Nguyễn Duy là nhà thơ có nhiều tác phẩm đặc sắc trong chương trình văn học phổ thông. Phong cách thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng trữ tình với chất thế sự đậm đặc. Ông đã góp phần làm mới thể lục bát bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại. Bài thơ “Đò Lèn” được sáng tác năm 1983 trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với hồi ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu. Nhà thơ bày tỏ tấm lòng yêu quý, kính trọng rất mực của người cháu đối với người bà đã mất. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 8
Nguyễn Duy là một cây bút tài hoa, đã từng có những bài thơ nằm lòng nhiều thế hệ như “Tre Việt Nam”; mặc dù đến nay tác giả tuyên bố “Gác bút” nhưng những gì ông để lại cho Văn học Việt Nam vẫn rất mới và ấn tượng. Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài thơ “Đò Lèn” của ông với hơi thơ mộc mạc, phảng phất chất dân gian truyền cảm, màn độc thoại hoài niệm của nhà thơ về bến cũ đã mê hoặc những ai đọc nó.
Viết về người bà cùng những kí ức tuổi thơ, gắn liền với địa danh, thân thiết của quê hương, trong niềm thương tiếc, ân hận, xót xa muộn màng của người cháu nay đã trưởng thành. Bài thơ không chỉ bộc lộ tình yêu quê hương đất nước, yêu những người thân mà đặc biệt còn mang lại giá trị thức tỉnh rất nhân bản.
Tuổi thơ và hồi ức dường như là một niềm xúc cảm đau đáu trong thơ Nguyễn Duy. Trong bài thơ “ánh trăng” ngày chiến thắng trở về thành thị, nhanh chóng thích nghi với cuộc sống đầy đủ tiện nghi vô tình lãng quên quá khứ gian khổ và nghĩa tình như một hình ảnh, một khoảnh khắc bất chợt của ánh trăng soi sáng khi thành phố mất điện đã bật thức trong anh bao nỗi niềm, bắt đầu là kí ức trong veo của đứa trẻ đồng quê lớn lên với thiên nhiên phóng khoáng và tiếc lại niềm xám hối chân thành còn quá khứ.
Còn ở đây kí ức của 1 thời tuổi nhỏ được tái hiện qua một anh bộ đội khi đã trưởng thành, nghĩ về người bà đã mất của mình, tuổi nhỏ ấy được tái hiện chân thật và xúc động bởi nó chạm đến hồi ức và quan niệm 1 thời của hầu như hết thảy mọi người. lòng yêu thương những người ruột thịt bao giờ cũng là thước đo quan trọng nhất cho lòng nhân ái của con người.
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Kí ức hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ, rất sống động, rưng rưng cảm xúc, vừa riêng tư, vừa gần gũi với mọi người. một cậu bé sống ở làng quê, cuộc sống ấy nhiều mơ mộng và bình yên qua cảm nhận của cậu nhưng nó lại rất giản dị và đẹp đẽ. Cậu say mê những trò chơi con trẻ: bắt chim, níu váy bà đi chợ, trốn tìm, chỉ với 4 câu thơ nhỏ mà đong đầy kỉ niệm của 1 thời hồn nhiên, tinh nghịch và ngây thơ.
Hình ảnh cậu bé quê vừa có nét gì rất riêng trong hoàn cảnh của nhà thơ vừa khiến người đọc thương mến bởi sự hồn nhiên, ngồ ngộ của cậu bé, đặc biệt câu mê nhân vật thánh thần như chơi đền cây thị,…ấn tượng sâu đậm nhất của cậu là hương trầm, hương huệ.
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.”
Những địa danh được nhắc tới trong bài thơ: “Đò Lèn, đồng Quan, chè xanh Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao”. Tưởng chỉ là phép liệt kê đối kháng giản những miền đất quê hương Thanh Hóa nhưng nhà thơ đã thổi hồn cho nó, khiến hình ảnh thân thương của quê hương hiện lên mang theo biết bao tình quê và hoài niệm, “đi vào cái nhỏ nhoi đời thường mà mang lại cái cao quý”. Kí ức chính là một điều kiện để thấu hiểu và gắn bó, các địa danh được nhắc tới với mật độ dày đặc, nơi nào cũng in dấu những kí ức của tuổi thơ.
Kí ức cũng mang hình bóng người bà đó chính là sợi dây nối quá khứ với hiện, nối những con người hôm nay với những người đã khuất, nối cả cá nhân với cội rễ. Có thể nói đó là sự gợi nhắc nhỏ nhẹ và thấm thía. Trong cảm hứng về cội nguồn, trong nỗi niềm thương nhớ thì có thể nói đây chính là nét đẹp trong cảm xúc thơ Nguyễn Duy:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.
Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”
Dù nói về đề tài gì trong cách nhìn mới mẻ của nhà thơ về chính mình là sự hồn nhiên, chân thật, không thi vị hóa hay tô hồng cuộc sống, chính hình đó đã làm cho hình ảnh thơ rất đỗi gần gũi và tạo nhiều xúc động trong lòng bạn đọc.
Trong vô vàn những kí ức tuổi thơ thì hình ảnh đọng lại với rất nhiều những nỗi niềm, đó là cuộc đời lam lũ, tần tảo, âm thầm với muôn nghìn vất vả để nuôi dạy đứa cháu hiếu động, nghịch ngợm, ta cũng không thấy gì lạ về những người mẹ, người bà Việt Nam như thế nhưng đi vào thơ Nguyễn Duy lại xúc động lòng người và có sức ám ảnh đến vậy, bởi tính chân thực của đời sống và cái nhìn trìu mến, pha chút xót xa, hối hận của người cháu khi đã trưởng thành. Cuộc đời thực của bà được nhà thơ gửi lại trong bài thơ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 4
Những kí ức về tuổi thơ và tình cảm gia đình luôn là những cảm xúc cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Duy, những xúc cảm này cũng được thể hiện rõ nét trong những tác phẩm thơ văn của nhà thơ sau này. Đò lèn là một trong các những tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của NGuyễn Duy, bài thơ là những kí ức bên người bà hiền từ, giàu yêu thương.
Nguyễn Duy sớm mồ côi mẹ từ nhỏ nên những năm tháng tuổi thơ lớn lên bên bà đã trở thành những miền kí ức đặc biệt luôn da diết, khắc khoải trong tâm hồn nhà thơ. Viết về những kỉ niệm bên bà cùng những tình cảm gắn bó thiêng liêng, bài thơ Đò Lèn chính là tâm sự, tình cảm chân thực nhất của nhà thơ muốn gửi gắm đến người bà của mình. Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Duy đã mở ra những kí ước tuổi thơ bên bà:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Những câu thơ giản dị mà đầy gần gũi của Nguyễn Duy như đưa mỗi độc giả trở về với tuổi thơ của chính mình, bởi nó quá đỗi thân thuộc mà bất cứ ai cũng đã từng trải qua. Do đó mà câu thơ tuy giản dị nhưng lại có thể gây ra những xúc động lớn lao đến vậy cho người đọc. Tuổi thơ bên bà của Nguyễn Duy cũng bình dị như bất cứ đứa trẻ vùng quê nào khác, đó là những lúc bắt cá, theo bà đi chợ hay bắt sẻ chim….
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần”
Trong dòng kí ức về tuổi thơ, có lẽ đọng lại sâu đậm nhất, da diết nhất của Nguyễn Duy chính là những kỉ niệm về người bà. Cùng với những trò chơi tuổi thơ, Nguyễn Duy còn nhớ như in những lúc theo bà lên đền Sòng hay khi nghe cô đồng hát, cảm nhận mùi thơm của hoa huệ cùng với khói trầm. Trong những câu chuyện bà kể, tác giả đã hình dung về người bà hiền hậu của mình như Tiên, như Phật. Qua câu thơ người đọc cũng cảm nhận được tình cảm yêu thương cũng như sự trân trọng của tác giả đối với người bà của mình.
“Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất
Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi bán trứng ở ga Lèn”
Xa bố mẹ từ nhỏ, bà chính là người thân duy nhất bên tác giả, bà không chỉ đóng vai trò của người cha mà còn gánh vác vai trò của một người mẹ, người bà. Cuộc sống cơ cực nhưng bà không lúc nào thôi quan tâm chăm sóc đến đứa cháu nhỏ. Trong cái dữ dội của chiến tranh, bom đạn không chỉ phá hoại quê hương mà còn mang đến những ám ảnh tuổi thơ đầy khốc liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Thánh thần rủ nhau đi đâu hết” sự cảm nhận mơ hồ của nhà thơ lúc bấy giờ lại gợi ra sự xót xa vì khung cảnh thần tiên với cuộc sống hạnh phúc trong những câu chuyện cổ tích dường như đã bị vùi dập bởi chính thực tế quá đỗi phũ phàng. Khi đã trưởng thành, đi lính, gánh trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, quê hương nhưng trong tâm hồn người cháu ấy vẫn không thôi nhớ về bà:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
Dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Bà đã ra đi và mang theo tất cả những kí ước tuổi thơ tươi đẹp nhất của người cháu, để khi đã trở thành người lính tình yêu của bà đã trở thành sức mạnh của cháu để cháu cầm súng chiến đấu bảo vệ những gì đẹp đẽ nhất của đất nước, quê hương. Có lẽ đây cũng chính là sự tiếp nối sự sống ý nghĩa nhất.
Đò Lèn của Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc tình cảm của người cháu dành cho bà, đồng thời qua đó hồi ức của nhà thơ cũng đưa chính người đọc về với tuổi thơ của mình để ta nhận ra những giá trị đích thực của cuộc đời, để biết yêu thương và trân trọng hơn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 5
Bên cạnh sự thành công của các tác phẩm như: “Cát trắng”, “Ánh trăng”, “Đãi cát tìm vàng”,.. thì bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy cũng đã để lại trong bạn đọc những ấn tượng sâu sắc. Bài thơ này được ông viết năm 1983, trong một dịp trở về quê hương, sống với những hồi ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu.
Nhắc đến tuổi thơ là nhắc đến những hình ảnh đẹp đẽ, yên bình nhưng Nguyễn Duy lại nhắc về tuổi thơ của mình với những kỉ niệm trong thời chiến tranh loạn lạc:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.”
Tuổi thơ của tác giả là những lần đi câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ, đi ăn trộm nhãn. Không chỉ có vậy, trong tuổi thơ ấy tác giả còn được theo bà lên đền Cây Thị, đi xem lễ đền Sòng, đi nghe điệu hát văn của cô đồng. Chúng ta có thể nhận thấy đây là một cậu bé tinh nghịch, vô tư, hồn nhiên và rất hiếu động. Những kí ức tuổi thơ của cậu không gắn với bè bạn, những đứa trẻ đồng trang lứa mà lại gắn bó mật thiết với người bà ngoại.
Nhờ có bà mà người cháu biết được những nơi chốn, địa điểm tâm linh của con người và đời sống tinh thần của họ vô cùng phong phú. Bà và cháu gắn bó với nhau thật khăng khít bởi cậu bé ấy luôn đi theo bà dù là đi chợ hay đi lên đền, lên chùa. Chính vì vô tư như vậy nên khi tác giả nhận ra sự lam lũ của bà cũng là lúc bản thân day dứt trong niềm ân hận:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.”
Tuổi thơ ham chơi nên cậu đã không nhận ra được bà đã phải vất vả, tần tảo như thế nào vì cuộc sống mưu sinh. Hết đi mò cua xúc tép bà lại đi gánh chè, bán trứng. Bà đã gánh thêm cả trách nhiệm của người cha, người mẹ để nuôi cậu khôn lớn. Đến đây, tác giả không còn gợi nhắc đến những trò chơi của tuổi thơ nữa mà thay vào đó là hình ảnh kiên cường, sự hi sinh của người bà.
“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
Tình yêu thương của bà thật giống với tiên, Phật, thánh thần, cả luôn hi sinh, chịu những vất vả, cực nhọc để nuôi dưỡng cháu trưởng thành. Dù có gặp phải bao nhiêu khó khăn thì bà vẫn cam chịu, không lùi bước. Sự kham khổ trong những năm đói phải ăn củ dong riềng luộc sượng nhưng tác giả vẫn nghe thấy đâu đây mùi thơm của huệ trắng, hương trầm. Phải chăng mùi hương ấy là sự ám ảnh của quá khứ, của những ngày cậu đi theo bà lên đền Sòng, đền Cây Thị? Người bà đã chịu nhiều khổ cực nay lại phải kiên cường chống lại sự kịch liệt của cuộc chiến tranh phi nghĩa:
“Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.”
Cuộc sống cơ cực là thế, nhà bà bị bom Mĩ giội bay mất, những nơi linh thiêng phục vụ đời sống tinh thần con người nói chung và của bà nói riêng như chùa chiền cũng bay. Người bà lại một mình bươn trải với cuộc sống bằng nghề bán trứng. Còn gì vất vả hơn những gian khổ bà trải qua? Đạn bom không hủy diệt đi sức sống của bà mà nó khiến cho bà càng trở nên kiên cường, mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ ấy chính là sự mạnh lẽ của những con người anh hùng, vĩ đại. Thời gian thoăn thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc cậu bé năm nào đã trưởng thành:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.”
Tác giả xót xa, ân hận vì cho đến tận khi trưởng thành mới thấu hiểu được nỗi cơ cực, sự hi sinh của bà. Khi người cháu muốn báo ơn thì người bà đã không còn nữa. Khổ thơ là sự đau đớn, giằng xé đến ngậm ngùi vì mất đi một người thân yêu, gần gũi nhất. Khi người cháu đi lính trở về, muốn được nhìn thấy, báo đáp công ơn của bà thì “bà chỉ còn một nấm cỏ thôi”, niềm xúc động đã vỡ òa bật thành tiếng khóc nức nở. Có ai không động lòng xúc động, không nghẹn ngào tiếng nấc trước cảnh tượng đó. Sự ân hận đã trở nên muộn màng, day dứt tâm can tác giả.
Bằng giọng điệu chân thành, sâu sắc và sự thành công khi sử dụng phép đối giữa hai bờ hư – thực, giữa bà ngoại với tiên, Phật, thánh, thần và giữa sự hiếu động, vô tư của người cháu với những cơ cực, hi sinh của người bà đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm. Nguyễn Duy không cần mượn một hình ảnh biểu tượng nào thể hiện tình cảm với người bà mà ông đã trực tiếp biểu lộ tình cảm ấy qua hình ảnh người bà lam lũ, tần tảo. Chính điều đó đã để lại những dư âm vang vọng trong lòng độc giả.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 1
Nguyễn Duy là một nhà thơ có nhiều đóng góp trong nền thơ ca Việt Nam, bản thân tác giả là một người sớm mồ côi cha mẹ nên cảm xúc của ông về tuổi thơ của mình thật gần gũi và nó gắn bó trong quãng đời của ông, chính vì vậy những cảm xúc đó đã tạo cho ông những nguồn cảm hứng để sáng tác lên bài Đò Lèn.
Trong một lần về thăm lại quê hương những cảm xúc của quê hương lại vọng lại trong kí ức của tác giả, ông nhớ lại những kí ức xưa bên bếp lửa và những hình ảnh khác khi sống bên người bà của mình, những hình ảnh đó hiện lên trong con người của tác giả có lúc vui có lúc buồn nó đan xen và tạo nên những cung bậc đan xen và thầm kín sâu lắng.
Mở đầu bài thơ tác giả đã nói về nỗi nhớ thương trong tâm hồn của tác giả và hình ảnh đó đã tạo nên những nỗi nhớ da diết và dâng trào trong trái tim của tác giả, hình ảnh ấy đã đọng lại trong tim tác giả 1 cách sâu sắc, hình ảnh trong những dòng thơ đầu thì cậu bé Duy là một người tinh nghịch, với những trò chơi dân gian phổ biến. Lúc thì đi bắt cá lúc thì đi bắt chim sẻ, những hình ảnh đó hiện lên thật sinh động trong con người của tác giả bởi hình ảnh đó hiện lên thật sinh động và ý nghĩa, niềm vui của tác giả về kí ức tuổi thơ khi được chơi những trò chơi đó.
Trong kí ức về tuổi thơ có những hình ảnh về những mùi hoa huệ thơm ngào ngạt hòa vào cùng mùi hương bay thấp thoáng trong khoảng không gian ở chùa Trần, tác giả đã nói lên những nỗi nhớ về khoảng thời gian đã qua của mình, giờ đây khi tác giả hồi ức lại thì đó chỉ còn là những nỗi nhớ thương, và xen vào các hình ảnh khác đó là một hình ảnh lắng động nhiều cảm xúc và những nỗi nhớ miên man trong tình yêu tuổi thơ của mình:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Hình ảnh đó đã đan xen trong tâm hồn của tác giả sinh động và thật ngộ nghĩnh nó đang bao trùm lên một khoảng không gian vô tận và cuốn hút vào những thú vui của dân gian bằng những câu chuyện hay. Và nó đem lại cho tác giả nhiều cảm xúc và những hương vị ngọt ngào về một tuổi thơ của mình.
Các hình ảnh khác cũng được hiện lên đó là những khoảng không gian thanh bình yên tĩnh nơi tác giả đã từng sống, niềm vui của tác giả là được hòa nhập và tạo nên những nỗi nhớ thương trong tâm hồn của tác giả. Những nỗi nhớ và hoài niệm đó đã làm cho tác giả nhớ mong và hồi ức lại kí ức tuổi thơ của mình. Toàn bộ những hình ảnh và kí ức của tuổi thơ đã được tác giả miêu tả lại để qua đó nói lên những nhịp điệu nhẹ nhàng và vô cùng tha thiết.
Nó làm cho mỗi chúng ta đều cảm thấy nhớ thương trong kí ức của mình, hình ảnh về một con người tuổi thơ đã tràn ngập trong tâm trí của tác giả. Hàng loạt các hình ảnh khác cũng vô cùng thiêng liêng đã gắn bó với tác giả, sớm mồ côi cha mẹ nên tác giả phải ở cùng với bà ngoại. Hình ảnh gắn bó với người bà cũng đã hiện lên trong kí ức của tác giả:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Những hình ảnh trong kí ức của tác giả về người bà của mình đó là một người bà tần tảo chịu thương chịu khó, cả cuộc đời của bà lam lũ vất vả để kiếm tiền nuôi cháu. Dù cuộc sống của hai bà cháu vô cùng cực khổ vất vả nhưng người bà này vẫn lam lũ để có thể nuôi nấng người cháu của mình, hình ảnh ấy đã thấm đẫm trong tinh thần của người bà.
Trong những ngày gió rét bà vẫn thập thững những bước đi để kiếm tiền nuôi cháu, có khi mò cua bắt cá nuôi cháu từng ngày. Kí ức về người bà làm cho tác giả nhớ tới những kỉ niệm của hai bà cháu, tác giả mong ước và đang hồi ức lại những thời gian bên bà, hình ảnh về người bà của mình đang lam lũ vất cả từng ngày để kiếm sống nó đã làm cho tác giả có những cái nhìn sâu sắc hơn về chính cuộc đời của bà mình.
Nhiều những chi tiết đã được thể hiện sâu sắc qua bài viết qua đó nó thể hiện những nỗi nhớ thương và bao cung bậc cảm xúc dâng trào trong tâm hồn của tác giả, tác giả đang nhớ mong và có hồi ức đẹp về người bà của mình, sự tần tảo đó làm giờ đây khi tác giả nhớ thương lại tác giả có những cảm hứng về những niềm tin và mong ước được đền đáp công ơn nuôi nấng về người bà của mình.
Trong những kí ức đẹp đấy tác giả đang nhớ mong và da diết trong tình cảm của mình đối với người bà, tác giả nhớ thương lại từ những hình ảnh thân thuộc và nó gần gũi trong tâm hồn của con người dường như tác giả đang cố nhớ lại những kí ức đó bởi kí ức đó thật đẹp.
Và nó tạo nên nhiều ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của con người, nhiều hình ảnh đẹp gợi cảm và vô cùng mạnh mẽ nó đã thu hút nhiều sự chú ý và cũng vô cùng sâu sắc của tác giả. Tác giả đang tạo nên những cung bậc khác nhạt nhòa và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong tâm hồn tác giả. Vượt qua bao khó khăn và thử thách gian lao của cuộc sống người bà vẫn lặng lẽ và hy sinh cuộc đời của mình cho người cháu để làm nên những điều thật diệu kì.
Tác giả đã hình dung nhiều hình ảnh khác cũng sinh động và hấp dẫn hơn, nó mang đậm nét những yếu tố diệu kì và cũng mang đậm những nét tiêu biểu cho những thế hệ khác:
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Cảm xúc của nhà thơ đã được thể hiện chân thực và nó mang những dấu ấn trong tâm hồn của tác giả, ông dường như đang nói về những kí ức đó để hồi ức và nhớ thương có chút tiếc nuối về quãng thời gian đã qua của mình, hình ảnh xảy ra đã mang nhiều tiếc nuối trong tâm hồn của tác giả. Ông đang rung động và có những nỗi nhớ thương sâu sắc về kí ức tuổi thơ của mình, 1 loạt những hình ảnh khác cũng sinh động và vô cùng hấp dẫn nó tạo nên những cung bậc riêng và giàu cảm xúc trong lòng tác giả.
Một trong những nỗi nhớ thương thầm kín và sâu sắc đó là nỗi nhớ về một quãng thời gian đã qua chúng ta không ai không từng có kí ức tuổi thơ. Vậy mà tác giả đã vẽ lại để mỗi chúng ta có những khoảng thời gian riêng để nghĩ về những kí ức và nhiều kỉ niệm vui đến vậy. Hình ảnh về người bà và 1 loạt những hình ảnh gắn với tuổi thơ của tác giả đã được tác giả thể hiện nó 1 cách cụ thể và sinh động hơn nó đã mang đậm và có những dấu ấn mạnh mẽ trong tâm hồn của tác giả, những nỗi nhớ mong đó đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi người.
Những lời sám hối và tiếc nuối về những khoảng thời gian đã qua đã được thể hiện sâu sắc trong tâm hồn của tác giả. Ông dường như đang tiếc nuối về những khoảng thời gian đã qua, nhiều hình ảnh khác cũng thể hiện được điều đó, những hình ảnh sinh động và 1 loạt những chi tiết gợi hình gợi cảm đã được thể hiện sâu sắc trong bài thơ. Mỗi chúng ta đều có quyền tự hào về kí ức của mình, nhưng chúng ta chắc hẳn cũng có những phút tiếc nuối về những gì đã qua đi.
Những điều tác giả đã tiếc nuối trong khổ thơ này đó là những gì đã qua mà tác giả không làm được hình ảnh của những kí ức tuổi thơ đã vang vọng trong tâm hồn của người 1 cách mạnh mẽ nó đang cuốn hút và tạo nên nhiều khoảng không gian riêng và bao trùm sâu lắng lên tâm hồn của người.
Những kí ức đó tác giả đang tiếc nuối vì chưa có cơ hội báo đáp công ơn nuôi dưỡng của bà, hình ảnh đó thể hiện những nhớ thương, khi giờ đây bà chỉ còn là nấm mồ tác giả đau xót và sám hối về lương tâm của mình, tác giả muốn nhắn nhủ chúng ta hãy sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc ở phút giây hiện tại và sống với hiện thực và đó là những điều mà khi qua đi chúng ta không thấy tiếc nuối nữa.
Tình bà cháu đã thể hiện sâu sắc trong tác phẩm này đó là những lời ngọt ngào và sâu lắng từ trong trái tim của tác giả.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 6
Nguyễn Duy là một trong các những nhà thơ rất trẻ của nền văn học Việt Nam. Ngay từ khi còn là học sinh phổ thông, Duy đã đoạt giải Nhất cuộc tho thơ báo Văn nghệ. Thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trưc tình với chất thế sự đậm đặc, nhiều bài là tiếng nói khảng khái, bộc trực đầy ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm và mang tinh thần công dân sâu sắc.
Ông là một trong các số không nhiều cây bút hiện nay đã góp phần làm mới thể thơ lục bát bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại, tạo nên nét độc đáo hấp dẫn. Viết về quê hương và tuổi thơ, Nguyễn Duy đã có một tác phẩm chiếm rất nhiều cảm xúc của người đọc: Đò Lèn.
Bài thơ được sáng tác năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương sống với những kỉ niệm thân quen có nhiều buồn vui của thời thơ ấu. Trong miền ký ức ấy, Nguyễn Duy không thể nào quên được những trò chơi nghịch ngợm khi còn là một đứa trẻ con:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.
Không cần dùng ngôn từ hoa mĩ, tráng lệ, cũng chẳng có chút cầu kì, những kỉ niệm của 1 thời thơ ấu cứ thế tràn về trên trang thơ của nhà thơ. Chắc hẳn lúc này trong lòng Nguyễn Duy đang bồi hồi lắm, xao xuyến lắm. Ông để cái tôi trực tiếp của mình trong từng câu thơ. Ông muốn tự mình bộc bạch hết tất cả những cảm xúc đang dâng trào trong trái tim. Những kỉ niệm ấy rất đối kháng sơ, rất chân thành và mộc mạc, mang đậm chất quê hương của vùng nông thôn Việt Nam.
Thuở bé ai đã từng lúi húi trốn đi trong những buổi trưa hè í ới gọi nhau đi câu cá, ai từng bám váy bà đi chợ rồi nằng nặc đòi bà mua cho cái bỏng, cái kẹo, ai đã từng chèo vắt vẻo trên cành cây sấu cây nhãn bắt tổ chim… Những kỷ niệm hết sức thân thương và quen thuộc,gợi lại cho người đọc những cảm giác miên man và như đang được sống lại thời thơ ấu của chính mình.
Bởi trong những kỉ niệm mà Nguyễn Duy kể ra ở đây, cũng có nhiều người đã từng trải qua 1 thời như thế – ngây dại và hồn nhiên. Bởi thế, tôi đâu biết rằng những gì mà bà đang phải gánh chịu mỗi ngày:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Bà của Nguyễn Duy xuất hiện như từ trong câu chuyện cổ tích bước ra. Bà hiền từ, bà giàu tình yêu thương vô bờ bến. Bà mò cua xúc tép, bà gánh chè xanh đi bán, cả trong những đêm hàn bà vẫn thập thững bước đi. Dáng dấp bé nhỏ nhưng trái tim bà lớn lao đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Bà không những làm cha mà còn làm mẹ nuôi nấng Nguyễn Duy nên người. Để khi lớn khôn rồi, Nguyễn Duy nhớ về bà mà day dứt khôn nguôi. Và cứ thế, những kỉ niệm lần lượt hiện về trong tâm trí nhà thơ.
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
Giữ bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
Cái năm đói, củ dong giềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm
Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bat tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.
Càng nhớ, cảm xúc của nhà thơ càng dâng trào. Giữa hiện thực nhưng ông thấy mình như đang chìm trong ký ức – nơi có người bà dấu yêu, có những cuộc chơi bời nghịch ngợm và quên mất những nỗi vất vả bà đang gồng gánh trên vai. Thế rồi, nạn đói hoành hành, Nguyễn Duy nhớ lại củ dong giềng luộc sượng nhưng vẫn mùi thơm huệ trắng, trầm hương.
Lại thêm vào đó nỗi đau mất nhà mất nước khi bom Mĩ giội. Giữa những trận mưa bom bão đạn, hình ảnh người bà già nua, bé nhỏ lại xuất hiện với vai trò là người đi bán trứng ở ga Lèn. Vì cuộc sống mưu sinh, vì thằng cháu nhỏ ngây dại, một mình bà chịu đựng hi sinh nắng mưa dãi dầu chỉ mong con khôn lớn từng ngày. Và rồi, những hi sinh của bà cũng đến ngày được báo đáp khi:
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
Tôi lên đường chống lại bọn giặc ngoại xâm đã làm cho bà và bao mảnh đời cơ cực khác phải khổ. Suốt 1 thời thơ ấu đằng đẵng, khi tôi đang vui đùa nghịch ngợm lại là khi bà vất vả sớm hôm. Đến giờ phút này khi nhận ra tất cả, lại lúc lúc bà đã đi xa. Nguyễn Duy chỉ còn biết ngậm ngùi gửi nước mắt vào trang thơ:
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm mồ thôi.
Nguyễn Duy cũng thôi không nhắc tới những ký ức tuổi thơ nữa. Bài thơ khép lại với hình ảnh nấm mồ của người bà kính yêu. Cả 1 cuộc đời bà đã vất vả gian lao, hi sinh hết mình, thương con thương cháu hết lòng. Bà chẳng ngại những sớm hôm mò cua xúc tép, những ngày đông băng giá thập thững gánh chè đi bán hàng rong. Từ thập thững nghe sao đầy day dứt và thương cảm mà tác giả muốn dành cho người bà trong ký ức. Nay bà đã đi xa rổi và tôi cũng khôn lớn rồi, đã trở thành một người lính can đảm, sẵn sàng chiến đấu. Hi vọng bà ở nơi xa kia có thể yên lòng nhắm mắt.
Nguyễn Duy đã mang đến cho người đọc những vần thơ hết sức chân thật, giản dị và đầy cảm xúc về miền ký ức ngọt ngào nhưng cũng lắm gian truân của mình với hình ảnh người bà đáng kính, đáng mến. Tác giả không dùng bất kỳ một biện pháp nghệ thuật nào, tất cả đều hiện lên rất chân thật, rất tự nhiên. Đó cũng là tấm lòng của tác giả muốn dành cho người bà kính yêu của mình suốt một đời vất vả hi sinh.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 2
Nguyễn Duy viết bài thơ “Đò Lèn” vào tháng 9 năm 1983, in trong tập thơ “Ánh trăng”, xuất bản năm 1984. Bài thơ có hai câu thơ bảy tiếng, một câu thơ chín tiếng, còn lại 32 câu thơ tám tiếng.
Các dòng thơ nối tiếp xuất hiện như giọng kể tâm tình. Các địa danh thân thuộc của quê hương thân yêu từng gắn bó với tâm hồn của tác giả thời thơ bé, từng in dấu chân, hơi thở, nhịp sống của bà được nhắc lại xiết bao nỗi ân tình: Đò Lèn, cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Ba Trại,…
Hình ảnh người bà nghèo khổ, tần tảo, đôn hậu… được tái hiện trong những vần thơ bình dị có một sức ám ảnh và cuốn hút kì lạ. Nguyễn Duy mồ côi mẹ, sống trong sự chăm chút yêu thương của bà ngoại, nên lời thơ mới chân thực và cảm động như vậy. Càng về cuối, giọng thơ càng bùi ngùi nhớ thương bà.
Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ của một chú bé nhà nghèo, thích chơi bời lêu lổng, nghịch ngợm… chẳng kém ai: đi câu cá ở cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, đi bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, cũng có “đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”. Có những câu thơ giản dị, bình dị như lời nói mà gợi lên nhiều rung động về cái hồn nhiên, ngộ nghĩnh của một cậu bé nơi làng quê trước đây:
“níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”.
Cũng đã từng “lên chơi đền Cây Thị”. Với đôi chân đất của con nhà nghèo, vẫn háo hức trong mùa lễ hội, vẫn “đi đêm xem lễ đền Sòng”. “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh” (Tản Đà), giáp giới với tỉnh Ninh Bình thế mà chú bé vẫn lặn lội đất đi đêm xem lễ đền Sòng”. Hoa huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn và bóng cô đồng “lảo đảo” đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ của Nguyễn Duy:
“mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”.
Từ láy “lảo đảo” là cái thần của bức tranh về cô đồng mà chúng ta thường nhìn thấy ở 1 số lễ hội dân gian. Nguyễn Duy thường nhắc đến hoa huệ với màu trắng và mùi thơm bằng tất cả sự thanh khiết của tâm hồn mình. Hoa huệ trên bàn thờ mẹ:
“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Trong bài thơ “Đò Lèn”, ông cũng hai lần nhắc đến:
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm…
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm…
Sức cuốn hút, ám ảnh của bài thơ “Đò Lèn” là ở hình tượng người bà. Đó là bà ngoại của Nguyễn Duy. Ân hận, khẽ trách mình vô tâm, vô tình: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Nhà nghèo, bà lặn lội “mò cua xúc tép” ở Đồng Quan để có tiền mua gạo nuôi cháu. Bà đi gánh thuê chè xanh Ba Trại, gánh nặng, đường xa và gồ ghề, đêm tối và gió rét, đôi chân bà “thập thững” bước đi.
Đôi vai “chín dạn” vì gánh đòn tre. Chân bước cao bước thấp, lúc ngả lúc nghiêng, bước đi “thập thững” trong đêm tối, trong gió rét. Bà vất vả và cơ cực. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những cái cò lặn lội trong cuộc đời. Nguyễn Duy đã gửi gắm bao tình thương và biết ơn đối với bà:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.
Năm đói, một củ dong riềng luộc sượng bà dành cho cháu. Trong vị ngon ngọt của củ dong riềng, đứa cháu “nghe” được mùi thơm của huệ trắng, của hương trầm. Nguyễn Duy đã lấy mùi thơm của huệ trắng, hương trầm để diễn tả những xúc cảm về tình thương bao la, mênh mông của bà. Bà hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Tiên, Phật, thánh soi sáng lòng từ bi, bác ái mà bà hướng tới. Sống trong tình thương ấp ủ của bà, nên đứa cháu mới thấu hiểu được lòng bà, tâm hồn của bà:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
Giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần”.
Giữa thời khói lửa, bom đạn giội làm nhà bà “bay mất”, đền Sòng cũng “bay”, chùa chiền “bay tuốt cả”,… Khi mà “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” bà vẫn trụ vững giữa cuộc đời, bà vẫn bươn bả kiếm sống, bà vẫn chống chọi với mọi khó khăn lam lũ: “Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Đó là một nét vẽ rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà của nhà thơ; và đó cũng là hình ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Đoạn cuối nói lên nỗi xúc động của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
Khi tôi biết thương bà đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”.
Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và tính triết lí đã tạo nên sự rung cảm sâu xa của vần thơ. Dòng sông xưa mà tác giả nói đến là sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn. Những năm dài chiến tranh loạn lạc đã đi qua. Quê hương đất nước thanh bình, ngày một đổi thay, ngày một tươi đẹp. Câu thơ “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi” mang hàm nghĩa về cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay của quê hương xứ sở.
Câu cuối bài thơ “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi” cũng mang ý vị triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian và vũ trụ. Câu thơ của Nguyễn Duy man mác buồn, làm ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung oán ngâm khúc”:
“Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
Bà ngoại đã mất, nhưng tình thương và sự tần tảo của bà vẫn còn lại mãi với con cháu.
“Đò Lèn” là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Cùng với “Bếp lửa” của Bằng Việt, bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy là bông hoa nghệ thuật tô đẹp hình tượng người bà kính yêu trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Hơn mười địa danh được nhà thơ nhắc đến đã làm cho ý nghĩa bài thơ thêm đẹp và sâu sắc: tình yêu bà, yêu gia đình gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. “Đò Lèn” là một trang thơ cảm động về kí ức tuổi thơ của người lính.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đò Lèn” của Nguyễn Duy số 3
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng có một nhận xét rất thú vị về nhà thơ Nguyễn Duy như sau: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó”. Có thể nói thơ Nguyễn Duy khá đặc biệt khi trong những vần thơ ngang tàn, phóng khoáng và hồn nhiên tưởng như không chút gì suy nghĩ, nhưng tận sâu bên trong lại là những ẩn ý chiêm nghiệm sâu sắc về chính cuộc đời, rất trầm tĩnh và lặng lẽ thấm vào tâm hồn người đọc, rồi đột nhiên vỡ ra khiến người ta phải giật mình suy nghĩ lại về những chặng đường, về tình cảm của bản thân trong suốt những năm tháng đã qua.
Tiêu biểu cho cái lối viết ấy phải kể đến tác phẩm Ánh trăng, chiêm nghiệm về tấm lòng dễ đổi thay của con người xấu hổ trước sự thủy chung son sắt của trăng sáng trên cao. Nhưng rồi đến Đò Lèn người ta lại càng thấm thía hơn trong nỗi suy tư với cái vất vả của người bà trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, cùng với tuổi thơ hồn nhiên, chưa biết nghĩ của người cháu. Để rồi khi lớn lên, khi cháu đã trưởng thành, đã chinh chiến xa xăm, khi đất nước đã độc lập thì bà cũng chỉ còn một nấm cỏ xanh, người cháu nuối tiếc cũng đã muộn màng.
Nguyễn Duy từng là một người lính thông tin tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, nên trong thơ ông hình tượng người lính cũng thường trở đi trở lại nhiều lần, đặc biệt là trong những đề tài chiến tranh với quê hương đất nước. Ở đó ông không đi tìm những vẻ đẹp hoành tráng, kiêu hùng mà thay vào đó Nguyễn Duy lại thường chú ý đến những vẻ đẹp đối kháng sơ, bình dị, thấm sâu trong từng ký ức tuổi thơ, là nỗi vất vả, cực nhọc trong lao động của những người nông dân trong kháng chiến.
Ở Đò Lèn cũng vậy, cả bài thơ là một miền ký ức có vui vẻ, hồn nhiên nhưng cũng có những ký ức về 1 thời chiến tranh tàn phá ác liệt. Tuy nhiên đọc thơ của Nguyễn Duy không phải để buồn mà để suy nghĩ, để chiêm nghiệm, thế nên giọng thơ ông rất thoải mái, đôi chỗ mặc dù thực tế vô cùng tàn khốc nhưng ông cũng dùng cái giọng thơ hóm hỉnh để che lấp đi, rồi hướng người ta về một thứ tình cảm khác đó là tình thân. Xuyên suốt Đò Lèn là hồi ức của Nguyễn Duy, trong đó hai khổ thơ đầu là tuổi thơ của tác giả với những năm tháng rong chơi, hồn nhiên rất chân quê mộc mạc.
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Có thể nói rằng qua hồi ức của Nguyễn Duy, nhà thơ đã có một tuổi thơ rất đẹp, rất đúng nghĩa, ở đó hiện lên hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, năng động, rong chơi khắp làng xóm, vừa “câu cá” vừa “bắt chim”, đôi khi có cả ‘ăn trộm”, rồi cũng rất ưa chỗ đông người, ưa thích món quà vặt nên mới “níu váy bà đi chợ”. Các địa danh cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng hiện lên thật gần gũi và gắn bó chặt chẽ với tuổi thơ của tác giả, mang đậm nét văn hóa làng, xã của Việt Nam – cái đã làm nên Đất Nước theo như phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm.
Thêm vào đó, chất thôn quê, dân dã còn hiện lên thông qua những chi tiết về phong tục tập quán đặc sắc của người Việt xưa trong cảnh “xem lễ đền Sòng”, thấm đượm hồn quê với “với điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”, vấn vương cả mùi nhang trầm linh thiêng, cùng với hương huệ trắng tinh khiết cao nhã. Cùng với cái cảnh nghèo khó, bình dị, đối kháng sơ trong chi tiết “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” phản ánh tâm hồn trong sáng, thuần phác, hồn nhiên, ngộ nghĩnh của một cậu bé chân quê, đại diện cho cả một làng quê xưa.
Bấy nhiêu đó thôi cũng khiến người ta hoài niệm, tự hào và thêm yêu thương những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Tuổi thơ Nguyễn Duy tuy nghèo khó, vất vả nhưng tác giả vẫn được rong chơi, nghịch ngợm trải nghiệm như thế phần lớn là nhờ sự gánh vác, trông nom của người bà. Trong tâm khảm Nguyễn Duy hình ảnh bà ngoại chính là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất, để mỗi khi nhắc về nhà thơ lại mang nhiều cảm xúc ngổn ngang, là nối hối hận, xót xa, là nỗi niềm thương bà mình sao khổ cực quá.
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Nguyễn Duy nhẹ thốt lên đầy hối hận và xót xa “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”, điều ấy chẳng thể trách bởi với một đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn, sự ngây thơ, hồn nhiên và cái tính ham chơi, nghịch ngợm đã không để cho nhà thơ suy nghĩ được nhiều đến thế, chỉ đến khi đã lớn, đã chinh chiến xa xôi, Nguyễn Duy mới như bừng tỉnh, giật mình nhớ về dáng người bà năm xưa tảo tần nuôi mình khôn lớn.
Ký ức như một cuốn băng chậm rãi đưa tác giả về những hình ảnh ố vàng vết bụi của thời gian đó là những ngày “bà mò cua xúc tép ở đồng Quan”, những hôm “bà đi gánh chè ở Ba Trại”, gót chân bà “thập thững những đêm hàn” cơ hồ đã nhẵn cả Quán Cháo, Đồng Giao. Hình tượng người bà chính là đại diện cho đức tính hi sinh, chịu thương chịu khó, dang đôi vai gầy gồng gánh hết khổ cực, một lòng lòng vì con cháu của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Có lẽ hình ảnh người bà và cảm xúc của Nguyễn Duy trong đoạn thơ này cũng tương đồng với Bằng Việt trong bài thơ Bếp lửa “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”, đó là tấm lòng yêu thương, kính trọng và nỗi xót xa cho những khó nhọc mà bà ngoại mình đã phải trải qua trong cả cuộc đời, để cho đứa cháu được một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc, vô lo vô nghĩ. Trong đôi mắt của Nguyễn Duy tình cảm của bà ngoại dành cho ông thật ấm áp, dịu dàng và thánh khiết vô cùng.
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Nguyễn Duy đứng giữa “bờ hư-thực” để nghĩ về bà, dùng tấm lòng trong suốt, tinh tế để cảm nhận về bà và tình cảm của bà, bà luôn dành cho cháu thứ tình cảm nhân từ, độ lượng, yêu thương vô cùng. Bà nhường cháu “củ dong riềng luộc sượng” trong những năm đói mòn, đói mỏi, cháu ăn vào mà như ăn cả tình thương ấm áp, dịu dàng của bà, ôi sao ngon ngọt thế cái tình thương “mùi huệ trắng hương trầm” thiêng liêng, quẩn quanh tràn đầy trong ký ức.
Cái mùi thơm của huệ trắng của nhang trầm ấy đã trở đi trở lại hai lần trong bài thơ, như ôm lấy một tuổi thơ nghèo khó nhưng tình cảm của Nguyễn Duy, tựa như tình thương, tựa ánh mắt hiền từ, độ lượng như tiên phật của bà dõi theo bước chân cháu cả cuộc đời, khiến cháu cứ nhớ mãi, thương mãi.
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Rồi chiến tranh quét ngang qua làng xóm, Nguyễn Duy đã dùng một cái chất giọng hóm hỉnh để diễn tả cái cảnh kịch liệt ấy, hòng làm cho thơ mình nhẹ nhàng hơn, tha thiết hơn nhưng vẫn khắc sâu vào lòng người đọc với những hình ảnh kịch liệt mà bom đạn đã để lại trên xóm làng “nhà bà tôi bay mất/đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền”.
Chỉ một từ “bay” nhẹ thế thôi, nhưng nó đủ để diễn tả được cái cảnh xóm làng bị tàn phá không còn lại gì, đến cười ra nước mắt với câu thơ rất hồn nhiên “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”. Tất cả đã đi hết hoặc mất hết thế nhưng vẫn còn bà ngoại, bà vẫn trụ vững hơn cả nhà cửa, chùa chiền, kiêng cường hơn thánh, Phật bà vẫn ở lại đây để mưu sinh, vẫn “đi bán trứng ở ga Lèn”, để nuôi đứa cháu trai còn thơ dại.
Có thể nói chỉ có thứ tình cảm ruột thịt, tấm lòng hi sinh, chịu đựng của người bà, của người phụ nữ Việt Nam mới mạnh mẽ và kiên cố đến vậy, dù cho có là bom đạn, có là mưa sa bão táp, hay gian khó cuộc đời cũng chẳng bao giờ đánh sập được. Một thời ký ức đã qua, khi cháu đã lớn, đã bước ra chiến trường cháu mới biết thương bóng hình bà khó nhọc, kiên cường, nhưng trở về thì đợi cháu chỉ còn nấm mộ đã xanh cỏ từ lâu.
Bà mạnh mẽ, kiên cường thế nhưng cũng không chống đỡ được bước đi của thời gian, khi cháu đã lớn khôn, đã biết nghĩ suy thì cũng đến lúc không cần sự bảo bọc chở che của bà nữa. Nguyễn Duy trở về quê hương, tìm về với bà, với những xóm làng quen thuộc thuở thơ ấu, mọi thứ đã đổi thay ít nhiều và bà cũng chẳng ở đó nữa.
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Nỗi xúc động nhìn dòng sông xanh biếc đại diện cho quê hương, chiến tranh đã qua đi ít lâu, quê hương lại trở về với vẻ thanh bình vốn có, cùng với niềm tiếc nuối muộn màng vì không biết trân trọng, yêu thương khi bà còn ở bên cạnh mà chỉ mải rong chơi. Nay bà đã về với cõi thần tiên, dưới gối Phật tổ, để lại một nấm cỏ xanh khiến tác giả ngậm ngùi, hối hận không thôi, hối hận về một tuổi thơ quá vô lo vô nghĩ mà không để ý mắt bà đã mờ, lưng bà đã mỏi, đôi tay bà cũng trở nên thô sần theo năm tháng.
Khổ thơ cuối của Nguyễn Duy bỗng thức tỉnh tâm hồn người đọc, khiến mỗi chúng ta phải giật mình tự vấn lại bản thân xem liệu mình đã thực sự biết trân trọng, yêu thương người thân và những người đang hiện diện bên cạnh chúng ta chưa. Và mang đến một triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc: “Hãy học cách trân trọng, biết ơn những gì bạn đang có, trước khi để thời gian dạy cho bạn biết phải trân trọng những gì bạn đã từng có”.
Có thể bạn thích: