Ru-xô (1712-1778) là nhà văn, nhà triết học, nhà hoạt động cách mạng xã hội Pháp. Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết nổi tiếng như Giuy-li, Nàng Hê-lô-i-dơ mới, Ê-min hay về giáo dục… Văn bản “Đi bộ ngao du” trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục, xuất bản năm 1762, bài viết bày tỏ quan điểm muốn ngao du học hỏi cần phải đi bộ. Tác phẩm là minh chứng cho những tác dụng mà đi bộ mang lại cho con người, muốn ngao du cần phải đi bộ. Qua đó, thể hiện Ru-xô là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên. Mời các bạn tham khảo một số ít bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 7
Có những nhà văn nước ngoài khiến bạn đọc Việt Nam nhớ mãi không thôi về những đoạn trích và tác phẩm của họ. Trong số tác giả đó ,có nhà văn Ru- xô người Pháp. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo ,cha làm thợ sử đồng hồ ,mẹ mất sớm ,ông chỉ được học hết năm mười hai tuổi đến năm mười bốn tuổi ông đi lang thang nhiều nơi và làm nhiều nghề. Từ những tủi nhục mà ông trải qua và sự thông minh hiếu học ông đã trở thành một nhà triết học và có những tác phẩm để đời mãi về sau. Tiêu biểu trong đó có tác phẩm Ê-min hay về giáo dục.
Ê- min hay về giáo dục được viết vào năm (1762). Tác phẩm là một thiên tiểu thuyết đề cập đến một phương pháp giáo dục một con người từ khi mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Nhân vật của ông là Ê- min và thầy giáo của anh chính là ông. Tác phẩm này được chia làm năm quyển tương ứng với năm giai đoạn của quá trình giáo dục. Đoạn trích Đi bộ ngao du trích từ quyển năm. Đây là quyển cuối cùng trong quá trình giáo dục của Ê-min. nhan đề đi bộ ngao du do sách giáo khoa dịch và đặt tên.
Nhà văn Ru- xô đã thuyết phục người đọc ngao du là phải đi bộ bằng ba luận điểm chính. Những lập luận chặt chẽ cùng với thực tễn sinh đọng đã giúp cho bài văn của Ru- xô trở nên hấp dẫn và có lý rất nhiều. Luận điểm thứ nhất của nhà văn là đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Và luận điểm này được nhà văn thể hiện rõ trong đoạn văn thứ nhất. tác giả nhấn mạnh việc đi bộ ngao du sẽ là cách để chúng ta có thể thưởng ngoạn một cách tối đa nhất có thể. Chỉ từ một việc rất đơn giàn hằng ngày là đi bộ mà tác gải nâng nó lên thành một chân lý cao siêu tinh tế.
Tác gỉa lấy kinh nghiệm của bản thân để thuyết phục mọi người. Tác giả kể như sau: “ Tôi chỉ quan niệm được 1 cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi ,ta thích dừng lúc nào thì dừng ,ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải ,sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản…
Ở đoạn thứ hai tác giả tiếp tục giới thiệu về tác dụng của đi bộ. Theo tác gải thì đi bộ ngao du là cách để ta mở mangtri thúc và trau dồi kiến thức. “ đi bộ ngao du là đi như Ta-lét ,Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt”. đi bộ là nâng cao tầm hiểu biết của mình lên. Bằng những trải nghiệm thực tế cùng những điều lí thú từ thiên nhiên và con người mà ta có thể tiếp thu tri thức được. Có thể nói thiên nhiên và cuộc đời là một trường hoc lớn mà mỗi chúng ta nên cố gắng khám phá nó.
Khám phá bằng cách nào chình là cách đi bộ ngao du “Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy ? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó ,một lèn đá mà không ghè vài mẩu ,những quả núi mà không sưu tập hoa lá ,những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!”. Chính vì thế kiến thức của mọi lĩnh vực trong tự nhiên giống như ngọn gió mát lành ùa vào tâm hồn và trí tuệ con người. Theo tác giả thì học hỏi từ thiên nhiên chứ sẽ tốt hơn và khác xa với những gì có trong sách vở. Thiên nhiên sống động uyển chuyển chứ không cứng nhắc như mấy mô hình trong sách vở.
Thiên nhiên là sự sắp xếp tài tình của tạo hóa mà bất cứ nhà khoa học nào cũng không thể sắp xếp được. Những bộ sách của các vị vua chúa kia dẫu sang trọng nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Tất cả những thứ ấy không thể so sánh với việc đi bộ ngao du tự thưởng thức trải nghiệm được. Ru- xô thẳng thắn chê bai những sưu tập của vua chúa phong kiến bởi vì những thứ của họ chỉ nằm gọn trong căn phòng ,còn sưu tập của Ê-min là cả trái đất kia.
Ở đoạn cuối tác giả nhấn mạnh tác dụng của đi bộ ngao du đối với sức khỏe và tinh thần. Như vậy có thể nói đi bộ ngao du không chỉ giúp ích về tri thức mở mang mà còn có tác dụng về tinh thần nữa. Đi bộ ngao du giúp sức khỏe tăng cường tính khí trở nên vui vẻ. Tác giả so sánh với những ngồi trong cỗ xe mà mơ màng buồn còn đi bộ ngao du luôn vui vẻ khoan khoái và hài lòng mọi người. Đi bộ ngao du giúp ta: “Chân đi ,mắt nhìn ,tai nghe ,óc phân tích ,nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ ,những cảnh đẹp gặp trên đường.
Thân thể được rèn luyện ,thử thách ,sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy ,ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn biết chừng nào ,đáng sống biết chừng nào!”. Tác giả đã so sánh khá hay về đi bộ và đi xe để từ đó ta thấy được tác dụng của việc đi bộ. Mà những tác dụng đó được tác giả đạt làm nhiệm vụ hàng đầu. Bằng giọng văn hân hoan đầy tính chủ quan nhưng bằng những lí lẽ dẫn chứng thuyết phục Ru- xô đã thuyết phục được mọi người đồng tình.
Như vậy có thể thấy đoạn trích đi bộ ngao du của Ru- xô là một đoạn trích hay và có ý nghĩa. Từ những dẫn chuwgs và thực tế sinh động Ru- xô đã đêm đến cho chúng ta tầm quan trọng của việc đi bộ ngao du trong cuộc sống. Hay ý nghĩa sâu xa cảu nó chính là việc học tập. Học tập không phải cứng nhắc qua sách vở mà là tìm hiểu từ thực tế.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 10
Ru-xô là nhà văn tiến bộ người Pháp. Cuộc đời lao động đầy gian truân của ông đã đào luyện ông thành nhà văn có tư tưởng tiến bộ đấu tranh cho tự do và bình đẳng giữa con người với con người trong xã hội phong kiến Pháp thế kỉ XVIII. Tác phẩm Ê-min hạy về giáo dục được Ru-xô viết vào năm 1762 là đỉnh cao triết học của ông, gồm có năm cuốn. Ê-min là một nhân vật tượng trưng được nuôi dưỡng từ thuở bé trong cuộc sống tự nhiên, trong môi trường dân chủ và tự do nên nhân cách, trí tuệ và thể lực ngày một phát triển tốt đẹp. Trích đoạn Đi bộ ngao du rút trong cuốn 5, khi Ê-min đã khôn lớn, trưởng thành. Qua đoạn trích, Ru-xô khẳng định đi bộ ngao du thật có ích và vô cùng thú vị.
Đi bộ ngao du là một bài văn nghị luận. Luận đề chính tác giả đưa ra là: đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa, vấn đề này được Ru-xô làm sáng tỏ bằng ba lập luận chính. Đó là đi bộ ngao du ta hoàn toàn được tự do, thoải mái; đi bộ ngao du làm cho con người có dịp trau dồi kiến thức của mình; đi bộ ngao du còn làm cho ta tăng cường sức khỏe, tinh thần sảng khoái. Ta hãy xem nhà văn đã trình bày ba luận điểm này như thế nào.
Mở đầu đoạn trích, Ru-xô viết: Tôi chỉ quan niệm được 1 cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Như vậy là luận đề chính đã được đưa ra. Mới nghe, ta ngỡ là nói chơi. Nhưng ởvào thời điểm của thế kỉthứ XVIII, đây làmột nhật hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện văn minh (đi ngựa) hay bất kỳ thành tựu khoa học nào (ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay…) thế thì còn phải là nói chơi nữa hay không?.
Thuyết phục người đọc phải tin vào quan niệm Đi bộ ngao du thú hơn đi ngựa, nhà văn đã đưa ra luận điểm thứ nhất: đi bộ ngao du rất tự do thoải mái và chủ động. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiêu ít thếnào là tùy… ta quay sang phải, sang trái… Như vậy, chẳng phải là đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do hay sao? Đại từ ta được dùng liên tiếp trong các câu của đoạn văn đã có sức thuyết phục cao, nhấn mạnh kinh nghiệm của bản thân trong việc đi bộ ngao du, củng cốlòng tin của người đọc. Đoạn văn đã diễn tả được cái hứng khởi tràn đây trong bối cảnh tự do khi con người được cởi trói với những ràng buộcxung quanh. Cái tôi vang lên tiếp sau từ ta nghe như là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi xổ lồng, tiếp xúc với cả thế giới bao la hùng vĩ mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Này nhé, Tôi đi bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy…
Tôi chẳng phụ thuộc vào con ngựa hay gã phu trạm… Tôi hưởng thụ tất cảsự tự do mà con người có thểhưởng thụ… Câu văn, dòng văn cứ lôi cuốn người đọc đến say người chính là ởtư thế tự do mà con người ta có được. Tự do đã chắp cánh tâm hồn bay bổng. Cách lập luận của đoạn văn vừa song hành vừa móc xích. Song hành trong cách bộc lộ chủ thểtự do (đại từ ta). Móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp (đại từ tôi). Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý: Nếu tôi mệt… đã lập tức có một cái tôi khác trả lời trong quan hệ hô ứng vang lên: Nhưng Ê-min cómệt gì lắm đâu; em to khỏe; và sao em lại mệt được cơ chứ? Sự tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hỏi đáp cũng chỉ là một con người mà thôi! Nó đã làm đoạn văn như một lời đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe 1 cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đặt. Không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu, nhưng lại sâu lắng trong lòng người đọc: đi bộ ngao du đem lại cảm giác tự do thưởng ngoạn cho con người!.
Con người tự do, tư tưởng thoải mái thì ắt nhận thức sẽ hiệu quả hơn. Đó chính là luận điểm thứ hai màRu-xô đã chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống. Quả thật, đi bộ ngao du làđể quan sát, tìm tòi, phát hiện như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go, những nhà triết học, toán học vĩ đại của Hy Lạp thời cổ. Đi bộ ngao du là để xem xét những tài nguyên, là đểbiết các đặc sản nông nghiệp và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy, là để phát triển hứng thú với tự nhiên học: xem xét một khoảng đất mà mình đã qua, ghè một mẫu quả lên đá, sưu tập hoa lá, những hòn sỏi, các hóa thạch của những quả núi.
Ru-xô so sánh 1 cách hóm hỉnh nhưng chính xác vô cùng để làm nỗi bật lí lẽ của mình: phòng sưu tập của những triết gia thì có đủ các thứ linh tinh vì họ chỉ biết gọi tên nhưng chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả. Trái lại, phòng sưu tập của Êmin là phòng sưu tập cả trái đất, còn phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa. Bởi cái mà họ tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa, thậm chí còn khác xa sự thật. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi mọi vật đều ở đúng chỗ như trái đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, mọi sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giòi nào có thểsắp xếp tốt hơn. Một phép so sánh đầy sức thuyết phục: nhà tự nhiên học Đô-băng-tông chắc cũng không thể nào làm tốt hơn phòng sưu tập của Ê-min.
Phải chăng qua luận điểm này, nhà văn đã đề cao con người tự nhiên, ông chỉ rõ phải đưa con người vào trong môi trường tự nhiên đểmởmang kiến thức, phát triển nhân cách. Giáo dục không được thoát li tự nhiên, nêu không sẽ trở thành viển vông, vô nghĩa. Tư tưởng ấy, quan niệm ấy rất tiến bộ, đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa.
Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Đây chính là luận điểm thứ ba. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ởchỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, một tác dụng bổsung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một sự chuyển ý vừa như nêu vấn đề: Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ tăng cường, tính khí trởnên vui vẻ. Kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm thi tâm hồn bệnh hoạn: mơ màng, buồn bã, cáukỉnh hoặc đau khổ.
Trái lại, Ê-min vì đi bộ nhiều nên lạc quan yêu đời, luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Đó là hai thái cực trái ngược nhau. Cách so sánh mới khách quan làm sao? Bởi tác giả không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du, mà đứng ở một góc nhìn quan sát. Chỉ một hình ảnh đắt giá đã làm nổi bật luận điểm, sức thuyết phục lên càng cao. Từ khách quan, nhà văn lại trở về với ý tưởng chủ quan.Từ ta đã phát huy tác dụng đến tối đa, giọng văn trở nên hân hoan có khả năng chia sẻ, đồng cảm. Điều kiện ăn ngủ tuy thật thô sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không đủ ngăn được những cảm giác khoan khoái của cơ thể và tâm hồn sau những cuộc đi bộ ngao du đem lại: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà!
Một bữa cơm đạm bạc sao mà có vẻ ngon lành thế! Ta thíchthú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn. Thú vị của việc đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống, yêu cuộc sống hơn. Tuy đề cao lợi ích của đi bộ ngao du nhưng bài văn không phải là bài quảng cáo, lời hô khẩu hiệu. Người đi bộ đã có điểm dừng đúng chỗ: Khi ta muôn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ởmục đích, có chừng mực của nó mà thôi!.
Cách viết của Ru-xô thâm trầm, giản dị, giọng văn thay đổi, lúc thì tranh biện, lúc thì tâm sự, lúc thì hân hoan sung sướng. Lí lẽ, dẫn chứng đưa ra là sự thực hiển nhiên, là chân lí đầysức thuyết phục đã khẳng định 1 chân lí: đi bộ ngao du là thoải mái, tự do, rất bổích và thú vị. Ai cũng cần biết, nên biết đi bộ ngao du là để mởmang kiến thức. Mở rộng tầm mắt, phát triển nhân cách, thể lực, làm cho cuộc sống có sắc màu ý vị. Đằng sau một bài văn nghị luận được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện lên một con người có văn hoá – Ấy là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu quý thiên nhiên.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 4
Ru-xô là nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông sinh ra trong một gia đình,nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ. Mồ côi mẹ sớm nên ông chỉ được đi học từ năm mười hai đến năm mười bốn tuổi, sau đó rời gia đình, lang thang nhiều nơi, trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhờ thông minh, có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, Ru-xô đã trở thành nhà triết học, nhà văn có tên tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Luận về khoa học và nghệ thuật (1750), Luận về sự bất bình đẳng (1755), tiểu thuyết Giuy-li hay nàng Hê-lôi-dơ mới (1761), tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục (1762), Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1777- 1778)…
Luận điểm triết học mà Ru-xô hay bàn tới là sự đối lập giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Theo ông, con người sinh ra vốn lương thiện, tự do và sung sướng, nhưng xã hội phong kiến đã biến con người thành độc ác, nô lệ và khổ cực. Triều đình phong kiến Pháp thế kỉ XVIII thẳng tay đàn áp những tư tưởng tiến bộ của Ru-xô, ông bị truy nã khắp nơi. Mười một năm sau khi ông qua đời, cách mạng tư sản 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến suy tàn tổn tại lâu đời. Tư tưởng dân chủ tiến bộ của Ru-xô được đánh giá rất cao. Tượng bán thân Ru-xô được chính phủ Cách mạng tư sản Pháp trân trọng đặt trong phòng họp của Quốc hội.
Ê-min hay Về giáo dục là một thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung đề cập đến phương pháp giáo dục một con người từ khi mới ra đời cho đến lúc trưởng thành. Nhà văn đặt tên cho nhân vật là Ê-min và thầy giáo đảm nhiệm công việc giáo dục chính là ông. Tác phẩm chia thành năm quyển, tương ứng với năm giai đoạn liên tiếp của quá trình giáo dục.
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Ê-min mới ra đời cho đến khoảng hai, ba tuổi. Nhiệm vụ của người giáo dục là làm sao cho cơ thể em bé được phát triển tự nhiên. Giai đoạn thứ hai từ khi Ê-min lên bốn, lên năm cho đến mười hai tuổi. Đây là giai đoạn giáo dục cho em một số ít nhận thức bước đầu bằng hình thức giáo dục nhẹ nhàng, không gò bó. Tiếp theo là giai đoạn thứ ba kéo dài khoảng ba năm, Ê-min sẽ được trang bị những kiến thức khoa học hữu ích, nhưng không phải là kiến thức trừu tượng trong sách vở mà là kiến thức cụ thể tiếp thu được từ thực tiễn sinh động của cuộc sống và thiên nhiên.
Năm mười lăm tuổi, Ê-min học một nghề lao động chân tay và gia sư đã hướng dẫn em học nghề thợ mộc. Giai đoạn thứ tư từ năm mười sáu đến năm hai mươi tuổi, Ê-min được giáo dục về đạo đức và tôn giáo. Giai đoạn thứ năm, Ê-min đã trưởng thành. Anh gặp Xô-phi, một cô gái nết na được giáo dục từ bé theo những nguyên tắc tương tự. Hai người yêu nhau. Trước khi cưới, Ê-min đi du lịch hai năm để cho đạo đức và nghị lực được thử thách và cũng là dịp mở mang hiểu biết về xã hội rộng lớn xung quanh.
Bài Đi bộ ngao du trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục. Văn bản này do tác giả sách giáo khoa dịch và đặt nhan đề. Để thuyết phục mọi người rằng nếu ngao du thì nên đi bộ, tác giả đã lập luận bằng ba đoạn văn, mỗi đoạn trình bày một luận điểm: Đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn. Đi bộ ngao du là dịp để trau dồi, mở mang tri thức. Đi bộ ngao du làm cho tính tình trở nên vui vẻ.
Tác giả đã dùng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục bạn đọc về lợi ích của việc đi bộ ngao du. Lập luận của bài văn hết sức chặt chẽ. Tác giả lấy thực tiễn sinh động để chứng minh rằng muốn ngao du cần phải đi bộ. Bài văn còn thể hiện rõ Ru-xô là một con người giản dị nhưng sâu sắc, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Ở đoạn thứ nhất, tác giả nhấn mạnh rằng đi bộ ngao du là cách mà con người được tự do đến mức tối đa. Từ một việc làm bình thường hằng ngày, tác giả đã nâng lên thành một mục đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Trong đoạn văn này, tác giả chủ yếu sử dụng câu trần thuật để kể lại những điều thú vị của người ngao du bằng cách đi bộ.
Tác giả kể chuyện bằng ngôi thứ nhất và lấy những kinh nghiệm của bản thân trong việc đi bộ ngao du để thuyết phục mọi người: Tôi chỉ quan niệm được 1 cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…; một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản… Xem tất cả những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai.
Khi quả quyết rằng: Tôi chỉ quan niệm được 1 cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ, tác giả khẳng định mình là người ưa thích ngao du bằng đi bộ và muốn mọi người cũng nên thích đi bộ ngao du như mình. Các cụm từ ta ưa đi, ta thích dừng, ta muốn hoạt động, tôi hưởng thụ xuất hiện liên tục để nhấn mạnh cảm giác tự do cá nhân; từ đó tác giả muốn thuyết phục bạn đọc tin vào lợi ích to lớn của việc đi bộ ngao du. Đó là cách tốt nhất để con người hòa hợp với thiên nhiên tuyệt mĩ.
Căn cứ vào lời lẽ phân tích, giảng giải của vị gia sư cho cậu bé Ê-min thì đi bộ ngao du quả là thú vị nhất trần đời, vì nó đem lại cho con người cảm giác sảng khoái của tự do tuyệt đối. Mà trên đời, còn gì sung sướng hơn được tự do? Ta là chủ bản thân ta, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhờ vậy mà ta thỏa mãn được những nhu cầu đặt ra trước chuyến đi. Ở đoạn thứ hai, tác giả chứng minh đi bộ ngao du là dịp để con người trau dồi, mở mang tri thức: Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt.
Đi bộ ngao du là cách để con người nâng cao tẩm hiểu biết, bồi đắp vốn sống thực tế. Thiên nhiên và cuộc đời là một trường học lớn, là kho tàng kiến thức phong phú, đa dạng: Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy ? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó, một lèn đá mà không ghè vài mẩu, những quả núi mà không sưu tập hoa lá, những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!
Kiến thức về mọi lĩnh vực của tự nhiên giống như những ngọn gió mát lành ùa vào tâm hồn và trí tuệ con người. Học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên khác xa với cách học giáo điều, hình thức trong trường lớp, qua sách vở. Thiên nhiên sống động không giống với những mô hình chết cứng trưng bày trong phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học và các phòng sưu tập sang trọng của vua chúa cũng không thể so sánh. Bởi những thứ mà họ có trong tay cứ tưởng là đầy đủ thật ra chỉ là một phần nào đó rất nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Còn sự vật chỉ thực sự có linh hồn khi ở đúng chỗ mà Tạo hóa đã an bài cho nó trong một tổng thể thiên nhiên hài hòa và sinh động, một sự sắp xếp thần tình mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.
Vốn tôn thờ chủ nghĩa tự nhiên nên Ru-xô đả kích không thương tiếc thứ chủ nghĩa tự nhiên giả hiệu của giai cấp phong kiến quý tộc đương thời: … các ngài nghiên cứu tự nhiên học trong các phòng sưu tập; họ có các thứ linh tinh; họ biết gọi tên nhưng chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả. Nhưng phòng sưu tập của Ê-min thì phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa; phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều ở đúng chỗ của nó… mọi thứ đâu ra đấy. Đô-băng-tông chắc cũng không thể làm tốt hơn.
Ru-xô mỉa mai những kẻ nghiên cứu tự nhiên giả hiệu và khẳng định Ê-min giàu có hơn cả vua chúa vì anh có bộ sưu tập khổng lồ vô giá là cả trái đất. Ở đoạn cuối, Ru-xô nhận xét: đi bộ ngao du có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và tinh thần: Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy. Không kể sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng buồn bã, của kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn! Khi ta muốn đến một nơi nào đó, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ.
Đi bộ ngao du làm cho con người phát triển toàn diện. Chân đi, mắt nhìn, tai nghe, óc phân tích, nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào! Đối với Ru-xô, tự do là mực tiêu quan trọng hàng đầu. Suốt đời, ông đấu tranh chống lại chế độ phong kiến để đem lại quyền sống tự do cho mọi người.
Thuở nhỏ, Ru-xô không được học hành nên ông càng khát khao hiểu biết. Ông luôn nỗ lực tự học, Lập luận sắc sảo của ông không phải lí thuyết tiếp thu trong sách vở mà là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn cuộc sống muôn màu. Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi theo quy luật thời gian sẽ được hồi xuân, gương mặt tươi tắn, thân thể tràn đầy sức sống. Đi bộ ngao du là 1 liều thuốc bổ công hiệu, một loại tiên dược thần kì mà chẳng tốn tiền mua. Khi trình bày luận điểm thứ ba, nhà văn đứng ở một góc nhìn khách quan để quan sát và phân tích, so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ.
Trong thời đại văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn nhưng rốt cuộc, giá trị của thành tựu khoa học kĩ thuật cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, sức khỏe nhiều hơn. Ru-xô nhận xét về hai thái cực trái ngược nhau: Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả.
Đoạn văn được viết bằng một giọng điệu hân hoan dù đậm tính chủ quan nhưng vẫn được mọi người đồng tình. Những câu văn ngắn gióng như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thong thả, ung dung: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà I Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cài giường tồi tàn! Trong các chuyến đi bộ ngao du, điều kiện ăn ngủ tuy đơn sơ thiếu thốn nhưng những thú vui tình thần lành mạnh, bổ ích sẽ đem đến cho tâm hồn ta sự sảng khoái vô biên. Nếu cuộc đời được nối tiếp bằng những cuộc đi bộ ngạo du như thế thì chắc chắn ta sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường nên tránh được sự khoa trương ồn ào. Mục đích của đi bộ ngao du cũng có giới hạn, không thể áp dụng nó trong tất cả các loại hành trình: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết luận như thố là khéo léo, thiết thực. Trong tác phẩm, có những chỗ tác giả xưng ta và có những chỗ xưng tôi. Tác giả xưng ta khi lí luận chung và xưng tôi khi nói về cảm nhận của mình trước cuộc sống. Cũng có lúc những trải nghiệm riêng tư ấy lại được thể hiện dưới dậng kể chuyện về người học trò Ê-min, tuy rằng Ê-min chỉ là nhân vật do ông tưởng tượng ra mà thôi.
Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí luận trừu tượng và vốn sống thực tế của bản thân nên áng văn nghị luận này của Ru-xô không hề khô khan mà ngược lại rất sinh động, giàu sức thuyết phục. Ru-xô là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Bóng dáng của núi sông, đồng ruộng, hoa lá, cỏ cây hiện lên khá đậm nét trong bài Đi bộ ngao du, đó là nét đặc biệt làm cho bài văn nghị luận này trở nên nhẹ nhàng, tươi mát và đầy sức sống.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 2
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức “nói chơi”. Thiên phiếm luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho lợi ích của việc đi bộ. Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện của ván minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào (ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,…).
Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn ấy lại như 1 cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe 1 cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật. Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa. Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao?
Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra 1 chân lí bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ “ta” chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được “cởi trói” khỏi những ràng buộc với xung quanh. “Cái tôi” của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta “ưa”, ta muốn “nhiều ít thế nào thì tuỳ về hành động cũng tha hồ như thế. Nào “Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh”.
Câu văn, rồi cả đoạn vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chấp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn vướng cản để tha hồ “hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ”. Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp. Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý “Nếu tôi mệt…” đã lập tức có một “cái tôi” khác trả lời – trong quan hệ hô, ứng vang lên : “Nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu ; em to khoẻ ; và sao em có thể mệt được cơ chứ ?” Sự phân thân tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.
Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức 1 cách hổn nhiên ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du mà người ta tiếp cận – là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu lập của “các ngài tự nhiên học” đã đành, nó một trời một vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi “mọi vật đều ở đúng chỗ” như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.
Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ sung, một cồng đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề : “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ”. Câu văn tươi tắn như trạng thái cải lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa.
Đi bộ ngao du là 1 liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu? Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà vãn không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết so sánh hai hình thức ngao du : đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây là hai thái cực trái ngược nhau: “Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”.
Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất nhiều khả năng được chia sẻ, đổng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: “Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà ! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế ! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn ! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn”. Điều kiện ăn ngủ tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình: “Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm ; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ”. Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế.
Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra một con người có văn hoá. Ây là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi mắng đánh đập,… nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao?
Thêm nữa, bản thân việc đi bộ ngao du vừa có ý nghĩa khách quan của chính nó (không loại trừ một ai, ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào) vừa có ý nghĩa chú quan đối với từng con người cụ thể. Và như thế, lấy tiêu chí chủ quan mà xem xét vấn đề rõ ràng là khiên cưỡng, không nên. Ngoài vấn đề nêu trên, cách sử dụng đại từ nhân xưng là “ta” và “tôi” chẳng qua cũng chỉ là thay đổi cách xưng hô, làm cho diễn đạt thêm phần linh hoạt, sinh động bằng việc thay đổi cách nhìn. Vẫn chi là một “cái tôi” khi tách ra, lúc nhập lại với người đọc, người nghe như một người tri kỉ dồng hành. Văn nghị luận mà giống với kể chuyện, gần gũi với mọi người chính là vì thế.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 8
Đi bộ ngao du là một văn bản mang tính chất nghị luận, được trích trong tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục. Tác phẩm được coi là thiên luận văn – tiểu thuyết, nội dung đề cập đến việc giáo dục một em bé từ khi mới ra đời cho đến lúc lớn khôn. Đoạn trích Đi bộ ngao du (Ngữ văn 8 – Tập 2) đã chứng minh rất rõ muốn ngao du thì phải đi bộ. Đồng thời bằng thực tiễn cuộc sống mà tác giả đã từng trải, kết hợp với lý lẽ, hợp tình hợp lý, nhà văn đã làm nổi bật được lợi ích của việc đi bộ ngao du mà lại không hề tốn kém về vật chất. Đúng như lời nhận định Đi bộ ngao du là cái thú không mất tiền.
Đi bộ ngao du không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thanh thản cả đầu óc và tâm hồn. Mở đầu phần chính là một phát hiện bất ngờ, nghe như đùa nhưng lại là sự thật. Tôi chỉ quan niệm được 1 cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Bởi vì nhờ có đi bộ mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hàng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người vừa tìm ra 1 chân lý bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Đại từ ta”ở bài có ý chỉ chủ thể được tự do, tự do theo ý thích của mình, tự do hành động theo ý mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được cởi trói khỏi những ràng buộc với xung quanh.
Còn cái tôi của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng tha hồ mà bay nhảy. Này nhé: về ý thích, ta ưa, ta muốn nhiều hay ít thế nào là tùy, về hành động cũng tha hồ như thế, nào ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh. Đó là nhận thức. Nó cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chắp cánh bởi tự do. Cái duy nhất lúc mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không có gì còn vướng cản, để tha hồ hưởng thụ tất cả tự do mà con người có thể hưởng thụ. Cách lập luận của đoạn văn rất chặt chẽ, kết hợp cả hai cách trình bày vừa song hành vừa móc xích.
Song hành trong cách bộc lộ chủ thể tự do: Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy…. Móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp: Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi theo men sông, một khu rừng rậm ư, tôi đi vào dưới bóng cây…. Đưa ra những giả định Nếu tôi mệt… nhưng Ê-min có mệt lắm đâu; em to khỏe; và sao em có thể mệt được cơ chứ. Sự phân tích mình ra làm con người khác bằng cách hỏi và đáp (cũng chỉ là con người ấy) có tác dụng làm cho lời văn đa sắc thái và sinh động hơn, không đơn điệu, nghe nó như một tiếng reo thầm khi cần giãi bày, chia sẻ. Chính vì thế đoạn văn đã cuốn hút người đọc, người nghe.
Đi bộ ngao du không những giúp con người ta được tự do, thoải mái, không phụ thuộc vào ai, mà còn là cơ hội để cho con người trau dồi được tri thức 1 cách hồn nhiên. Ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường, thiên nhiên – qua cách đi bộ ngao du, mà người ta tiếp cận là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng, những kiến thức nông nghiệp về tự nhiên như những cơn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà con người khao khát. Một câu hỏi đặt ra học bằng cách nào? Không còn cách nào khác phải gần gùi thiên nhiên, hóa mình với thiên nhiên như Ta- lét, Pla-tông và Pi-ta-go, và khó có thể tin được rằng người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy?
Các cách học này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên sông động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng trưng trong các phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học đã đành, khác xa với các phòng sưu tập của những quí ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa. Bởi cái mà họ tưởng có đủ nhưng sự thật chỉ là một nửa của sự thật mà thôi! Cái sự thật của thiên nhiên phải là phòng sưu tập của Ê-min. Bởi nó là phòng sưu tập của trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều được đặt đúng chỗ của nó. Các nhà tự nhiên học đã thổi linh hồn vào cho nó.
Đi bộ ngao du còn là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Câu văn vừa chuyển ý vừa có sắc thái tươi tắn như. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại, tâm trạng u buồn nay trở nên vui vẻ. Đi bộ ngao du còn là 1 liều thuốc bổ, một loại tiên dược diệu kỳ mà nào có tốn kém gì đâu? Để so sánh được hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ nhà văn không đặt mình vào trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn quan sát rất khách quan: Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra?
Tiếp theo, bằng giọng điệu hân hoan, dù có chủ quan, nó có rất nhiều khả năng chia sẻ và đồng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia thật đều đặn, thanh thản, cởi mở và tươi tắn: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà. Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành đến thế. Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn. Một loạt các câu cảm thán với các điệp từ biết bao đã đẩy lùi sự thiếu thốn của vật chất, nhường chỗ cho những khoan khoái tự thân ở cơ thể và tâm hồn mà các cuộc đi bộ ngao du mang lại. Như vậy ta có thể khẳng định rằng: Đi bộ ngao du là thế giới của trẻ mãi không già.
Cuối cùng bài văn khép lại: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết như vậy là khéo, là thiết thực, là vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không hơn và cũng không kém như thế. Phải chăng đó là một ý tưởng khiêm nhường trước sự khoa trương, ồn ào theo kiểu quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có chừng mục của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình.
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận y dưới hình thức nói chơi. Tuy đùa mà không vô bổ. Bài viết đã chứng minh cho ích lợi của việc đi bộ ngao du: là cách mà con người được giải phóng tự do; là cách giúp cho con người trau dồi tri thức 1 cách hồn nhiên và đó là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe mà không cần phải chi phí gì tốn kém. Đó chẳng phải là cái thú không mất tiền sao?.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 5
Em vẫn hay tự hỏi rằng, vì sao thấy vì buổi sáng người ta không dành thêm thời gian cho giấc ngủ của mình mà lại chọn cách dậy thật sớm để đi bộ. Và cho đến khi đọc những trang văn của Ru-xô , một nhà triết học người Pháp, em mới thấm thía hơn vai trò của việc đi bộ đối với đời sống mỗi người qua tác phẩm ” Đi bộ ngao du”.
Theo Ru -xô, việc đi bộ là việc vô cùng thiết yếu với nhiều tác dụng và mang lại lợi ích lớn. Thứ nhất, đi bộ như là 1 cách để ngao du mà không bị ràng buộc bởi ai hay bất kì thứ gì khác. Đi bộ giúp ta tự do hơn trên cuộc hành trình của chính mình, muốn nghỉ ngơi hay dừng chân ở chốn nào cũng được. Khi đi bộ cơ thể sẽ trở nên linh hoạt hơn, không bị giới hạn bởi điều gì cả, có thể quan sát được khắp mọi nơi, nhìn mọi vật 1 cách toàn diện.
Đặc biệt, khi đi bộ giúp con người hưởng thụ mọi điều, được giải trí mọi lúc mà chẳng biết mệt mỏi hay chán nản, mọi nơi đều có những nét thú vị riêng ,một sức hút riêng thôi thúc sự tìm tòi :”Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi men theo sông; một khi rừng ư, tôi đi vào dưới bóng cây; một hang động ư, tôi đến thăm quan, một mỏ đá ư, tôi xem xét một khoáng sản….Em vào nhà một người thợ, em làm việc; em vận động hai cánh tay để cho bàn chân nghỉ ngơi”. Đi bộ như một sự rong chơi thoải mái nhất , đầy thú vị và tiện ích nhất, không một môn thể thao nào có thể thay thế được.
Thứ hai, đi bộ chính là cách giúp mở mang vốn trí thức, tầm hiểu biết của con người. Tác giả khẳng định: “Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go” tức là việc đi bộ không chỉ để ngao du mà phải mang lại cho ta tri thức phong phú, dồi dào hơn, gắn với tự nhiên và thực tiễn hơn. Không có nhà khoa học nào mà không đi bộ như 1 cách quan sát tỉ mỉ, khám phá bản chất của hiện tượng, của sự vật trong thiên nhiên. “Ai là người yêu mến nông nghiệp…không tìm các nguyên liệu hoá thạch”.
Những hiểu biết về nông nghiệp, khoáng sản, cây trồng, hoa lá… đều thông qua đi bộ để tìm hiểu, sưu tập.
Đi bộ là cuộc hành trình giúp ta chiếm lĩnh vốn trí thức đầy thú vị và mới lạ, là cách để khám phá tự nhiên vô cùng hữu hiệu, xác thực. Khác với các triết gia phòng khách với những hiểu biết hời hợt, qua loa trên lý thuyết, thiếu ý niệm về tự nhiên thì kẻ đi bộ sẽ đào sâu vào thực tiễn nhất, khám phá những tầng sâu bản chất nhất của sự vật, bởi vậy mà ông tin rằng phòng sưu tập của Ê-min chính là một trái đất mà mọi vật đều được sắp xếp hợp lý nhất.
Thứ ba, điều thiết yếu nhất là đi bộ mang lại cho con người sức khoẻ- nhân tố vô cùng quan trọng trong sự sống con người. Đồng thời, nó giúp tinh thần trở nên phấn chấn và vui vẻ vô cùng mà không một phương tiện nào có thể mang lại được. Khác xa với vẻ cáu kỉnh, buồn bã cô đơn của những kẻ quyền cao ngồi trong xe ngựa êm kia thì đi bộ giúp cho con người thư giãn, bữa cơm ngon lành hơn, giấc ngủ ngon và sâu hơn. Tất thảy, nó giúp ta rất nhiều trong rèn luyện sức khoẻ và nuôi dưỡng tinh thần thoải mái mỗi ngày.
Ru- xô bằng ngòi bút và tư duy, kinh nghiệm của mình đã đưa ra những quan điểm đúng đắn với lập luận chặt chẽ, những hình ảnh dẫn chứng vô cùng sinh động, thuyết phục và gắn với thực tế cuộc sống, giọng điệu tự nhiên,gần gũi đã cho thấy được điều thiết yếu của việc đi bộ ngao du. Học xong bài học, ta thấy một tâm hồn yêu tự do và khao khát khám phá tự nhiên của tác giả.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đi bộ ngao du” số 1
Ru-xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong các những tác phẩm nổi tiếng của ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm “Ê- min hay về giáo dục”. Cuốn tiểu thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là “Đi bộ ngao du”.
Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru-xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: ” Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.
Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: ” Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….” . Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….”
Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có thể dùng ngựa: ” Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa” tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục chuyến hành trình của mình: “…Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi”.
Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru-xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm, học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm.
Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập : “Nhưng phòng sưu tập của Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy…”
Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể được cải thiện: ” sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ”, hòa mình vào trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa.
Như vậy, đoạn trích “Đi bộ ngao du” của nhà văn Ru-xô đã đưa ra những luận điểm chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích này ta cũng thấy được Ru-xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.
Có thể bạn thích: