc chứng kiến một sự sống Lor-ca, cái chết Lor-ca và sự bất diệt Lor-ca. Đó là huyền thoại về một con người, một nghệ sĩ, một chiến sĩ, về một xứ sở và về chính nghệ thuât, âm nhạc, thi ca,…
Bài thơ đem đến một âm hưởng lạ bởi cấu trúc trùng điệp, gợi cảm và một không gian lạ. Không gian lạ được tạo dựng không phải chỉ là hình ảnh Lor-ca với Tây Ban Nha, nơi màu áo choàng đỏ gắt của các võ sĩ đấu bò tót đã là nét văn hoá không thể thiếu, mà còn là những liên tưởng thơ mang tính siêu thực: “những tiếng đàn bọt nước”, “vầng trăng chếnh choáng”, “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta xanh biết mấy”, “bầu trời cô gái” Di-gan, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”,…
Thanh Thảo chưa đi đến sự phi lí huyền hoặc, bài thơ vẫn còn những câu thơ nhiều lí tính: ” tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Câu thơ này làm nhớ một câu thơ của Chế Lan Viên: ” cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên”. Cũng chạm đến cái hoang đường, nhưng cái hoang đường, mộng mị ở Thanh Thảo còn bị níu giữ bởi ngôn từ tuyến tính khi thêm một từ “như” chặn ngang sự tự do và làm giới hạn liên tưởng thơ.
Dù vậy, về cơ bản trong toàn bộ bài thơ, ngôn ngữ đã nhập vào những giấc mơ, những cơn mộng, nhập vào âm nhạc,… Giữa nhiều bài thơ “tỉnh rụi, tỉnh khô, tỉnh như sáo…” của tập Khối vuông ru bích, Đàn ghi ta của Lor-ca là một khúc nhạc đẫm chất trữ tình, chếnh choáng ánh sáng, hương thơm. Cảm giác “tan chảy” trong sự sống tưởng tượng, có lẽ là cảm giác đẹp nhất khi đọc thi phẩm này. Nó cũng là cảm giác mà nhiều bài thơ của Lor-ca đem lại, dù chỉ là qua bản dịch.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” số 7
Thanh Thảo là 1 trong những những thi sĩ thuộc thế hệ thơ trẻ, thời kì chống Mỹ cứu nước. Sau năm 1975, ông vẫn miệt mài trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Thanh Thảo luôn trăn trở để mang đến cho thơ những cách diễn đạt mới mẻ và độc đáo.” Đàn ghi-ta của Lorca là 1 trong những những thi phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm được viết theo lối thơ tượng trưng pha lẫn màu sắc siêu thực.
Gar-xia- Lorca là một thiên tài sáng chói trên nền trời nghệ thuật Tây Ban Nha nửa đầu thế kỉ XX. Ông vừa là nhà thơ, vừa là nhạc sĩ và là nhà sạn kịch nổi tiếng. Lorca còn là một chiến sĩ nêu cao tinh thần đấu tranh vì tự do dân chủ, chống chế độ độc tài thân phát xít lúc bấy giờ. Cuộc đời của ông tài hoa nhưng bạc mệnh, Ông đã bị phe phát xít Phrang-cô thủ tiêu khi mới 38 tuổi.
Trở lại với đoạn thơ đầu trong thi phẩm “Đàn ghi-ta của Lorca” là niềm ngưỡng mộ và tiếc thương của Thanh Thảo người nghệ sĩ xứ sở bò tót được khắc họa lại rõ nét. Ở những câu thơ đầu, Lorca không hiện lên trực tiếp mà hiện lên gián tiếp qua những chi tiết mang đậm màu sắc văn hóa Tây Ban Nha.
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”
Lorca được khắc họa với âm thanh của tiếng đàn ghi-ta. Đây là âm thanh quen thuộc đối với người dân Tây Ban Nha. Đất nước này chính là quê hương của đàn Ghita, do đó, nhạc cụ này còn được gọi là Tây Ban cầm. Tiếng đàn Lorca được miêu tả qua phép tương giao giữa thính giác và thị giác, âm thanh tiếng đàn là đối tượng thính giác còn hình ảnh bọt nước là ấn tượng thị giác. “Bọt nước” gợi sự mong manh dễ tan biến vào hư không. Tiếng đàn ấy dường như đã chứa đựng một dự báo về một kiếp người ngắn ngủi, bạc phận của Lorca.
Lorca hiện lên như một người nghệ sĩ lãng du và cũng giống như một đấu sĩ trong chiếc áo chòng đỏ gắt. Chúng ta đều biết đây là một màu sắc đặc trưng trong những trận chiến đấu bò tót ở Tây Ban Nha.
“li-la li-la li-la” Cụm từ trên mô phỏng âm thanh tiếng đàn ghi ta gióng như khúc dạo đầu của màn giao hưởng. Nó còn gợi cho người đọc nhớ đến một loài hoa tên đinh hương- một loài hoa tiêu biểu cho vẻ đẹp của xứ sở bò tót. Với những giai điệu này, Lorca hiện lên: “đi lang thang về miền đơn độc”
“Đi lang thang” có nghĩa là đi không có chủ đích, những bước chân phiêu lãng trong vô định. “Miền đơn độc” là cụm từ mang ý nghĩa biểu tượng để nói lên sự cô đơn lẻ loi của Lorca. Dù có cất bước về nơi nào thì cũng đều là “miền đơn độc” đối với Lorca. Và trên con đường vô định ấy, chỉ có vầng trăng là người đòng hành, người bạn của Lorca:
“với vầng trăng chếnh choáng
Trên yên ngực mỏi mòn”
Vầng trăng được thổi vào một linh hồn qua phép nhân hóa. Nó không còn là một sự vật vô tri nữa mà trở thành một sinh thể. Phải chăng tiếng đàn của Lorca có men say, chếnh choáng vầng trăng? Câu thơ này còn hàm chứa một cách hiểu khác đó là chính Lorca đang đăm say, ngây ngất, nên nhìn vầng trăng “chếnh choáng”. Người nghệ sĩ cô đơn rong ruổi trên yên ngựa đã mỏi mệt trong suốt một hành trình vẫn chư có điểm kết thúc.
Trong khổ thơ thứ hai, tác giả khắc họa lại hình ảnh bi phẫn nhất cuộc đời của Lorca. Đó là khi ông bị bom phát xít sát hại. Người nghệ sĩ yêu cuộc sống, yêu đất nước và con người tây Ban Nha ấy đang “hát nghêu ngao”, tiếng hát vô tư, hông nhiên thì bị cắt đứt sự sống. Từ ”bỗng diễn tả sự bất ngờ, đột ngột, tai họa ập tới có lẽ chính lorca cũng không ngờ tới.
“bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ”
Hình ảnh chiếc áo để lại nhiều trong lòng người đọc những hình ảnh xót xa. Nếu ở trên, màu đỏ là sắc áo đặc trưng thì ở đây, màu đỏ chính là màu của máu. Một cái chết đẫm máu, bi thảm. Trong khoảnh khắc bị đưa đi xử tử, Lorca đi như “người mộng du”.
Trong khổ thơ thứ ba, tác giả mượn hình tượng của tiếng đàn để nói về cái chết của Lorca. Tiếng đàn không mang ý nghĩa thực mà mang ý nghĩa biểu tượng. Phép tương giao một lần nữa được Thanh thảo sử dụng: tiếng đàn ghi-ta vừa có màu sắc, vừa có hình khối. Trước khi Lorca bị sát hại, tiếng đàn thật đẹp và tràn đầy sức sống như nguồn sinh lực của tâm hồn. Các chi tiết “chiếc ghi-ta nâu”,”tiếng ghi-ta xanh”, “bầu trờ cô gái ấy” tượng trung cho vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp tình yêu mà tiếng đàn Lorca thể hiện.
“tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy”
hai câu thơ trên được viết theo lối vắt dòng khi mà “máu cháy” được đặt riêng thành một câu thơ làm nổi bật tính chất bi thương đau đớn của cái chết Lorca. Các câu thơ cứ ngắn dần về số chữ cũng như số phận của lorca đang tắt dần.
Có thể bạn thích: