Ma Văn Kháng thuộc thế hệ những người cầm bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là nhà văn có khả năng xử lý nhiều mảng đề tài khác nhau. Văn phong ông nhẹ nhàng, chú trọng các tình tiết li kì, hấp dẫn. Với bút lực dồi dào, ông sáng tác rất nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. “Mùa lá rụng trong vườn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn được trao Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn 12, rút từ chương 2 của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Chủ đề của đoạn trích viết về một cái tết sum họp trong đó các nhân vật tỏa ra những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng như tình nghĩa, thủy chung, tình cảm truyền thống gia đình gắn bó,… Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau để cảm nhận rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 8
Mùa lá rụng trong vườn là một trong những tác phẩm đặc sắc của Ma Văn Kháng đã để lại ấn tượng khá đẹp trong lòng độc giả thời đổi mới cuối thế kỉ XX. được trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới.
Bằng một giọng kể ấm áp và cảm động, tác giả đã đưa người đọc trở về với một buổi chiều cuối năm đầy bình yên. Trong buổi chiều cuối năm đầy thiêng liêng mang tính truyền thống đó, người đọc nhận ra những nét đẹp rất phương đông, rất Việt Nam của ngày Tết cổ truyền: sự đoàn tụ, lễ cúng gia tiên và bữa cơm tất niên, những lời ước nguyện.
Chị Hoài – người vợ của một liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ đúng thời khắc buổi chiều tất niên.
Tác giả đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, trạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa.
Chị Hoài từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”.
Nhìn thấy chị Hoài đến, ai ai trong gia đình ông Bằng cũng vui mừng. Phượng sôi nổi, nồng hậu nói: “Em mừng quá, chị Hoài ơi. Để em xách tay nải cho”. Lý nức nở, ôm chầm lấy chị dâu trưởng ngày xưa: “Đúng là có linh tính nhé. Chị xem lời em nói có thiêng không? Em vừa nói: ước gì chị Hoài hiện ra bây giờ nhỉ”…
Cuộc gặp gỡ cuối năm giữa chị dâu và mấy đứa em chồng thật vui mừng, cảm động. Phượng nhắc lại kỉ niệm gần mười năm về trước mà vẫn còn roi rói trong lòng: “Hôm cưới em, chị mặc áo vét như cán bộ kia”. Luận đi cạnh chị Hoài, nghiêng nghiêng đầu, hỏi đủ chuyện dưới quê. Vợ chồng Lý – Đông “vui vẻ quá mức”, Lý cùng Đông đưa chị vào phòng khách. Chị Hoài kể lại đủ chuyện, chuyện công tác, chuyện làm ăn, chuyện cô Phượng được chuyển công tác, chuyện cậu Cừ… Nhận được thư ông, biết bao chuyện vui buồn trong gia đình, nên chị Hoài “suốt ruột phải lên ngay”. Chị “sợ ông buồn”.
Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Chị Hoài và các em trai em dâu nói chuyện, hỏi thăm nhau rôm rả, vui mừng vì lâu ngày mới được gặp nhau. Rồi sau đó, ông Bằng đi xuống, ông nhìn chị như chực trào nước mắt. Chị Hoài nhìn ông, và khóc, chị cất tiếng chào: “Ông” trong nghẹn ngào. Ông Bằng run run, giọng khàn đặc đáp lại “Hoài đấy ư, con?”.
Nhìn cảnh đó, khiến Phượng không kìm được nước mắt. Ông Bằng lấy khăn giấy lau đi đôi mắt ướt của mình và hỏi thăm về gia đình chị. Chị Hoài lễ phép kể lại chuyện chồng con mình với tất cả sự cởi mở của một tấm lòng tình sâu nghĩa nặng…. “Lẽ ra, anh ấy thu xếp công việc được cũng lên kính thăm ông dịp này. Cả các cháu nữa, bốn đứa, đứa nào cũng đòi đi. Nhất là thằng lớn, nó cứ bảo mấy lần nó qua Hà Nội mà chưa được vào nhà thăm ông, lần này rỗi rãi nó phải đi…”.
Trò chuyện một lát, đến giờ cúng gia tiên, mọi người cùng nhau đứng trước bàn thờ chắp tay khấn trước ngực. Ông Bằng đứng trước bàn thờ tổ tiên như quên hết mọi thứ xung quanh, trôi ngược về quá khứ để tri ân cha mẹ, tổ tiên, ông tâm tình với vợ và con trai cả đã hi sinh của mình. Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà – nhất là Lí, tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.
Qua cuộc gặp gỡ của chị Hoài với mọi người trong gia đình ông Bằng, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp truyền thống gia đình của người Việt Nam để không đánh mất mình trước tác động của nền kinh tế thị trường. Truyện như một thước phim ngắn về một gia đình có truyền thống trọng đạo ân tình, tình nghĩa thủy chung son sắt.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 3
Truyện “Mùa lá rụng trong vườn” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Ma Văn Kháng đã để lại ấn tượng khá đẹp trong lòng độc giả thời đổi mới cuối thế kỉ XX.
Cuộc gặp gỡ giữa chị Hoài với cụ Bằng và những người em chồng trong chiều ba mươi Tết thật là cảm động. Phượng về làm dâu nhà cụ Bằng đã hơn chín năm. Ngày cưới của Luận – Phượng, chị Hoài có lên mừng hai em. Đã lâu, Phượng chưa được gặp lại chị dâu cả trong gia đình. Người phụ nữ mà Phượng và Lý cùng ao ước đã hiện ra như thật ngay trước cổng nhà, vào đúng lúc cả gia đình cụ Bằng đang tíu tít buổi cúng tất niên chiều ba mươi Tết. Sự gặp gỡ ấy trong khoảnh khắc ấy càng trở nên cảm động thiêng liêng.
Phượng như một “chiếc gương thần” mà tác giả dùng để phản chiếu, để soi tỏ bao cảnh tình đáng nhớ đó. Trước mắt Phượng, bên ngoài cánh cổng sắt là một phụ nữ nông thôn xa lạ “trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu”. Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi. Chị ta lại đeo một cái tay nải nặng, dáng vẻ không “ngác ngơ lạ lẫm, nhưng hơi mắt đậm nỗi bồi hồi”.
Ma Văn Kháng thật tinh tế gợi tả hình ảnh chị Hoài đọng lại trong tâm hồn Phượng; chỉ là sơ cảm nhưng thật đậm, đúng là “cầu được, ước thấy”. Chỉ nửa chừng câu hỏi xã giao, Phượng đã nhận ra người chị thân yêu của mình: “Bác… bác hỏi ai ạ? A, có phải bác là… là chị Hoài không ạ?” Chị Hoài vẫn nhớ đứa em dâu, dù đã gần mười năm không gặp. Một câu hỏi, một câu nói xiết bao ân tình: “Cô Phượng đấy như?” Một tiếng “như” dân dã mà nghe thật ý vị, đậm đà.
Sau tiếng reo lên của Phượng: “Chị Hoài! Chị Hoài lên, anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!” thì em trai, em dâu chồng túa ra, ùa ra đón chị Hoài. Đông, Lý, Luận đều ngơ ngơ ngác ngác, nửa tin nửa ngờ”. Thật ngoài sức tưởng tượng. Chị Hoài lên! Lên đúng chiều ba mươi Tết! Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ. Sau một thời gian dài đau khổ để tang chồng, chị Hoài được phép bố mẹ chồng “đi bước nữa”. Nhưng tâm hồn chị vẫn gắn bó thuỷ chung với gia đình cụ Bằng. Chuyện vui, buồn trong gia đình cụ Bằng, chị Hoài đều san sẻ.
Chị Hoài trở về thăm “gia đình cũ” đúng chiều ba mươi Tết đã làm dấy lên bao tình cảm bồi hồi của những đứa em trai, em dâu liệt sĩ Tường. Hình ảnh chị Hoài vẫn in đậm trong tâm ức họ: “Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thùy mị. Trong tiềm thức vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”. Ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ tinh tế khi phân tích tâm lí con người mà ngòi bút của ông còn thật đằm thắm, thật sâu nặng ân tình:
“Nhưng bây giờ chị Hoài đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, nên vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị đấy, mà lại không dám, không nỡ níu chị về mình. Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ”.
Dù đã có một gia đình riêng ở nơi xa, nhưng chị Hoài không bao giờ quên gia đình cụ Bằng. Ngày mẹ chồng mất, chị vẫn về chịu tang. Ngày cưới của Luận và Phượng, chị cũng đến mừng và chia vui. Chị vẫn về thắp hương và dâng hoa lên bàn thờ gia tiên. Chị vẫn thương nhớ anh Tường đi đánh giặc, đi mãi không về. Nhận được tin Cừ, đứa em trai chồng “di tản” ra nước ngoài, chị sợ cụ Bằng buồn, dù việc nhà, việc hợp tác xã bận bịu, lại năm hết Tết đến, nhưng chị Hoài vẫn lên, lên đúng chiều ba mươi Tết.
Đọc chương II “Mùa lá rụng trong vườn”, ta thấy ngòi bút đằm thắm của tác giả khi nói về bài ca tình nghĩa, về sự thuỷ chung son sắt ở đời. Chiếc tay nải mà chị Hoài mang theo cũng là 1 phần nào đó tuyệt đẹp của bài ca tình nghĩa. Chiếc tay nải đựng đầy những món quà quê.
Chị Hoài vừa lấy ra vừa nói. Chị chất phác và đôn hậu quá, chồng con chị chu đáo và tình nghĩa quá. Giá trị vật chất thời bao cấp thật đáng quý, giá trị tinh thần thì không thể kể hết được. Chị Hoài xởi lởi nhắc lại lời hai đứa con cứ nhét quà vào tay nải và giục: “Mẹ đi đi, không ông buồn, các chú, các cô mong!”.
Cây nhà lá vườn thôi, nhưng thật vô giá: “Đây là gạo nếp tăng sản của nhà. Cái giò thủ anh ấy gói đấy, ông thích ăn giò thủ lắm đấy, cô Lý ạ. Còn bọc này là sắn dây. Trẻ em nó giã, nó rây đấy”. Chị Hoài thật chu đáo mang lên cả một gói hạt giống mướp hương “thơm ngon mà quả to lắm”; chị nhắc cô Lí đem gieo ở bờ ao, gieo vào đêm nay…
Chị Hoài quan tâm đến mọi người. Chị hỏi thăm ông thợ mộc. Chị khen “chú Đông tóc bạc nhưng vẫn khỏe nhỉ!” Chị hỏi thăm cháu Dư. Chị khen cô Lý (vợ Đông) “trẻ như gái mười tám ấy”. Lòng chị Hoài dào dạt niềm vui được trở về. Lòng các em cũng dào dạt niềm vui được gặp lại người chị dâu cả, mặc dầu “quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ”… Tình tiết cái tay nải đựng quà được Ma Văn Kháng mô tả làm ánh lên chất nhân văn – vẻ đẹp của tình người.
Cảnh cụ Bằng gặp lại chị Hoài, người con dâu cũ sau nhiều năm vật đổi sao dời là một tình tiết rất sống, rất thực, rất cảm động. Ông Bằng chống ba toong lịch kịch đi xuống cầu thang. Phượng và Luận chạy lại chân cầu thang đón. Cụ Bằng xuống để cúng và cũng là lúc ông nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên.
Ông đã già nua, hai bẽn cằm nếp da xệ, trên trán còn ghi vết tàn lụi và nỗi ưu tư. Ông Bằng vẫn giữ nếp phong lưu và trang trọng, chỉnh tề “mặc dầu vẫn là bộ com lê đen, kẻ sọc mờ, cài khuy chéo”. Thoáng nhìn thấy người con dâu cả lên thăm, cụ Bằng xúc động quá, “sững lại”, mặt “thoáng một chút ngơ ngẩn”, mắt ông “chớp liên hồi”, môi ông “lật bật không thành tiếng”, ông “sắp khóc òa”.
Thời gian như ngừng trôi, không gian như vắng lặng. Khi chị Hoài lao về phía người bố chồng, thốt lên tiếng như tiếng nấc “Ông!”, thì cụ Bằng bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đấy ư, con?”. Xiết bao thương cảm và quý mến. Cụ Bằng đã khóc, người con dâu cũ cung đã khóc. “Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương đau buồn, ê nhức cả tim gan”.
Phượng vẫn là “chiếc gương thần” phản chiếu soi sáng giây phút cảm động giữa ông bố chồng già nua, phúc hậu gặp lại chị Hoài, người con đâu cũng vô cùng quý mến của hai ông bà. Phượng xúc động, “mắt ngấn lệ không nỡ gặp gỡ… “, và rồi ngực cô “dội lên những cơn sóng nghẹn ngào và hai cánh mũi se se cay”.
Ông Bằng phúc hậu quá, khi ông nén xúc động rút khăn tay lau nước mắt, nhẹ cất tiếng hỏi chị Hoài: “Anh ấy và hai cháu vẫn khoẻ cả chứ, con?” Với ông Bằng thì vợ chồng chị Hoài và những đứa con vẫn là con, là cháu của ông bà. Chị Hoài lễ phép kể lại chuyện chồng con mình với tất cả sự cởi mở của một tấm lòng tình sâu nghĩa nặng…. “Lẽ ra, anh ấy thu xếp công việc được cũng lên kính thăm ông dịp này. Cả các cháu nữa, bốn đứa, đứa nào cũng đòi đi. Nhất là thằng lớn, nó cứ bảo mấy lần nó qua Hà Nội mà chưa được vào nhà thăm ông, lần này rỗi rãi nó phải đi…”.
Tôi cứ tự hỏi, tại sao nhiều bạn trẻ chúng ta khi đọc đoạn văn nói về giây phút gặp gỡ giữa cụ Bằng và chị Hoài không ngăn được dòng nước mắt? Trái tim của tác giả “Mùa lá rụng trong vườn” hồn hậu quá, dạt dào tình yêu thương. Lễ cúng tất niên chiều ba mươi Tết thể hiện một nét đẹp văn hoá truyền thống của các gia đình nơi kinh kì Thăng Long, phản ánh phong tục đẹp của con người Việt Nam chúng ta.
Cái bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình Việt Nam đã nói lên đầy đủ tất cả những gì đã có, đang có và những gì mong ước mai sau. Cái bàn thờ của gia đình ông Bằng cũng thế. Một nếp nhà bền vững đáng trọng. Chắc là có nhiều đổ thờ quý giá. Bàn thờ là cõi thiêng.
Hương khói ảo mờ. Ngọn đèn dầu lim dim… Bốn tấm ảnh đặt sát tường?: ở giữa là ảnh song thân, bên trái là ảnh bà Bằng “mặt hoa da phấn, tóc vấn khăn nhung”, bên phải là ảnh anh cả Tường “áo trấn thủ ô quả trám, mũ ca lô nghiêng, nét đã phôi pha”. Mâm ngũ quả, cặp bánh chưng xanh buộc lạt điểu, những chén rượu xinh xinh xếp hàng ngang trước bàn thờ.
Cụ Bằng, mái đầu hói, diềm tóc lơ thơ đã bạc hết, chắp tay khấn trước ngực. Tâm trí ông phiêu diêu lãng đãng gần xa,… chập chờn như trong chiêm bao”. Ông thì thầm và thành kính khấn nguyền: “Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu.
Con văng vẳng nghe đâu đây giáo huấn của ông cha tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, tổ tiên…”. Rồi ông Bằng khấn vợ con: “Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng dìu dắt tôi cùng các cháu, các con, các em…”.
Lời khấn của ông Bằng cho ta thấy “quá khứ không cắt rời với hiện tại; tổ tiên không tách rời với con cháu; tất cả liên kết một mạch bền chặt thủy chung”. Lúc cúng, lúc khấn, tâm hồn ông Bằng ” lâng lâng”, tình cảm ông “trôi lững lờ”, mắt ông “cay sè”, lòng ông “bồn ngộn”, lời cầu khẩn của ông “thành kính và run rẩy”. Cụ Bằng không hề nhắc đến Cừ, “ông cụ đã gạt tên thằng Cừ”. Các con xúc động lắng nghe lời cha khấn. Còn chị Hoài “đăm đắm ngước lên bàn thờ”. Khi người cha chồng vừa buông tay chắp, lau nước mắt, lui ra, thì chị “liền thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực”.
Ta đã từng nghe ông Tám Xẻo Đước khấn nguyền trước bàn thờ gia tiên trước khi quyết tử với thằng Đởm – chánh cống ác ôn (Truyện Đất của Anh Đức). Và chiều ba mươi Tết năm Bính Tuất, ta lại được nghe, được chứng kiến ông Bằng cúng và khấn gia tiên.
Tâm hồn của con người Việt Nam sao đẹp thế! Phong tục của dân tộc ta sao đẹp thế! Bản sắc nền văn hoá Việt Nam thật đáng tự hào. Ông Bằng và con cháu ông đã và đang lưu giữ trong tâm hồn bao nét đẹp của con người Hà Nội, đã và đang sống, đang lưu truyền, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và lâu đời văn hoá Tràng An.
Mâm cỗ ngày Tết thời bao cấp khó khăn của gia đình ông Bằng vẫn thịnh soạn. Lý, cô gái Hà Nội là “bếp trưởng” của mâm cỗ này. Trên mâm cỗ “la liệt bát đĩa, ngồn ngộn các món ăn”. Chắc là có 18, 24 hay 36… món cao lương mĩ vị, ta chỉ đếm qua đã cảm thấy ngon, thấy thèm: gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng gà, súp lơ xào thịt bò,… đặc biệt là các món gà quay ướp húng lìu, vịt hầm hạt sen, chả chìa, mọc, vây… Món vịt tần, vây, và mọc, nhất là món mọc đã được Lý “rất tỉ mỉ, và kĩ tính hết sức khi chế biến món này”.
Lý không chỉ muốn bộc lộ năng khiếu của một cô gái Hà Nội về nữ công gia chánh mà còn muốn bày tỏ một tấm lòng thành kính với gia tiên. Qua mâm cổ chiều ba mươi Tết của gia đình ông Bằng, nhà văn Ma Văn Kháng tự hào khẳng định và ngợi ca một nét đẹp văn hoá trong cách sống của người dân Thăng Long-Hà Nội.
Ai đã từng đọc tác phẩm “Miếng ngon Hà Nội” của Vũ Bằng sẽ cảm nhận sâu hơn, đầy đủ hơn ý vị mâm cỗ cúng gia tiên ngày Tết của gia đình ông Bằng. Chương II tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong là những trang văn đẹp. Đẹp về tình nghĩa thuỷ chung trong đạo lí, trong cách sống, trong cách ứng xử, đẹp ở tâm hồn và nếp sống văn hoá của người Hà Nội. Đẹp ở những tình tiết cảm động, ấm áp tình người của những con người nhân hậu.
Hình ảnh cụ Bằng, chị Hoài, cô Phượng, cô Lý… đã để lại trong tâm trí chúng ta bao tình cảm đẹp. Chương II này, theo tôi nghĩ, đó là bài ca tình nghĩa của những người thủy chung.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 7
Nếu bạn là người muốn tìm về lại với những truyền thống xưa cũ, muốn cảm nhận được nét đẹp cổ kính, mẫu mực trong văn hóa xưa kia của dân tộc Việt Nam thì có lẽ không nên bỏ qua những cuốn tiểu thuyết để đời của nhà văn Ma Văn Kháng như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Mùa lá rụng trong vườn,…
Nội dung tiểu thuyết của Ma Văn Kháng không phải là một cuốn sách nghiên cứu về văn hóa đời sống nhưng tác giả lại dành khá nhiều tâm huyết và không gian để miêu tả tỉ mỉ những nét đẹp trong đời sống theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Tiêu biểu cho phong cách sáng tác nhã nhặn mà sâu sắc của nhà văn có lẽ phải kể đến cuốn tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” với nội dung chính nói về một gia đình gia giáo sống ở thời kỳ đất nước đổi mới. một gia đình với nhiều thế hệ bị sự thay đổi của nền kinh tế thị trường tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến nếp sống và nếp nghĩ của từng con người trong gia đình. Những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cơ chế mới ấy có lẽ là những người đã có tuổi như ông Bằng.
Những con người thuộc lớp người cũ, trong xã hội cũ như ông luôn răn dạy bản thân và những người thân trong gia đình sống sao cho đúng chuẩn mực và để không phải xấu hổ với người xung quanh. Nhưng cơ chế thị trường thay đổi, những giá trị truyền thống mất dần. Có những giá trị xưa nay được tôn kính nay lại thành cổ hủ lạc hậu. Những người lớn tuổi như ông Bằng không còn nhiều thời gian để có thể đổi thay theo cái mới và cứ vương vấn mãi với một thời vàng son trong đời sống cũ.
Đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 thuộc chương hai của cuốn tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” với nội dung chính là không khí của một gia đình lễ giáo cũ và mới đan xen nhau tạo nên một không khí vừa ấm áp vừa cảm động vào 1 ngày cuối năm đầy cảm xúc.
Giá trị truyền thống của một cái tết cổ truyền từ trước đến nay dường như không có nhiều thay đổi. Ngày tết vẫn là thời gian quý giá nhất trong một năm dài để tất cả những thành viên trong gia đình có dịp đoàn tụ với nhau. Trong gia đình ông Bằng cũng vậy, con gái con dâu đều đã tề tựu đông đủ để chuẩn bị mâm cơm cúng chiều ba mươi để rước tổ tiên về nhà ăn tết.
Dịp tết cũng là một cái cớ rất nhân văn để một người con dâu đã xa cách mười năm như chị Hiền có dịp về lại gia đình của người chồng trước. Vốn dĩ chị đã không còn là vợ của anh cả Tường nữa vì vậy việc hiếu kính với ông Bằng hay quan tâm chăm sóc các em trong nhà không còn là bổn phận của chị nữa.
Thế nhưng những người trong nhà vẫn còn nhớ đến chị, thương yêu và mong ước được gặp lại chị như là một người con ruột trong gia đình. Chính nhờ vào tấm lòng thơm thảo của chị Hiền, tính tình vui vẻ hiền lành, siêng năng và khéo léo mà một người vốn là người dưng lại trở thành người trong một nhà. Còn một người vốn là máu mủ ruột rà, chỉ vì không biết giữ gìn lề thói, chạy theo sự thay đổi của xã hội mới nên dường như vị trí cũng biến mất khỏi gia đình. Ông Bằng thật sự đã từ bỏ đứa con ruột như cậu Cừ.
Cảnh đoàn viên của chị Hiền với gia đình ông Bằng mang lại một cảm xúc gì đó rất gần gũi và chân thật giữa người thân với người thân trong gia đình. Người đọc có thể cảm nhận được niềm vui lan tỏa trong từng câu chữ. Từ cách các em ôm lấy chị, dẫn chị vào nhà. Đứa đi trước, đứa quàng tay, đứa thì bẽn lẽn đi bên cạnh. Người ta xa cách một năm đã thấy quá dài. Người trong nhà xa cách quá lâu còn có thể phai nhạt tình cảm.
Ấy vậy mà với chị Hiền, người con dâu đã rời căn nhà ấy hơn mười năm vẫn được chào đón như thể chị ấy lâu nay vẫn sống cùng mọi người. Cũng có thể vì chị Hiền là một người con dâu quá đỗi tuyệt vời nên khi về lại với gia đình ông Bằng mới khiến người nhà yêu thương chị nhiều đến thế. Nhưng có thể cũng vì chị đã xuất hiện đúng cái ngày người ta mong một sự vẹn tròn, đoàn viên nhất nên việc gặp lại chị mới ấm áp tình người đến vậy.
Đoàn viên đâu chỉ có việc trao cho nhau những cái ôm siết, chị Hiền còn lanh lợi chia quà quê cho từng người trong gia đình. Một người đã xa cách mười năm nhưng vẫn nhớ như in những tính cách những thói quen từng người trong gia đình. Chị vẫn biết cha chồng mình thích ăn giò. Những thức quà quê giản dị đơn sơ như gạo nếp, hạt giống mướp hương,… Cách chị Hiền hỏi han mỗi người trong nhà không ngớt, cách chị chỉ trồng mướp thế nào, ở đâu, vào lúc nào thì tốt cứ như thể chị chưa từng ra đi khỏi căn nhà này.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 6
Đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng ta luôn bị ám ảnh bởi một thế giới không còn nguyên vẹn (tuy chưa thật sự có những thay đổi lớn lao). Những câu chuyện mà ông kể cho bạn đọc không “đao to búa lớn” nhưng lại có sức khái quát về một thời, một thời mà bước chân của bao người đang chênh vênh giữa cái cũ và cái mới. Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm như thế.
Người đọc ấn tượng đặc biệt với những thay đổi của khu vườn mùa lá rụng và con người đã không còn như những ngày xưa. Cũng bởi thế mà người đọc cảm nhận được “niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước sự thay đổi của thời cuộc”.
Trong đoạn trích trong sách Ngữ văn 12 (rút từ chương 2 của tiểu thuyết), tác giả tập trung trong một khoảng thời gian rất ngắn – chiều tất niên, trong một khoảng không gian hẹp – gia đình ông Bằng. Từ đó mở ra thăm thẳm chiều sâu cảm xúc, suy ngẫm về những gì đã dần bị mai một của cả một xã hội, của cả một thời. Buổi chiều tất niên của gia đình ông Bằng cũng như bao gia đình Việt Nam khác, tất bật, háo hức, hồ hởi, vội vàng.
Cả nhà thu xếp mâm cơm tất niên để đặt lên bàn thờ tổ tiên. Ta vẫn nhìn thấy trong bức tranh ấy những nét đẹp truyền thống không thể phủ nhận. Đó là cái không khí vừa có cái ồn ào, lo toan, gấp rút để chạy kịp thời gian, vừa muốn trùng trình níu kéo chút thời khắc của năm cũ, vừa muốn bước nhanh để được đón những giờ khắc đầu tiên của năm mới, mà ai cũng có kì vọng sẽ tốt đẹp bởi những gì đã và đang có.
Và ai cũng có cảm tưởng cái gì cũng chỉ là mới bắt đầu. Nhân vật Lí là người đã thể hiện cái không khí tết nhất trong cái dáng vẻ tất bật, miệng luôn luôn mắng yêu chồng, than phiền về nhà cửa bề bộn, sắp đặt công việc, kể lể giá cả, xuýt xoa về hàng hóa, khen ngợi cái này, chê bai cái kia, bình luận nơi này, nhận xét nơi nọ. Ở người đàn bà ấy, người ta nhìn thấy hình ảnh của rất nhiều phụ nữ Việt Nam (đặc biệt là phụ nữ thị thành), trong những ngày năm hết Tết đến: lo toan mọi thứ, quán xuyến mọi thứ, lưu tâm tới mọi thứ.
Họ trở nên đẹp hơn trong cái dáng tất bật, lo toan ấy. Người đọc còn nhìn thấy những nét đẹp rất đặc trưng của dân tộc Việt trong đoạn trích này, đó là cảm giác mong muốn được quần tụ, sum họp. Tết đến, người Việt Nam ai ai cũng muốn được trở về mái ấm nơi có mẹ, cha, anh em ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã in dấu bao kỉ niệm buồn vui (có thể cả những đau khổ, bất hạnh, biệt li).
Với mỗi người thì gia đình là nơi bình yêu để nghỉ chân sau những ngày lao động bôn ba mệt nhọc. Những thành viên trong gia đình ông Bằng cũng không đi ra ngoài phong tục, thói quen đó. Đông, Lí, Luận, Phương, ông Bằng… đều gặp nhau trong một cảm nghĩ chung: sum họp. Tất cả họ đều muốn được gặp gỡ, được cảm thấy trái tim xao động khi cầm một bàn tay, nhìn thấy một dáng hình thân quen; muốn được cười, được nói và được trầm tư nghĩ suy về những gì đã qua, những gì chưa tới.
Và sự xuất hiện của chị Hoài đã thỏa mãn bao ước mong. “Sự việc diễn ra quá ư đột ngột, Đông, Lí, Luận, hấp tấp từ phòng khách ùa ra vệt đường lát xi măng đi qua vườn cây ra cổng, nhìn thấy chị Hoài thật rồi mà vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác nửa tin, nửa ngờ”. Chị Hoài hiện ra bằng xương bằng thịt, cả nhà ai nấy đều hạnh phúc ngạc nhiên xốn xang khác thường, không chỉ vì chị rất nết na, thùy mị, mà còn vì một số lí do sâu xa hơn nhiều.
Chị Hoài chính là người giữ được mảnh hồn xưa, đẹp thuần khiết nhất, không phai mờ, không bao giờ cách xa, không khuất lấp, cho dù cuộc sống có đổi thay, lo toan, bon chen như thế nào. Chị Hoài chính là một khoảng quá khứ thiêng liêng đẹp đẽ mà cả Lí, Đông Luận, ông Bằng đã từng tạo dựng, đã từng xây đắp, tôn thờ. Nhưng ở mỗi người hình như đã bị lung lay, rạn nứt, sứt mẻ đi ít nhiều.
Chỉ có chị Hoài là một khoảng thiêng liêng, trong sáng vô ngần, không thể phá vỡ. Đó là một vật báu mà cả gia đình ông Bằng ai ai cũng yên tâm rằng: vật báu ấy luôn được cất giấu ở một nơi nào đó thật an toàn và không ai có thể xâm phạm tới được. Nội dung câu chuyện giữa những người con của ông Bằng trong buổi chiều sum họp rất bình thường như bao nhiêu câu chuyện thường gặp của bao gia đình Việt Nam: hỏi thăm sức khỏe, công việc, người còn, người mất…
Nhưng nó lại mang đặc trưng cho những cuộc gặp gỡ cuối năm, cảm xúc buồn vui lẫn lộn, bao nhiêu sự kiện, bao kỉ niệm ùa về, liên tiếp, dồn dập và ai cũng muốn được nói, được kể, được bày tỏ, ai cũng muốn bàn tay mình đủ ấm để sưởi ấm bàn tay những người thân. Sức mạnh của tình máu mủ, ruột rà đã tạo cho các thành viên trong gia đình ông Bằng có những cảm giác đặc biệt trong buổi chiều tất niên ấy.
Tất cả họ đều hướng tới những gì tốt đẹp nhất, hướng tới bàn thờ. Nơi thiêng liêng in dấu bao gương mặt tổ tiên, nơi hiện diện của dòng tộc, huyết thống, nơi minh chứng cho tất cả những gì quý giá nhất không thể nói hết thành lời mà chỉ bằng sự cảm nhận bởi tâm linh của mỗi người. “Ông Bằng soát lại hàng khuy áo, chỉnh lại cái cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ”. Thái độ kính cẩn nghiêm trang ấy thể hiện sự cung kính trước tất cả những người đã khuất, sự giữ gìn tất cả những gì vốn được cả dòng tộc duy trì, gìn giữ.
Lời khấn thiêng liêng của ông Bằng chính là cuộc chuyện trò với những người vĩnh viễn đi xa là lời bày to với tất cả những ai đã được ghi tên trong dòng tộc. “Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, tổ tiên, con như thấy từ trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi nảy nở, phúc thọ an khang của cháu con đời đời nối tiếp trong cộng đồng dân tộc yêu thương”.
Những lời tri ân ấy là những lời được rút ra từ tâm khảm, từ trái tim rất mực chân thành, từ niềm tin bất diệt vào sự vĩnh hằng “lưu trú” và hiện diện ngàn đời của ông bà, tổ tiên. Và trong thời khắc của gia đình sum họp, mọi người vẫn nhận thấy rõ sự hiện diện thiêng liêng của ông bà, tổ tiên. Họ vẫn “hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, dắt dìu” con cháu.
Ý nghĩa của buổi sum họp được mở rộng hơn rất nhiều, đó không chỉ là buổi chiều gặp gỡ giữa những người đang sống mà là cuộc gặp gỡ, giao cảm tâm linh của người sống và người đã khuất: “Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách ròi với con cháu. Tất cả liên kết một mạch, bền chặt thủy chung”. Và mâm cơm tất niên với la liệt bát đĩa ngồn ngộn các món ăn được mọi người quây quần, sum vầy vui vẻ, hân hoan khác thường.
Đó là thời khắc thiêng liêng mà mỗi thành viên trong gia đình ông Bằng cảm nhận thấy rõ mình đang hiện diện, đang tồn tại, đang là một thành viên của một gia đình, một dòng tộc, và dòng máu chảy trong huyết quản là của cha ông truyền cho. Chỉ bằng vài ba trang sách, nhưng người đọc đã cảm nhận được nét đẹp truyền thống của gia đình ông Bằng. Một gia đình vẫn còn giữ được những phong tục, nền nếp, lề thói sinh hoạt rất đẹp, rất đáng quý của những gia đình người Việt.
Người đọc có thể thấy hình ảnh của rất nhiều gia đình Việt Nam trong đó. Tuy nhiên, ngòi bút Ma Văn Kháng không chỉ dừng lại ở đó. Cái quan trọng hơn cả là ông đã tái hiện sự lung lay của vẻ đẹp truyền thống trước những biến đổi của thời cuộc. Quả thực, cái Tết sum họp của gia đình ông Bằng đã vượt lên trên cái ý nghĩa thông thường, cụ thể của nó mà nó còn mang tính biểu tượng cho “nếp nhà”, cho phong tục truyền thống, cho nền nếp gia phong, cho tất cả vẻ đẹp truyền thống của mỗi gia đình người Việt.
Và quan sát thật kĩ màn sum họp của gia đình ông Bằng, người đọc không thể không lo sợ cho những gì vẫn tưởng là “lưu trú” vĩnh viễn. Sự xuất hiện của chị Hoài – ngoài mục đích thăm hỏi bình thường còn mang một mục đích khác. “Ông viết thư cho tôi, ông kể hết. Kể cả chuyện cậu Cừ. Thế nên tôi mới sốt ruột, phải lên ngay. Tôi sợ ông buồn? Đến lúc này cả Lí, Đông, Luận, Phương mới biết rằng chị Hoài đã lên thăm đúng chiều 30 là có lí do của nó.
Những lá thư ông Bằng viết cho chị Hoài không nói rõ nhưng người đọc có thể biết được, đó là những câu chuyện buồn. Những câu chuyện về một gia đình đã không còn đầm ấm không đủ như xưa. Cừ – đứa con trai của ông Bằng, một thanh niên giỏi giang vốn tòng quân, nhập ngũ nhưng rồi lại trốn đi nước ngoài biệt tăm tích. Sự vắng mặt của Cừ không tạo một khoảng trống, sự thiếu vắng trong gia đình, mà đáng chua xót hơn cả là những hành động sai lầm của con người ấy khiến cho nền tảng gia phong, nền nếp đẹp đẽ của gia đình ông Bằng bị xúc phạm ghê gớm.
Ông Bằng, Lí, Đông… tất cả thành viên trong gia đình đều cảm thấy bị tổn thương, đau đớn. Nó như một vết nhơ trong gia đình, là dấu hiệu của sự bình yên bị phá vỡ vĩnh viễn không thể hàn gắn lại như xưa. Cũng chính vì thế, ông Bằng đã gạt hẳn Cừ ra khỏi gia đình khi đọc các tên con trai trước bàn thờ tổ tiên.
Sự chứng thực về cái chết, sự biến mất của Cừ trong lòng ông Bằng thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt ghê gớm của một người không chịu nổi những chấn động của sự đổi thay, biến chất và nó cũng thể hiện nỗi lo sợ của ông Bằng về những điều sẽ đến ngoài mong đợi và những sự biến mất ngoài dự kiến. Chị Hoài cũng có chung cảm giác ấy. Và bởi vậy, chị là người đồng cảm với ông Bằng hơn cả trong gia đình.
Làn sóng đổi thay của thời cuộc đã len lỏi, “xâm thực” vào gia đình vốn rất nền nếp, gia giáo ấy. Nó bắt đầu làm đổi thay những thành viên. Người nhanh nhạy duy nhất với thời cuộc là Lí. Lí đã không còn như những ngày xưa nữa. Cô đã đổi khác và chạy theo nhịp thay đổi chóng mặt của thời cuộc. Trong lời nói của con người ấy đã mang hơi thở của tiền bạc, bị chi phối bởi quyền lực và địa vị xã hội.
Lí không còn chấp nhận hi sinh thiệt thòi như ngày xưa nữa mà cô đã đòi hỏi vươn tới và mong muốn đạt được tất cả những gì mình thích. Cô thích thể hiện, thích vượt trội, thích mình phải nổi bật nhất và bởi vậy trong mọi lời nói, việc làm cô đều có sự toan tính, cân nhắc kĩ lưỡng. Do đó, mâm cỗ cuối năm do Lí làm vừa mang sự khéo léo, tỉ mỉ lại vừa mang sự tính toán, khoe khoang về khả năng kiếm tiền ở cô: trên mặt bàn la liệt các món ăn rất nhiều món ăn đắt tiền và nó “quá ư thịnh soạn vào cái thời buổi còn rất nhiều khó khăn”.
Đông – chồng Lí, một anh bộ đội phục viên, đã trở thành một nhân vật mờ nhạt, anh trở thành cái bóng trong căn nhà, suốt ngày ăn, ngủ, tối đánh bài xem ra cuộc đời chẳng còn việc gì đáng để cho anh làm, chẳng có gì đáng để anh phải suy nghĩ… Rõ ràng những thay đổi của thời cuộc đã tạo nên những chấn động không nhỏ cho gia đình nhỏ bé của ông Bằng. Các mối quan hệ giữa các thành viên dần xa cách, phân rã, không có sự liên kết chặt chẽ, mật thiết như xưa.
Đặc biệt sự thay đổi của thời cuộc đã tạo nên những tác động về tâm lí, vào quan niệm sống, lí tưởng sống tưởng đã rất bền vững, rất đáng yên tâm, tin tưởng. Và cho dù ông Bằng có cố gắng đến đâu thì những bức tường của ngôi nhà đã bắt đầu rạn nứt. Mọi sự hàn gắn của ông chỉ là vô ích vì tính chất lạnh lùng, tàn bạo của cơ chế thị trường, của cơm áo, gạo tiền, của nhu cầu mưu sinh. Ma Văn Kháng đã rất thành công trong việc thể hiện “một thế giới không còn nguyên vẹn”.
Từ sự biến đổi trong một gia đình nhỏ, tác giả đã khái quát lên cả một xã hội khi mà cuộc đấu tranh mới – cũ đang diễn ra trên nhiều phương diện, khi mà sự biến thiên của thời cuộc không loại trừ bất cứ một ai. Từ sự thay đổi về mâm cỗ tất niên, từ những chấn động tâm lí của các thành viên trong gia đình ông Bằng, ta nhận thấy những tiếng thở dài não ruột lo sợ cho những giá trị truyền thống đang bị lung lay, biến đổi không thương tiếc. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp toát lên từ đoạn trích, toát lên từ toàn bộ tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn.
Trích đoạn xoay quanh tình huống gặp gỡ đầy cảm động giữa chị Hoài – cô dâu trưởng của ông Bằng với gia đình chồng sau gần chín năm xa cách trong buổi chiều ba mươi Tết cúng tất niên. Anh cả Tường là chồng chị Hoài đã hi sinh trong kháng chiến. Chị Hoài đi bước nữa và có cuộc sống riêng.
Gia đình không còn sợi dây tình cảm ràng buộc nhưng hình ảnh người dâu trưởng đảm đang hiền thục vẫn còn nguyên vẹn trong trái tim gia đình. Trong giờ phút thiêng liêng của chiều ba mươi cúng rước ông bà về đón Tết, gia đình bỗng nhớ đến người chị dâu thân yêu. Nếu có chị thì gia đình đón Tết sẽ đông vui hơn nhưng chị cũng có gia đình riêng nên đó chỉ là điều mong ước mà thôi.
Thế nhưng thật bất ngờ, cầu được ước thấy, chị Hoài lại xuất hiện đột ngột làm mọi người sững sờ. Ra mở cổng, sau phút giây ngờ ngự, Phượng reo lên thông báo cho mọi người trong nhà. cả nhà hấp tấp kéo ào ra đón chị mà nửa tin nửa ngờ. Mọi người tíu tít, Phượng giành xách tay nải, Lí ôm chầm lấy chị.
Mọi người vừa đi vào nhà vừa chuyện trò rôm rả. Những chi tiết niềm nở được kể lại tự nhiên, gợi được không khí mừng rỡ, xúc động và tràn đầy tình yêu thương của các thành viên trong gia đình. Không gian ấm cúng của ngôi nhà bỗng tràn ngập niềm vui bất ngờ, đúng như ước mong của người Việt ta trong những ngày Tết.
Cảnh cha chồng và nàng dâu thảo gặp nhau cũng thật xúc động. Nghe tin chị Hoài lên, ông Bằng đang ở trên gác, liền xuống đón. Thấy chị, mắt ông chớp liên hồi, cảm giác như ông sắp khóc còn chị Hoài thì lao về phía ông, quên cả việc bỏ dép. Chị nói như nấc còn giọng ông khê đặc: Hoài đây ư, con? cảnh tượng quá xúc động khiến Phượng phải quay mặt đi giấu những giọt lệ ngấn.
Chị Hoài gặp lại ông Bằng như gặp lại người cha yêu kính sau bao năm xa cách. Ông Bằng gặp lại chị như gặp một người con gái đi lấy chồng xa mới về. Dù không phải cậu ruột nhưng sống có tình thương và đạo nghĩa nên tình cảm yêu quý của cha con không thể phai nhòa bởi thời gian hay ngăn cách bởi không gian. Cuộc gặp gỡ trong nước mắt mừng vui đã ánh lên nét đẹp trong lối sống và quan hệ tình cảm gia đình truyền thống.
Trong giọt nước mắt mừng vui có pha nỗi tiếc thương. Tiếc thương chị Hoài từ lâu không còn là thành viên chính thức của gia đình và chị bây giờ thật lam lũ, cực nhọc với gót chân nứt nẻ. Tiếc thương ông Bằng không còn khỏe mạnh như xưa… Nghệ thuật dựng cảnh thật có không khí và tâm lí nhân vật được miêu tả chân thực, tinh tế.
Bàn cỗ đã dọn sẵn, khi hương khói được thắp lên thì ngôi nhà chìm trong không khí linh liêng. Lời khấn của ông Bằng là tấm lòng thành kính luôn hướng về nguồn cội và ghi nhớ công ơn tiên tổ, điều đó cho thấy quá khứ luôn có mạch ngầm nối với hiện tại: TỔ tiên không tách rời con cháu.
Tất cả liên kết một mạch bền chặt thủy chung. Giá ưị tinh thần ấy là nền tảng bảo vệ đạo đức và những giá trị truyền thống của gia đình. Một mâm cỗ đàng hoàng, những khuôn mặt nghiêm trang, chân thành trước bàn thờ tiên tổ là biểu hiện nếp sống có chiều sâu văn hóa truyền thông của người Việt.
Mặc dù chỉ xuất hiện trong một cảnh nhưng tính cách các nhân vật được khắc họa tương đối rõ nét. Đông dè dặt, trầm tư ít nói. Phượng nhiệt tình sôi nổi, hồn nhiên. Lí trực tính, phô trương. Còn chị Hoài điềm đạm, mực thước.
Đoạn trích thành công trong việc xây dựng tình huống gặp gỡ bất ngờ cảm động hàn đầy niềm vui và phấn khởi. Từ đó, nhà văn cho thấy sự gắn bó giữa các thành viên trong tình gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, vẻ đẹp gia đình văn hóa là một giá trị tinh thần, trở thành nền tảng cho thành công và nâng đỡ các thành viên nếu bị vấp ngã trên đường đời.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 5
“Mùa lá rụng trong vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng mang đến cho độc giả những cảm nhận nhẹ nhàng, rất truyền thống và lắng đọng.
Chuyện xoay quanh đời sống gia đình ông Bằng- một gia đình có truyền thống, nề nếp ở Hà Nội, gồm ba thế hệ chung sống với nhau thời hậu chiến, cơ chế chính trị tập trung bao cấp. Ông Bằng có năm người con, đứa con thứ nhất là Tường đã hy sinh trong chiến tranh. Hoài là vợ của Tường, một người dâu trưởng nết na, thùy mị. Sau một thời gian dài đau khổ để tang chồng, chị Hoài được phép bố mẹ chồng “đi bước nữa”. Nhưng tâm hồn chị vẫn gắn bó thuỷ chung với gia đình ông Bằng.
Chị Hoài – người vợ của một liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ đúng thời khắc buổi chiều tất niên. Chị Hoài (mà cái tên như ngầm gợi lên một cái gì ổn định, hằng thường, thuỷ chung) hiện lên trong tác phẩm và đoạn trích trong một lát cắt bất ngờ của đời sống, cũng là trong chặng cuối cuộc hành trình của một năm tàn tháng tận.
Chị đem đến cho khu vườn của nhà chồng một tiết tấu bình yên – như bù lại cho những gì mà thế giới yên tĩnh ấy đã, đang và sẽ vừa bị tước đoạt vừa được bồi đắp mới để thích nghi trước một nhịp điệu gấp gáp của đời sống thị trường. Lời nhắn gọn gắn mà mênh mang biết bao, ít chữ mà nhiều nghĩa biết bao ở chương XX – chương cuối cùng của truyện – của chị Hoài sau một mùa lá rụng nữa như hoàn chỉnh thêm diện mạo tâm hồn của một người vợ liệt sĩ đã thanh thản chọn cho mình cách sống vì mọi người (trước hết là mọi người trong gia đình dù đó chỉ là một gia đình đã xưa cũ với chị mà chị hoàn toàn có quyền không phải chia sẻ trách nhiệm nữa): “Bao giờ cậu Cần cưới vợ, cô Phượng ở cữ, cô Lí về, nhớ điện cho tôi lên”.
Đúng như suy nghĩ của ba nhân vật Đông, Lí và Luận: “Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ.” Nhưng đoạn trích đã cho người đọc đến với một nhân vật chị Hoài của hiện tại chứ không phải là của quá khứ. Vẫn còn đó trong mùa tết năm này của tác phẩm sự chu đáo, lo toan, nghĩa tình vẹn toàn của một người dâu trưởng.
Điều đó làm tất cả mọi người trong gia đình ông Bằng đều cảm động. Qua cách miêu tả ấy của Ma Văn Kháng, người đọc cũng bất giác bồi hồi theo tâm hồn nhân hậu, cách sống vị tha, trong sáng nghĩa tình, thuỷ chung của người đàn bà đã một thời là dâu trưởng.
Ma Văn Kháng đã ưu ái dành cho nhân vật đặc biệt này cả hai cách giới thiệu, miêu tả vừa trực tiếp (qua ngoại hình và diện mạo bình dị mà có nét tươi tắn: “một phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len thắt nâu ôm một khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi.”; qua hai con mắt “đậm nỗi bồi hồi” cảnh cũ người xưa; qua ngôn ngữ thô mộc dân dã mà không phải là không tinh tế: “Cô Phượng đấy như?”) vừa gián tiếp (qua hồi ức của mọi người: “Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ.
Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thuỳ mị.”; qua cảm nhận của Phượng trong hiện tại: “Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống cuả gia đình này”). Chín năm chưa gặp lại người cha chồng kính yêu. Phút gặp lại, chị Hoài “gần như không chủ động được mình, chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép…”.
Ma Văn Kháng tinh tế và sắc sảo để chị “kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa” – hai hàng gạch hoa của lễ giáo và sự xa cách của một lần tái giá. Chị thốt lên tiếng “Ông” nghe như một tiếng nấc. Nhưng đến lễ cúng gia tiên, chị Hoài đã thật sự trở về với niềm tin trong trẻo cũ. Người đàn bà đó đã giản dị một cách hồn nhiên để tin rằng chị vẫn là 1 phần nào đó không thể tách rời của cái gia đình xưa cũ. Vì vậy, ngay khi ông Bằng vừa khấn vái và buông tay chắp xong, chị liền “thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực.” để cất lên lời khấn vái tổ tiên.
Có phải chính từ hình tượng này mà Ma Văn Kháng đã muốn nói lên một điều không được nói ra nói tác phẩm: thì ra, con người ta có quyền vừa hội nhập với cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những nét tinh tuý hằng thường của cái xưa cũ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 2
Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Lê Trọng Đoàn. Ông là một nhà văn nhiệt huyết đầy sức trẻ không những thế ông còn là nhà văn đi tiên phong trong quá trình đổi mới văn xuôi Việt Nam năm 1975.
Ông có một khối lượng tác phẩm dồi dào và mang lại nhiều ý nghĩa tiêu biểu như “Mùa lá rụng trong vườn” được trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới.
Đọan trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài – vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về thăm mọi người. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào.
Tác giả đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, trạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa.
Chị Hoài từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”. Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm.
Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị “gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “Ông!”. Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.
Những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt, coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là 1 cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại.
Lễ cũng tất niên tràn ngập không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng “như quên hết xung quanh và bản thể”. Ông thành tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ, cất lên lời vọng tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại bề bộn.
Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu. Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà, nhất là Lí – tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.Có thể thấy, ông Bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy.
Qua một đoạn trích trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, nhà văn Ma Văn Kháng đã thẳng thắn nêu lên những vấn đề nhức nhối của xã hội bấy giờ. Trước thời cuộc đổi mới của đất nước kinh tế khó khăn và những mối quan hệ gia đình rạn vỡ vì những văn hóa mới du nhập. Các giá trị truyền thống như bị xói mòn. Trước tình hình đó nhà văn muốn những con người chúng ta hãy biết giữ gìn những truyền thống văn hóa dân tộc quý báu. Vừa hội nhập cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những giá trị truyền thống.
Bài văn phân tích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” số 4
Sau một thời gian dài dồn sức cho hai cuộc kháng chiến vệ quốc đi đến thắng lợi, nhân dân ta trở lại quỹ đạo đời sống thời bình với muôn vàn khó khăn bỡ ngỡ. Những quy luật bất thường đã làm nên đặc trưng văn hoá thời chiến giờ không còn phát huy ảnh hưởng nữa. Con người phải đối diện với nhu cầu cơm áo. Đời sống dần lộ ra những phức tạp, bất ổn: nhiều chuẩn mực trở nên lỗi thời, mối quan hệ cá nhân – cộng đồng không đơn giản một chiều như trước, đòi hỏi phải được nhận thức lại.
Những biến động dữ dội từ các nước Đông Âu, sự manh nha của nền kinh tế thị trường đầu thập kỉ tám mươi,… làm nảy sinh biết bao câu hỏi nhức nhối về niềm tin, về cách sống. Tất cả đều đang báo trước nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước sẽ được Đảng chính thức phát động năm 1986. Có thể gọi đây là buổi giao thời của hai giai đoạn lịch sử với sự cọ xát, va chạm của các quan niệm, các hệ giá trị cũ – mới.
Nhạy cảm với thời cuộc, một số nhà văn đã kịp thời đưa được hơi thở nóng hổi của hiện thực vào tác phẩm. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng là trường hợp tiêu biểu. Cùng với Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và vài ba nhà văn khác, Ma Văn Kháng đã chuyển mối quan tâm từ bình diện các sự kiện lịch sử – chính trị sang bình diện sinh hoạt thế sự, đưa những trăn trở về văn hóa, đạo đức vào trung tâm soi ngắm, khám phá.
Mùa lá rụng trong vườn như nhiều người đánh giá, là hành trình đi tìm câu trả lời cho vấn đề bức thiết: Mỗi con người, mỗi gia đình sẽ phải sống như thế nào trong hoàn cảnh bộn bề hiện tại ? Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, có thể coi là một áng văn đẹp, chuyển tải thành công những suy tư, trăn trở đầy trách nhiệm của tác giả trước một đô thị đang từng giờ từng phút quẫy cựa, tung phá ra khỏi cái trật tự đã trở nên bức bối trì trệ.
Đây thật sự là những trang tươi sáng, cảm động nhất của cuốn truyện mang đậm sắc thái bi kịch nhân văn này. Từ khi nào, cái gia đình nhiều thế hệ vốn yên ấm, thuận hòa của ông giáo Bằng bắt đầu xuất hiện những vết rạn, rồi lung lay, chao đảo? Vì lẽ gì mà một người vợ đảm đang, rất yêu và hãnh diện về chồng như Lí sinh ra bất mãn với gia đình, lao vào những cám dỗ tầm thường?
Sự “nổi loạn” của Cừ – người con trai thứ tư của ông Bằng – đưa anh ta từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác rồi kết thúc bằng cái chết tuyệt vọng, có căn nguyên sâu xa từ đâu?,… Giữa những bức xúc về đói nghèo, về công bằng, tiến bộ, gây nên “cơn sốt vỡ da” của xã hội thời hậu chiến đang làm lung lay nhiều mái ấm gia đình, có biết bao vấn đề cần được xem xét lại một cách tỉnh táo, trong đó có nhu cầu khẳng định giá trị cá nhân và giữ gìn các chuẩn mực văn hóa.
Câu chuyện khép lại khi những người con ông Bằng, sau đám tang cha, đang cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn lại những rạn vỡ trong các mối quan hệ vợ – chồng, anh – em, chú – cháu,… khá phức tạp. Bức thư tuyệt mệnh đầy ăn năn của Cừ, sự trả giá đau đớn của Lí, lòng vị tha của Hoài, tình yêu trong sáng của Cần và bản lĩnh văn hoá của những trí thức như Cần, Luận, Phượng liệu có hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn?
Đặt khung cảnh ngày Tết sum họp ở phần đầu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, sau sự kiện gia đình vừa nhận tin Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, và mấy anh em Đông, Luận bàn cách giấu cha vì sợ ông Bằng không chịu nổi cú sốc này, Ma Văn Kháng vừa giúp bạn đọc sớm tiếp cận chủ đề tác phẩm vừa tạo được hiệu quả thẩm mĩ đáng kể khi khơi dậy ở người đọc nỗi lo âu và cảm giác nuối tiếc vô ngần trước sự phôi pha, băng hoại của những giá trị cổ truyền, để rồi từ bữa Tết sum họp này đã không còn toả hơi ấm trong gia đình ông Bằng nữa.
Ngày Tết ấy sẽ trở thành biểu tượng cho tình người, cho cái đẹp tâm linh mà con người thời hiện đại phải khắc khoải tìm về để tự cân bằng nhịp sống căng thẳng và quá nhiều lí tính. Khẳng định những giá trị cổ truyền, tác giả muốn đề xuất một định hướng văn hoá làm chuẩn cho sự phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu giải phóng cá nhân, đồng thời lí giải vai trò to lớn của gia đình đối với quá trình hình thành nhân cách con người, gián tiếp đối thoại với quan niệm đạo đức một thời quá nhấn mạnh vào ý thức cộng đồng: “hình như có thời kì người ta có ảo tưởng là có thể coi nhẹ các quan hệ gia đình.
Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em,… hình như không có gì phải bàn bạc nữa” (lời Luận). Khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo Ma Văn Kháng, là “dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang làn phá cuộc sống”.
Chủ đề tư tưởng toát lên từ khung cảnh sinh hoạt thân thuộc mà rất đỗi thiêng liêng. Thiên nhiên cũng chuẩn bị sẵn cho con người tâm thế giao hòa. Bữa cúng tất niên là thời điểm đặc biệt với mỗi người Việt Nam. Nó là sự kết thúc để khởi đầu cho một năm mơ ước và phấn đấu. Người người hân hoan hướng về nguồn cội bày tỏ tri ân và mong được tiên tổ phù hộ độ trì.
Không gian Tết mang đậm màu sắc văn hóa tâm linh ấm cúng mà trang trọng. Cách chọn thời điểm như vậy tập trung được nhiều nhân vật, bộc lộ được nhiều tính cách, tâm sự mà vẫn thống nhất ở định hướng: làm gì để nuôi dưỡng căn cốt văn hoá của con người.
Mô tả 1 ngày Tết sum họp, ngòi bút Ma Văn Kháng như thăng hoa trong nhiệt hứng tạo dựng không khí điển hình của một cái Tết cổ truyền. Từng chi tiết được chọn lựa kĩ lưỡng, từng động tác, từng lời của nhân vật đều có khả năng hé mở tâm tính và tâm trạng. Tết mang đậm màu sắc văn hóa tâm linh với không khí đặc trưng bởi sự ấm cúng, sum họp.
Bữa cúng tất niên trong gia đình ông Bằng rõ ràng là còn phản chiếu nhiều nét đẹp chung của truyền thống dân tộc. Nét đẹp đó hiện ra trên cả bình diện vật chất lẫn tinh thần. Lễ cúng bài bản, trang trọng theo đúng nghi thức với khói trầm ngát thơm, bánh chưng xanh buộc lạt điều, mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xắn rải ngang trước bàn thờ, ngọn đèn dầu lim dim,…
Có sự thành kính nghiêm cẩn, thiêng liêng một dòng chảy mơ hồ mà xao động đến rưng rưng cảm động. Đó là thời khắc giao hoà giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại, thực và ảo, sống và chết, cõi dương và cõi âm, cõi người và cõi hồn, thể xác và tâm linh,… Bức ảnh những thành viên đã khuất trong gia đình (hình ảnh bà Bằng, anh cả Tường) như khơi lại quá khứ, mở ra cuộc giao cảm kì lạ: “Khói hương và khung cảnh trầm tĩnh đưa hiện tại về quá khứ.
Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao”. Giây phút này con người như được thanh tẩy để trở nên tinh khiết, đau đáu niềm hướng thiện.
Lời khấn của ông Bằng là tình cảm thiết tha hướng về cội nguồn bằng tất cả lòng biết ơn trân trọng và tâm nguyện đắp bồi, củng cố mái ấm gia đình giữa bao sóng gió. Trong lời khấn ấy có một sợi dây bí ẩn nối kết mọi người, cả kẻ sống người chết, kẻ có mặt và người vắng mặt: dòng chảy của đạo lí, của tình yêu thương chung thuỷ, của ý thức làm người. Quá khứ không tách rời với hiện tại. Tổ tiên luôn đi cùng con cháu.
Tất cả liên kết thành sức mạnh, thành niềm tự hào và trách nhiệm. Nhà văn đã nhìn ra cái gốc gác, cái nền tảng sâu xa gắn bó mỗi cá thể là truyền thống gia đình. Lời khấn của ông Bằng không chỉ hướng đến tri ân người đã khuất, tri ân tổ tiên mà còn tri ân những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Những từ ngữ cổ kính, mang phong cách tôn giáo hoá (“Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu…”) in đậm dấu ấn nhà nho mẫu mực.
Nhà nho ấy quay trở về cõi thực, dù trong bầu không khí đoàn tụ, ấm cúng cũng không sao giấu được nỗi đau làm tổn hại danh dự tổ tiên. Ông Bằng mắt “cay sè”, lòng “bổn ngộn” khi nghĩ đến người con út tha hoá, tự cô lập mình bằng lối sống bất cần, trở thành kẻ chối từ gốc gác, dối cha lừa vợ. Ông lặng lẽ mà quyết liệt khi gạt tên Cừ (người con lạc loài ấy) ra khỏi lời khấn xin tổ tiên phù hộ.
Có lẽ trong ông, nỗi đau vì truyền thống gia đình bị vấy bẩn còn lớn hơn nỗi đau của người cha mất con. Chi tiết này khiến ngày Tết sum họp năm nay của gia đình ông như là “khúc vĩ thanh” của sự đầm ấm, bình yên, báo trước những bi kịch không lường hết của cuộc sống thời buổi kinh tế thị trường. (Có người nói Ma Văn Kháng đã bày “mặt trận” giữa một gia đình bé nhỏ chỉ có thứ vũ khí thuần tuý là đạo đức và văn hoá với những tác động tiêu cực của cả một xã hội đang trong cơn “trở dạ”).
Có một xúc cảm thật đẹp được gợi lên từ mâm cỗ tất niên: lòng kính trọng tổ tiên, niềm âu yếm dành cho anh em, con cháu, bạn bè, tình yêu cuộc sống, nét tài hoa,… đều được con người gửi vào mâm cỗ ấy (Lí và mọi người đã tính toán công phu, đã nỗ lực hết mình để có thể chu toàn). Nó phải thoả mãn đủ các tiêu chí: đầy đặn gợi sự no ấm, đẹp đẽ gợi sự lịch lãm, sang trọng gợi niềm thành kính;…
Dường như văn hoá ẩm thực của người Việt, mà nổi tiếng là của người Hà Nội đã tập trung trọn vẹn trong mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng: gà luộc, giò, nem, chả, măng hầm chân giò, miến nấu lòng, vịt quay ướp húng lìu, gà tần hạt sen,… Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn ngắm bằng mắt, không chỉ cốt cho no mà còn thưởng thức cái tinh tế, cái tài hoa, cái đảm đang của người làm cỗ, cái kì diệu của hương vị sản vật quê hương xứ sở.
Sức mạnh tâm linh khiến cho các nghi thức cúng bái ngày Tết trở thành thiêng liêng, hấp dẫn. Nó như một dòng chảy thầm thì mà bí ẩn dẫn lối cho con người tìm về nguồn cội, tắm mình trong tình thương yêu, đùm bọc chở che của quan hệ máu mủ ruột rà. Nó hoá giải mọi cách bức thế tục. Sự xuất hiện của chị Hoài và thái độ mừng rỡ vừa vồn vã, sôi nổi, vừa ý nhị, xót xa của mọi người là đỉnh điểm hạnh phúc sum họp.
Bữa cỗ tất niên thành bữa tiệc đoàn viên, bữa tiệc của lòng người. Hoài hiện ra đột ngột không báo trước (chị đã đi bước nữa do anh Tường chồng chị hi sinh từ thời đánh Mĩ) không chỉ đem lại niềm vui ngỡ ngàng cho các thành viên gia đình ông Bằng mà còn khiến người đọc cũng thấy rưng rưng. Hoá ra chỉ cần có tấm lòng, chỉ cần biết nghĩ về nhau là thế giới vụt ấm áp, thơm thảo, là bất hạnh vợi bớt, nỗi đau mất mát được xoa dịu.
Hai người em dâu (Lí và Phượng) ao ước được gặp chị Hoài thì sung sướng, “reo lên”, ríu rít, hồn nhiên như hai đứa trẻ. Phượng “sôi nổi, nồng hậu”, “mừng rỡ”, “nắm tay”,… Lí “ôm chầm” lấy chị “nức nở”. Những lời hỏi thăm, những câu trò chuyện tới tấp,… Mọi người đều muốn biết công việc làm ăn, sức khoẻ của nhau – một cách quan tâm rất giản dị mà hậu tình, xa lạ với thói ích kỉ, lạnh lùng đang có nguy cơ thành phổ biến trong giao tiếp thời hiện đại.
Xúc động nhất là cảnh gặp gỡ giữa ông Bằng và chị Hoài. Ông Bằng sững lại, “mặt thoáng một chút ngơ ngẩn”, mắt “chớp liên hồi”, môi “lật bật không thành tiếng”, như “sắp khóc oà”, “giọng khê đặc, khàn rè”,… Còn chị Hoài thì “gần như không chủ động được mình”, “lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản, gót nứt nẻ thâm đen, giẫm trên nền đá lạnh”, “thốt lên một tiếng như nấc”. (Cái vẻ cuống quýt của Hoài mới đáng quý làm sao! Nếu chị không vì hấp tấp mà quên đi dép, làm sao mọi người thấy hết cuộc sống lam lũ của chị ?).
Nỗi xúc động không chỉ do xa cách quá lâu, hay do sự gặp gỡ bất ngờ mà chủ yếu xuất phát từ tình cha con họ dành cho nhau. Trong niềm vui đoàn tụ, nhói buốt một cái tên, một hình bóng không ai nỡ thốt ra. Hai cha con gặp nhau mà như đang đón nhận lại nhau, như bị cái tình ruột thịt thiêng liêng dẫn dắt một cách vô thức, không sao kiểm soát được hành động và cảm xúc.
Cảnh tượng cảm động này lan truyền ra xung quanh, khiến “Phượng quay mặt đi, mắt ngấn lệ, không nỡ nhìn cảnh gặp gỡ, không nỡ thấy đôi gót chân nứt nẻ của chị Hoài, ngực dội lên những cơn sóng nghẹn ngào và hai cánh mũi se se cay”. Biệt tài của Ma Văn Kháng trong miêu tả tâm lí là lấy cảm xúc này để khơi gợi cảm xúc khác, lấy tình thương để kêu gọi tình thương (Phượng ứa nước mắt trước đôi gót chân nứt nẻ của Hoài còn người đọc ứa nước mắt vì tấm lòng đồng cảm tinh tế của Phượng).
Tình yêu thương biểu hiện qua phút gập gỡ, sum họp của một gia đình đã thể hiện tập trung nét đẹp trong văn hoá ứng xử, văn hoá sống của người Việt Nam: coi trọng đạo lí, tình cảm. Khắc họa không khí chung, nhà văn còn tạo “điểm nhấn” và “dư ba” bằng việc đưa lên “cận cảnh” chân dung những con người có tâm hồn nhân hậu, biết nuôi dưỡng ngọn lửa ấm trong mỗi gia đình (Phượng, Hoài và ông Bằng).
Chị Hoài tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân chất phác, xởi lởi, thật thà nhưng cũng không kém hiểu biết và bao dung. Chị “đẹp người, đẹp nết”, “dù đã có gia đình riêng, những quan hệ riêng và lo toan riêng” nhưng vẫn không quên căn nhà đã từng ghi dấu một thời hạnh phúc và đau khổ của chị, “chị có quyền quên mà không ai được trách cứ”. Chín năm xa cách, chị vẫn nguyên ý thức của người dâu cả, không cho mình quyền quên gia đình người chồng cũ, vẫn giữ liên lạc để biết tình hình của mọi người.
Tạm gác lại công việc bộn bề của gia đình riêng, chị trở lại nhà ông Bằng đúng dịp đón năm mới là bởi chị biết gia đình có chuyện không hay và nhất là “sợ ông buồn”. Hoài khiến Phượng “cảm kích bất ngờ” khi nhận ra “người phụ nữ tưởng như đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này”. Hoài hiện thân cho lối sống trọng nghĩa tình, “có thuỷ có chung”, như tấm gương mà khi soi vào đấy, nhiều người phải giật mình.
Sự xuất hiện của chị tác động mạnh vào các thành viên khác của gia đình ông Bằng. Không chỉ vậy, người phụ nữ ấy bằng tình yêu thương nồng hậu còn gắn kết cả cái gia đình mới của mình với gia đình cũ. Chồng con chị cũng yêu thương và quan tâm tới gia đình ông Bằng. Họ lấy tình nghĩa làm phương châm ứng xử. Tấm lòng trung hậu của họ xoá tan mọi nỗi hoài nghi về quan hệ “khác máu tanh lòng”.
Ông Bằng cũng là một nhân vật lí tưởng của Ma Văn Kháng. Là người luôn lo lắng cho sự bền vững gia đình, hơn ai hết, ông ý thức được những nguy cơ làm suy thoái đạo đức, làm rạn nứt truyền thống quý báu mà ông muốn bảo toàn. Ông thường xuyên trăn trở về mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Nét ưu tư trầm mặc toát lên từ hình dong của ông đồ – một nhà hiền triết, từ cách ăn mặc trầm nghiêm, chỉnh tề, nhưng nhiều hơn cả là từ cách ứng xử, từ lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng mà đắn đo cẩn trọng và một đời sống tâm linh vững vàng.
Những đoạn độc thoại nội tâm của ông thể hiện rõ ý thức di dưỡng tinh thần hướng về cội nguồn văn hoá dân tộc. Ông là mắt xích chính nối kết gia đình ấy với quá khứ và những giá trị nhân văn tốt đẹp. Ông như một biểu tượng của trí thức, bổ sung vào cái văn hoá thôn quê chất phác của Hoài. Hai con người ấy xuất hiện trong đoạn trích để tôn lên vẻ đẹp của nhau và lan toả ánh sáng hướng thiện sang những thành viên khác, hoàn tất trọn vẹn tiêu chí nhân cách mà nhà văn đề xuất.
Ma Văn Kháng không thật sự sắc sảo trong tiểu thuyết, nhưng Mùa lá rụng trong vườn là một thành công quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó xứng đáng được ghi nhận như một tác phẩm chứa nhiều dự cảm sáng suốt về thời cuộc và về văn chương ở thời điểm nó ra đời.
Tác phẩm đánh dấu sự trở về với những đề tài có tính phổ biến trong văn chương nhân loại, sự gia tăng “chất tiểu thuyết” cho tiểu thuyết Việt Nam vốn vừa đi qua một giai đoạn thiên về chất sử thi – lãng mạn. Tác phẩm có cốt truyện và cách kể chuyện khá đơn giản, dung dị. Điều quan trọng là nhà văn đã “bắt” được rất nhạy nhu cầu mới của công chúng: đòi hỏi văn chương phải gần gũi với hiện thực hơn, “đời” hơn.
Trong những chuyện thường ngày, ông phát hiện ra bao điều nghiêm túc, sâu sắc. Từ cảnh sum họp ngày Tết, nhà văn cho chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp của văn hóa truyền thống, thấy vai trò của gia đình như một nền tảng vững chắc của nhân cách cá nhân. Nếu đọc toàn bộ cuốn tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, chúng ta còn thấy nhân vật của Ma Văn Kháng không chỉ được khai thác sâu, tinh tế về mặt tâm lí mà còn được chú ý nhiều ở khả năng tự ý thức, biết sử dụng một thứ ngôn ngữ giàu luận lí nhưng cũng rất cá tính, linh hoạt.
Chất triết lí trong tiểu thuyết của ông không đậm đặc như ở Nguyễn Khải nhưng cũng luôn có ý nghĩa chi phối cách tổ chức trần thuật. Văn của Ma Văn Kháng lột tả khá trung thực cái không khí thời đại mà các nhân vật sống.
Vì tác phẩm chú trọng vào tâm lí nhân vật, nên điểm nhìn trần thuật bắt đầu được di chuyển sang nhân vật. Người kể chuyện nhập vào nhân vật để thuật kể, bình luận và điểm nhìn này thay đổi rất linh hoạt (từ người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt sang Luận, ông Bằng, có lúc là Lí, Cần, Cừ,…). Đây là quan điểm trần thuật hiện đại, mở ra khả năng thể hiện thế giới nội tâm phong phú, tạo sự đa dạng cho điểm nhìn, tăng cường tính dân chủ, kích thích đối thoại.
Đoạn trích dựa trên nền cốt truyện, ít biến cố, mà chủ yếu bộc lộ tâm trạng, tâm linh nên nhịp điệu trần thuật chậm rãi, tương hợp với giọng văn trầm lắng, dạt dào cảm xúc, đậm đặc nghĩa tình. Ngày Tết sum họp kết thúc bằng dư âm của niềm vui, niềm tin tưởng, dù không hoàn toàn nhẹ nhõm, thanh thản.
Ma Văn Kháng đã gửi gắm vào đây quan niệm của ông về chuẩn mực văn hóa gia đình – thứ vũ khí mà mỗi gia đình hiện đại cần phải có để có thể đề kháng, chống chọi lại với những va đập của một xã hội đầy biến động.
Có thể bạn thích: