Lỗ Tấn (1881-1936) là nhà văn cách mạng Trung Quốc. Các tác phẩm của ông đều tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Chủ đề phê phán quốc dân tính trong sáng tác của ông trở nên thấm thía, sâu sắc. Truyện ngắn “Thuốc” rút từ tập “Gào thét” sáng tác năm 1919, trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc chìm đắm trong mê muội, lạc hậu còn những người làm cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với người dân và Lỗ Tấn muốn người dân Trung Hoa nghiêm túc suy nghĩ để tìm ra phương thức chữa trị. Truyện phơi bày tình trạng ngu muội, vô cảm của người dân Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi (1911) và thể hiện lòng khâm phục, xót thương đối với nhà cách mạng đã hi sinh đồng thời thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được bệnh tật của chính mình chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng thì dân tộc đó vẫn còn chìm đắm trong mê muội. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 9
Khi nhắc đến nền văn học Trung Quốc thì chắc có lẽ không thể không nhắc đến Lỗ Tấn, ông là một nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc,là một người mà nhiều chuyên gia đã nhận xét là vừa có tài vừa có đức sinh năm ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân , quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đã tận mắt chứng kiến cha mình bị bệnh vì không có tiền chữa bệnh mà mất đi, ông ôm ấp giấc mơ trở thành một thầy thuốc để có thể chữa bệnh cho những người dân nghèo. Và ông quyết định học ngành y để thực hiện ước muốn của mình.
Trong thời gian ông đi học y ở Nhật Bản thì đã có một sự kiện xảy ra đã làm thay đổi cuộc đời và cả sự nghiệp của ông. Đó là một lần khi xem phim, ông đã chứng kiến những người Trung Quốc hớn hở đi xem người Nhật giết chết một người Trung Quốc yêu nước. Lỗ Tấn đã nhận ra rằng, nếu chữa căn bệnh về thể xác mà bỏ quên căn bệnh về tinh thần thì tương lai người TrungQuốc rồi sẽ “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” mà thôi. Từ đó, ông đã từ bỏ y học để chuyển sang văn học, dùng văn học để cảnh tỉnh, để “chữa bệnh” về tinh thần cho người dân Trung Quốc.
“Thuốc” được ra đời vào năm 1919 ở thời điểm xay ra cuộc vận động phong trào Ngũ Tứ, là phong trào đòi tự do dân chủ của học sinh sinh viên Bắc kinh bùng nổ mạnh mẽ. Thuốc là một tác phẩm và là một liều thuốc để ông chữa căn bệnh cho người dân của đất nước ông, cho xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, cần phải có một liều “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa trị được, nếu không thì sẽ dần u mê và lụi bại và suy tàn không thể tồn tại như nhân vật Thuyên khi bị bệnh lao, đã cố gắng tìm ra một đối chọi thuốc nhưng lại không hề tốt và không chữa được để rồi mất mạng.
Ở trong tác phẩm này, thuốc không phải chỉ là được làm ra từ những dược liệu thông thường mà nó chính là một chiếc bánh bao được tẩm máu người, đặc biệt phải là máu của người tử tù thì mới có hiệu quả, mới có thể giúp lão Hoa chữa được bệnh ,của con trai lão được.
Có lẽ không ai là không biết rằng, máu của người tử tù, đó là máu của những người Trung Quốc yêu nước và chống lại Nhật Bản. để có được phương thuốc ấy đã phải lấy đi tính mạng của những con người đang ngày đêm cố gắng đem tất cả bình sinh của mình ra để bảo vệ cuộc sống của người thân, của những con người u mê, lạc hậu, mê muội đang cố lấy đi tính mạng của họ chỉ vì mê tín dị đoan, cố chấp, thiếu hiểu biết.
Vợ chồng lão Hoa và mọi người trong quán trà cố chấp cho rằng chỉ cần có chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù thì căn bệnh hiểm nghèo của Thuyên sẽ được chữa khỏi. Đặt niềm tin vào một phương thuốc phản khoa học ấy, lão Hoa đã bỏ rất nhiều tiền và công sức để tìm được chiếc bánh bao thần kì ấy, khi ông mang “thuốc” về.
Nó vẫn còn dính máu và đang nhỏ giọt, máu rất tươi, đó là một hình ảnh ghê sợ biết bao, ám ảnh biết cỡ nào mầy mà ông ta và nhiều người trong quán trà của vợ chồng lão đã rất vui vẻ vì nghĩ rằng con mình sắp hết bệnh và khỏe lại như bao người khác rồi. Để khi con trai chết vợ chồng lão cũng chẳng biết vì sao khi đã có thuốc rồi mà thằng Thuyên vẫn chết.
Ngoài ý nghĩa về một than thuốc để chữa căn bệnh lao phản khoa học đã làm cho Thuyên chết sớm, ở đây Lỗ Tấn còn đưa ra căn bệnh cũng đang rất cần có một phương thuốc để chữa, đó là căn bệnh gia trưởng, u mê, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc.
Cha mẹ của thằng Thuyên vì lạc hậu thiếu hiểu biết nên mới tin và cho rằng chỉ cần một chiếc bánh bao có tẩm máu tươi của người tử tù thì Thuyên sẽ hết bệnh và thậm chí còn khỏe mạnh hơn, không chỉ có cha mẹ của thằng Thuyên mà còn có tất cả những người có mặt tại quán trà cũng tin như vậy, họ quá tin vào một chiếc bánh bao tẩm máu khi không hề có một chứng cứ xác thực nào cả.
Họ thậm chí không thèm tìm thử xem có một phương thuốc nào tốt hơn, chắc chắn hơn, có thuốc nhưng lại không phải mất đi tính mạng của người khác không mà họ không hề biết rằng chiếc bánh bao tẩm máu mà họ tìm kiếm ấy, bỏ tiền bạc và công sức để có được ấy thật ra chỉ là một liều thuốc độc mà thôi, nó giết chết một thằng Thuyên bị bệnh lao, hại chết Hạ Du làm cách mạng phải lấy máu tẩm bánh bao, ghê gớm hơn là nó giết chết cả tinh thần của người dân Trung Quốc.
Không chỉ là lạc hậu về phương diện khoa học, mà Lỗ Tấn còn lên án cả về đường lối chính trị của cách mạng của Trung Quốc. Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, chưa hề có một con đường chính xác nào cho cách mạng Trung Quốc và đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc, điều đáng tiếc ấy được thể hiện rất rõ qua nhân vật Hạ Du.
Đó là do sự xa rời nhân dân, không quán triệt cho dân hiểu làm cách mạng mà không gần dân, xa rời dân chúng. Làm cách mạng mà xa rời quần chúng đó chính là cái sai, cái lỗi để dẫn đến sự hi sinh vô ích của Hạ Du, cho dù anh là một người yêu nước, một nhà cách mạng nhưng người dân không hề hiểu và biết điều đó, Họ cho rằng anh là giặc, là tử tù và máu của anh có thể cứu sống được Thuyên.
Máu để tẩm chiếc bánh bao chính là máu người chiến sĩ Hạ Du phải đổ xuống để giải phóng cho nhân dân.Hạ Du đại diện cho một tầng lớp yêu nước và có lý tưởng lúc bấy giờ thế nhưng mọi người lại nhắc đến anh với sự miệt thị và khinh khi, đau đớn hơn là chính chú của Hạ Du lại là người đi báo án để hưởng được số tiền thưởng mà bọn phản quốc đang treo. Nếu có trách thì cũng trách con đường mà Hạ Du đã đi là sai.
Bởi vì nhân dân họ không biết điều mà Hạ Du đang cố gắng làm, thậm chí là mẹ anh cũng không biết con mình làm cái gì, họ chỉ biết anh là một tủ tù và cái tốt nhất từ anh chính là máu, mọi người cho rằng chỉ cần có máu của Hạ Du là bệnh của thằng Thuyên sẽ được chữa khỏi, thế nhưng đâu có phải như vậy. thằng Thuyên ăn bánh bao cũng chết, Hạ Du làm cách mạng sai đường Hạ Du đổ máu vô ích.
Những nhà cách mạng lúc ấy như một vì sao lẻ loi trên bầu trời đêm đen mà không hề có thêm một vì sao ở gần cả. Có lẽ nào Lỗ Tấn còn đang tìm thuốc để khai sáng con đường đi của cách mạng Trung Quốc để đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, giải phóng cho con người lẫn tinh thần của nhân dân Trung Quốc. Qua tất cả những điều ấy cho thấy rõ ràng sự mê muội u tối của người dân Trung Quốc.
Ở cuối tác phẩm, khi hai người mẹ đến thăm mộ con mình, nghĩa trang được chia làm hai phần 1 bên là dành cho tử tù và 1 bên là dành cho người dân nghèo. Bà Hoa đến thăm mộ Thuyên và một lát sau gặp mẹ Hạ Du ngập ngừng đến bên mộ Hạ Du. Con đường phân hai bên nghĩa trang tượng trưng cho chính ranh giới mà con người tự đặt ra.
Hai bà mẹ bước qua ranh giới ấy và an ủi lẫn nhau cho vơi sự đau xót trước sự ra đi của hai người con trai. Sự đồng cảm, ca ngợi lý tưởng của người chiến sĩ Hạ Du qua vòng hoa được đặt bên nấm mộ của anh mà hai người mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy được và không hề biết ai là người đã đặt ở đó.Phải chăng đó chính là ánh sáng nơi cuối đường, le lói con đường đi mới, một liều thuốc mới để đem lại hi vọng cho con người.
Như vậy, Thuốc của Lỗ Tấn không chỉ là thuốc để chữa những căn bệnh về thể chất, mà Thuốc còn là nỗi đau khi chưa tìm ra được một con đường trị “bệnh” cho dân tộc, mù mờ về tương lai của đất nươc khi mà người dân còn ngủ trong nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ, là tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn đối với hiện thực và tương lai của nước nhà.
Qua tác phẩm Lỗ Tấn đã nêu rõ thực trạng u tối của đất nước Trung Quốc và con đường cách mạng đang đi là sai vì nó hiu quạnh, không hề gần gũi với nhưng dân. “Thuốc” đã giúp xã hội Trung Quốc lúc này nhìn lại con đường mà mình đang đi là sai và cần phải tìm ra một con đường, chính sách mới thì mới có thể thành công, mới có một phương thuốc có thể chữa lành căn bệnh cho người dân.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 6
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị tù túng, ngột ngạt của triều đại Mãn Thanh, cùng với sự can thiệp thô bạo của đế quốc, đất nước Trung Hoa rơi vào cảnh khủng hoảng, suy thoái hết sức trầm trọng. Bầu trời chính trị u ám, rối ren đã gieo rắc nỗi bất an, lo sợ vào tâm trí mỗi người dân Trung Quốc khi ấy, khiến họ chìm sâu vào u mê, ngu muội “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn là một bức tranh hiện thực đầy bi kịch về số phận những người cách mạng, vạch trần “căn bệnh tinh thần” của quần chúng, nhân dân.
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc những năm thế kỷ XX. Quê hương ông ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thuở nhỏ chứng kiến người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ước mơ trở thành thầy thuốc. Khi đang theo đuổi con đường lương y, ông đột ngột rẽ hướng để làm một nhà văn bởi ông cho rằng “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”.
Trong các tác phẩm của mình ông không ngại thẳng thắn phanh phui những thói hư, tật xấu của quần chúng, để tìm ra “phương thuốc chạy chữa”, để tự mình vươn lên, để làm nên một dân tộc tự lực, tự cường. Trong toàn bộ những sáng tác của mình, Lỗ Tấn tập trung khai phá những căn bệnh tinh thần khiến cho nhân dân mê muội, tự thoải mãn và dần tha hoá, ngòi bút sắc sảo cùng với thái độ tự phê phán nghiêm khắc của mình nhà văn đã tạo nên những tác phẩm rất sâu sắc và thấm đậm tính nhân văn.
Thuốc được viết năm 1919 đúng vào phong trào chống đế quốc phong kiến, đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh bùng nổ. Nói về căn bệnh “đớn hèn” của quần chúng và những người cách mạng thì lại xa rời nhân dân. Tác phẩm như hồi chuông cảnh báo : “Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu lấy dân tộc”.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã gây ấn tượng trong lòng người đọc bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn và súc tích: “Thuốc”. Không bằng những từ hoa mỹ hay cầu kỳ nhưng nhan đề đã đã nói lên được giá trị cốt lõi của tác phẩm với nhiều tầng nghĩa khác nhau. “Thuốc” ở đây có thể hiểu theo nghĩa thực trần trụi của nó – một chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Máu người có thể chữa bệnh ho lao? Sao lại có một lối suy nghĩ vừa quái dị, lạc hậu, mê tín và cực kỳ phản khoa học đến thế!
Nhà văn liên tưởng đến cái chết của cha, cũng do một ông thầy lang đã bốc để chữa bệnh phù thủng, là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ. Cách chữa bệnh bằng những bài thuốc mê tín của người dân, đã phần nào khắc hoạ được cho người đọc thấy một xã hội Trung Quốc u mê, dốt nát lúc bấy giờ.
Nhan đề tác phẩm không chỉ dừng lại ở nghĩa tường minh mà còn mang nghĩa hàm ẩn sâu sắc tác giả khéo léo gửi gắm vào đó. “Thuốc” dùng để chữa căn bệnh tinh thần: Căn bệnh gia trưởng, căn bệnh mê muội, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì thiếu hiểu biết và gia trưởng đã tự mình áp đặt cho đứa con một phương thuốc thật kinh dị là “chiếc bánh bao tẩm máu người”.
Khi cái chết đang trực chờ, họ lại đặt sự sống con mình vào ngõ cụt, có lẽ Thuyên đã sống sót nếu như được chữa trị đúng cách bởi vì lao là 1 căn bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi. Đáng buồn thay không chỉ vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người trong quán trà đều tin vào điều phi lý ấy. Bánh bao tẩm máu người chẳng phải thần dược như những kẻ ngu muội kia đang đặt hy vọng, mà nó chính là phương thuốc “độc” giết chết đi một mạng người, thế nhưng họ đặt hết niềm tin vào những điều viễn vọng, những sẽ điều không bao giờ xảy ra ấy.
Đất nước Trung Hoa đang nguy khó hơn bao giờ hết, ngay từ trong chính quần chúng nhân dân, họ đang mắc phải 1 căn bệnh tưởng chừng như nguy kịch không thể cứu chữa “u mê, lạc hậu về chính trị”. Người dân nô nức đi xem một chiến sĩ cách mạng bị xử tử, họ cho rằng đó là kẻ điên, là giặc và sẵn sàng mua máu anh về làm thuốc.
Người anh hùng dám dấn thân vào sự nghiệp bảo vệ đất nước, anh sẵn sàng hy sinh để cho người dân được hưởng tự do, độc lập. Ấy vậy mà khi anh nằm xuống, những con người ngu muội kia lại chẳng hề xót thương, trân trọng. Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh của nhân dân và cái sai của người làm cách mạng, họ xa rời nhân dân, không lấy nhân dân làm gốc, chính bởi lẽ đó đã làm cho đất nước ngày càng chìm sâu vào bế tắc, người dân thì u mê trong lối suy nghĩ tầm thường, lạc hậu.
Có thể nói nhan đề “Thuốc” đã gói trọn hết hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, là chủ đề tư tưởng bao trùm cả tác phẩm, nó nói lên nỗi trăn trở, xót xa của tác giả trước tình cảnh đất nước lâm nguy: Người dân không gắn bó với cách mạng, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Tác giả dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện vào “một đêm mùa thu” khi trời đã nhá nhem sáng, ngoài đường lúc này thật vắng lặng, ảm đạm không một bóng người “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ cả”. Lão Hoa dậy từ sớm, rời khỏi nhà từ lúc mặt trời còn chưa mọc đến pháp trường với hy vọng tìm được thứ thần dược cứu đứa con từ cõi chết trở về. Lão bước đều đều trên con đường tối om lạnh lẽo, lòng sảng khoái lạ lùng, lão thấy mình như trẻ lại và “ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh”.
Chẳng phải tự nhiên mà lão Hoa lại vui mừng đến thế, bởi lão nghĩ tới thằng Thuyên ở nhà sắp được cứu sống, đứa con trai duy nhất “mười đời độc đinh” đang mắc căn bệnh lao. Tới pháp trường, khi được tận mắt thấy trông thấy thứ “thần dược” ấy lão thật sự sợ hãi không dám đưa tay ra cầm lấy “chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi” đang nhỏ từng giọt, từng giọt ấy.
Thật đáng sợ biết bao, một chiếc bánh tẩm máu của người chết chém sao có thể trở thành thuốc chữa bệnh? Một người chiến sĩ bị xử tử, không ai xót thương, họ nhẫn tâm dùng máu của anh để đổi chác, họ coi anh như kẻ tội đồ dửng dưng trước cái chết đầy oan ức của người làm cách mạng. Lão Hoa nâng niu gói bánh như “đứa con của gia đình”, để cả tinh thần mình vào đó, tai lão lúc này chẳng nghe được gì nữa, chỉ duy nhất tiếng con trai đang chờ lão quay về.
Cái bánh bao loang lổ máu được bà Hoa gói vào trong một lá sen già và nướng trong bếp lửa thành một thứ “tròn tròn, đen đen”, vẫn một mực tin tưởng vào sự thần kỳ của vị thuốc quái dị kia “Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay”. Vợ chồng lão Hoa đứng trố mắt nhìn nhau, tin tưởng không một chút hoài nghi, chỉ cần ngủ một giấc dậy đứa con sẽ lại khoẻ mạnh như xưa. Tình yêu sâu sắc đối với đứa con duy nhất đã làm cho đôi vợ chồng già trở nên mê muội, mù quáng, vừa đáng thương vừa đáng trách.
Cũng chẳng riêng gì vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người đều tin vị thuốc phản khoa học, bác Cả Khang nói chắc như đinh đóng cột “cam đoan thế nào cũng khỏi”, các vị khách trong quán trà đều phụ hoạ theo “thứ thuốc này đặc biệt lắm”, “nhất định sẽ khỏi thôi mà”,… Những lời khẳng định chắc nịch của mọi người dường như gieo thêm đầy sự tin tưởng cho gia đình người chủ quán, không ai bàn tán gì thêm bởi họ nghĩ thằng Thuyên sẽ khỏi bệnh không thể nào khác đi được.
Vậy mà cuối cùng Thuyên cũng chết, cái chết đầy xót xa bởi nó giao hết sự sống của mình cho cha mẹ định đoạt, nó chẳng hề biết được rằng chính “chiếc bánh bao tẩm máu người” kia đã gián tiếp cướp đi sinh mạng mình. Nhà văn Lỗ Tấn đã vạch trần hiện thực đất nước Trung Quốc, dưới sự thống trị nhà Thanh đã đẩy người dân vào cuộc sống đầy bế tắc, chìm sâu vào những mê muội, lạc hậu. Bệnh tật không thể chữa được bằng phương pháp mê tín, mị đoan mà phải có một phương thuốc đặc hiệu.
Không cần dùng nhiều câu văn để miêu tả, Lỗ Tấn đã khéo léo lồng ghép vào trong cuộc nói chuyện của những người trong quán trà, một nhân vật người chiến sĩ cách mạng anh dũng với tên Hạ Du. Một trong số những người dân có tư tưởng sớm giác ngộ, anh chọn cho mình một lối đi hướng tới cách mạng, dám hy sinh thân mình cho đất nước, cho dân tộc. Thế nhưng trong mắt quần chúng anh chỉ là: “thằng quỷ sứ”, “nhãi con”, “khốn nạn”, “điên”…
Ngay cả người chú ruột không nghĩ tới tình thân, lại đứng ra tố cáo cháu mình chỉ để đổi lấy hai mươi lạng bạc, họ tiếc cái áo hơn cả mạng sống con người, thậm chí lúc đã nằm xuống nơi pháp trường thì máu anh cũng dùng làm vật để họ trao đổi mua bán. Quả là một tình cảnh bi hài, trớ trêu người chiến sĩ bị gọi là giặc trong chính đất nước mà anh bảo vệ.
Tình cảnh Trung Quốc lúc bấy giờ như một kẻ bệnh tật đang đứng bên bờ cái chết, cần một liều thuốc đặc trị để thoát khỏi nạn vong quốc. Hình tượng người tử tù Hạ Du đã lên án, tố cáo gay gắt tình trạng suy thoái của đất nước, sự u mê của quần chúng về chính trị, sự xa lánh thoát ly ra khỏi quần chúng của người làm cách mạng.
Không gian trong truyện được bao trùm bởi sự bế tắc, u ám, lạnh lẽo, tuy nhiên thời gian trong truyện được Lỗ Tấn miêu tả có sự chuyển biến từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân “Tiết thanh minh” năm ấy, điểm nhìn của tác giả xuôi theo mạch suy tư lạc quan, niềm hy vọng về tương lai tươi đẹp của đất nước. Con đường mòn nhỏ hẹp, quanh co, người đi mãi cũng thành đường, từ lâu đã trở thành “ranh giới tự nhiên” giữa mộ những người chết chém, chết tù và mộ những người nghèo.
Cái ranh giới từ lâu đã hằn sâu trong lòng nhân dân, là sự phân biệt giữa những cuộc đời khác nhau lối suy nghĩ. Ngay cả mẹ Hạ Du cũng không hiểu được con mình, khi có người bắt gặp, bà chững lại không dám bước tới mộ con, sắc mặt “đỏ lên vì xấu hổ”. Con đường mòn kia dường như chẳng còn tồn tại khi bà Hoa sang bên kia phía trái con đường để an ủi, chia sẻ nỗi đau mất con với mẹ của Hạ Du.
Một vòng hoa nhỏ xuất hiện trên mộ Hạ Du, có thể là do một người dân đặt đó để tưởng nhớ đến công lao, sự hy sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng là tấm lòng thương xót, biết ơn của nhà văn dành tặng với một niềm hy vọng vào một đất nước Trung Quốc trong tương lai tươi sáng hơn.
Với ngòi bút cô đọng, súc tích, lối viết giàu hình ảnh sinh động, chân thực Lỗ Tấn đã gợi lên trong lòng người đọc những suy nghĩ băn khoăn về tình cảnh đất nước Trung Hoa thuở bấy giờ. Lỗ Tấn nhà văn lỗi lạc, là “linh hồn của dân tộc”, ông đã khóc trước “nỗi đau của dân tộc” trong từng tác phẩm của mình, với Thuốc là một truyện ngắn mang kích thước của một truyện dài, để lại giá trị lịch sử vô cùng to lớn cho đất nước.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 2
Người nổi tiếng bởi quan điểm: “Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần” không ai khác chính là Lỗ Tấn. Là một nhà thơ tiên phong và là tấm gương noi theo của nhiều thế hệ, Lỗ Tấn đã có sự nghiệp văn nghệ không nhỏ. Ông là người đã khai sinh ra nền văn học cách mạng Trung Quốc. Với phong cách trong nóng ngoài lạnh, các tác phẩm của ông đều để lại những bài học sâu sắc. Và trong đó là ” Thuốc”.
“Thuốc” được sáng tác vào năm 1919 khi xã hội Trung Quốc là nước thuộc địa nửa phong kiến, các nước đế quốc tranh nhau xâu xé, nhân dân an phận chịu nhục, phong trào Ngũ Tứ nổ ra. Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tân thanh niên sau được in trong “Gào thét”. “Thuốc” là sự phanh phui về sự u mê lạc hậu của quần chúng, là bức tranh miêu tả bi kịch của người cách mạng tiên phong và là sự đồng cảm, trân trọng ngợi ca của tác giả đối với những người tiên phong ấy. Trong tác phẩm là hai câu chuyện: câu chuyện mùa thu là mua thuốc – ăn thuốc – bàn về thuốc và câu chuyện mùa xuân – hậu quả của thuốc.
Tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên bởi nhan đề: “Thuốc”. Theo nghĩa thực, nhan đề này chỉ một thứ dược phẩm, thứ thuốc truyền thống chữa bệnh lao: “bánh bao tẩm máu người chết chém” – một thứ thuốc quái đản, mê tín, phản khoa học. Nhưng ý nghĩa nhan đề không dừng lại ở đó. Nhà văn muốn gửi đến người đọc bức thông điệp. Đó là cần phải cảnh tỉnh, cần có một thứ thuốc đặc hiệu để chữa sự u mê, mu muội, vô cảm của quần chúng; chữa trị cho người cách mạng bởi họ chưa thoát khỏi tư tưởng tư sản, còn xa rời, thoát ly quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy nên “thuốc” đã trở thành tác phẩm có tiếng vang lớn thời kỳ này.
Mở đầu bằng câu chuyện lúc “đêm thu gần về sáng”, lão Hoa đến pháp trường để mua thứ thuốc “thần dược” về chữa bệnh lao cho con trai độc đinh của lão. Trên đường đi mua thuốc, tâm trạng lão sảng khoái, trẻ lại như được cải tử hoàn sinh. Vì sao ư? Bởi lẽ lão sắp cứu được đứa con trai của gia đình mười đời độc đinh. Thứ “thần dược” ấy chính là chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Lão để tinh thần vào cái gói bánh ấy nâng niu như đứa con. Mặc dù lúc đầu thái độ của lão còn sợ, run không dám cầm nhưng sau lão sung sướng.
Mua được thuốc rồi, lão đem về cho con trai ăn. Chiếc bánh bao ấy được bọc trong lá sen đem nướng. Quái đản như vậy mà vợ chồng lão Hoa vẫn tin tưởng nói với con: “Ăn đi con!Sẽ khỏi ngay”. Rồi hai vợ chồng lão lại “trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì”. Không chỉ có vợ chồng lão tin vào thứ thuốc này mà những người đang bàn luận sôi nổi ngoài quán trà kia cũng như vậy.
Họ tin nó là một thần dược: “cam đoan thế nào cũng khỏi, nhất định thế nào cũng khỏi, thứ thuốc này đặc biệt lắm”…. Nhưng cuối cùng chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù đã không cứu được con trai lão. Bằng câu chuyện này nhà văn đã vạch trần được sự u mê tăm tối mu muội của người dân lao động lúc bấy giờ. Bánh bao tẩm máu người là thứ thuốc quái đản, gây chết người, thứ thuốc độc, phản khoa học. Muốn chữa bệnh lao phải có một thứ thuốc đặc hiệu.
Song song với câu chuyện xung quanh thuốc của gia đình lão Hoa là chuyện người tử tù Hạ Du. Nhân vật này xuất hiện gián tiếp qua lời bàn luận của các nhân vật. Hạ Du là một thanh niên sớm giác ngộ cách mạng, đấu tranh với tư tưởng “thiên hạ Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Thế nhưng trong mắt mọi người anh chỉ là: “thằng quỷ sứ”, “nhãi con”, “khốn nạn”, “điên”…. Người chú ruột của anh tố cáo cháu mình chỉ để lấy hai mươi lạng bạc. Bác Cả Khang lại coi anh là công cụ bán máu để trục lợi. Lão Nghĩa cũng chỉ tiếc cái áo.
Còn đối với vợ chồng lão Hoa, anh là phương thuốc chữa bệnh cho con trai họ. Tất cả con mắt mọi người đều cho anh là giặc, chết là phải. Một cán bộ cách mạng, một con người đi theo lý tưởng của cách mạng mà lại bị coi là giặc trong cái xã hội mà chính anh bảo vệ. Một nghịch lý đáng nực cười của cái xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Hình ảnh người tử tù Hạ Du đã tố cáo gay gắt tình trạng tê liệt, u mê của quần chúng về chính trị, chỉ rõ sự xa rời thoát ly quần chúng của người cách mạng, khẳng định đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ là một con bệnh thập tử nhất sinh, cần có thứ thuốc để chữa trị, tránh nạn vong quốc.
Cuối tác phẩm là con đường mòn ở nghĩa địa. Cả hai bên “mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Những người chết oan giống con trai lão Hoa và những người phải đổ máu giống Hạ Du đều đã hi sinh tính mạng chỉ vì tập quán, lối suy nghĩ ấu trĩ, mê muội và lạc hậu. Suy nghĩ ấy như con đường mòn nơi nghĩa địa kia. Nhưng thật kì diệu, con đường mòn ấy đã bị xóa bỏ bởi bà Hoa đã sang an ủi mẹ của Hạ Du.
Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du vừa là tấm lòng của tác giả dành cho người liệt sĩ, vừa là sự gửi gắm niềm tin. Một kết thúc có hậu cho tất cả sự hi sinh. Máu của người chiến sĩ đã thức tỉnh được một bộ phận quần chúng, có người đã hiểu cái chết vinh quang của họ và nguyện đi theo họ.
Khép lại truyện ngắn, Lỗ Tấn không khỏi khiến người đọc thôi băn khoăn. Nghĩ về cái xã hội Trung Quốc thời kỳ bấy giờ. Câu chuyện không chỉ đối chọi thuần là truyện mà còn là bức thông điệp, bài học lịch sử mà Lỗ Tấn muốn gửi gắm. Câu truyện đã đến với người đọc nhờ giá tri nội dung sâu sắc ấy.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 4
Lỗ Tấn là một nhà văn Trung Quốc nổi tiếng, văn của ông giàu tính chiến đấu, vừa trữ tình, vừa châm biếm, thể hiện tinh thần lo âu, bi phẫn sâu sắc của thời đại. Ông còn là người phơi bày các hiện tượng bệnh hoạn của xã hội để lưu ý mọi người tìm phương pháp cứu chữa. Truyện ngắn “Thuốc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách ấy, tác phẩm đã kêu gọi mọi người tìm ra phương thuốc chữa khỏi bệnh mê muội của quần chúng và bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng.
Tác phẩm kể về vợ chồng ông bà Hoa Thuyên – chủ quán trà có con trai bị ho lao (một trong những căn bệnh nan y thời đó). Nhờ người giúp, lão Hoa Thuyên tìm đến cai ngục mua nánh bao chấm máu người tử tù mang về cho con ăn, vì cho rằng như thế con sẽ khỏi bệnh. Trong lúc đứa con ăn bánh thì có người khách xuất hiện ở quán trà, họ bàn tán về người tử tù bị chém sang nay là Hạ Du, người chiến sĩ cách mạng kiên cường đã dung cảm, hiên ngang tuyên truyền cách mạng trước khi bị hành hình.
Nhưng không ai hiểu gì về anh ta cả – họ còn cho rằng anh ta bị điên – là làm giặc. Thằng Thuyên ăn xong chiếc bánh bao tẩm máu người không bao lâu thì chết và mộ Thuyên được chôn gần mộ Hạ Du. Năm sau, vào tiết thanh minh, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên đều đến nghĩa trang viếng mộ con, hai bà mẹ cùng một nỗi đau mất con đã đồng cảm cho nhau, họ rất ngạc nhiên khi thất trên mộ Hạ Du có một vòng hoa, vòng hoa ấy gợi lên trong lòng người mẹ biết bao hoài nghi và bối rối.
Nhân vật người chiến sĩ Hạ Du được Lỗ Tấn lấy nguyên mẫu ngoài đời là nữ liệt sĩ Thu Cận – người đồng hương với tác giả. Trong tác phẩm, Hạ Du là người thanh niên sớm giác ngộ cách mạng, anh hi sinh cho Trung Hoa, nhưng không ai có thể hiểu nổi điều đúng đắn mà anh đang làm. Nhân vật Hạ Du xuất hiện gián tiếp, anh chính là người bị chém mà ông Cả Khang lấy bánh bao chấm máu, bán cho vợ chồng Hoa Thuyên.
Anh xuất hiện trong lời bàn tán của những vị khách tới quán uống trà, rằng anh bị chính cậu của mình tố giác để lĩnh tiền thưởng, rằng anh là một kẻ điên, một kẻ làm giặc. Anh được kể lại rằng đến tận lúc ở trong lao, anh vẫn tuyên truyền cách mạng chống nhà Mãn Thanh 1 cách kiên cường, không hề sợ hãi. Hạ Du dung cảm xả thân nhưng máu của anh đã rơi 1 cách vô ích, bởi không ai hiểu ý nghĩa của việc anh làm. Tuy nhiên, anh xứng đáng là một anh hùng, hình tượng nhà cách mạng dân chủ tư sản Trung Quốc trước thời cách mạng Tân Hợi.
Đối với vợ chồng lão Hoa Thuyên, tuy họ lấy máu liệt sĩ làm thuốc chữa bệnh cho con nhưng nhà văn không hề ác cảm với họ mà chỉ có lòng xót thương, xót thương cho những u mê, lạc hậu của họ, của những người dân Trung Quốc lúc bấy giờ. Đối với bác cả Khang, lão Nghĩa mắt cá chép, cụ Ba, cậu Năm Gù, người thanh niên hai mươi tuổi,…, nhà văn tỏ ra thái độ khinh miệt, ghê tởm, nhất là đối với cụ Ba – bà con với Hạ Du, bởi họ vốn không hiểu những việc đáng tự hào mà một người chiến sĩ đã làm, họ chỉ biết a dua, bàn tán và bình phẩm người khác.
Cảnh hai bà mẹ đi viếng mộ con ngày Thanh Minh tiếp tục phơi bày bộ mặt tinh thần lạc hậu của người dân: người cách mạng chôn chung nghĩa địa với những kẻ chết chém, trộm cướp. Người mẹ của chiến sĩ cách mạng cũng cảm thấy hổ thẹn khi con mình bị chôn ở đó, bà không hiểu được ý nghĩa vòng hoa cao đẹp mà tưởng con trai mình vì chết oan khuất mà hiển linh.
Bà mẹ họ Hoa và bà mẹ Hạ Du gặp nhau ở nghĩa địa thể hiện bi kịch của người Trung Quốc. Hoa Hạ là tên gọi của nước Trung Hoa thời xưa, tên gọi thống nhất ấy bỗng chia thành hai nửa không hiểu nhau, máu của Hạ bị Hoa dung làm thuốc chữa bệnh cho con. Cả Hoa và Hạ đều bị tổn hại. Các nấm mộ trong nghĩa địa giống như trong bánh bao trong lễ chúc thọ nhà giàu, như vậy, sự chia rẽ Hoa Hạ chỉ có lợi cho những thế lực nhà giàu mà thôi. Đó chính là bi kịch của đất nước Trung Hoa.
Qua tác phẩm “Thuốc”, nhà văn đã vạch trần sự mê muội của quần chúng khi tin rằng ăn bánh bao tẩm máu người sẽ khỏi bệnh lao. Nhà văn kêu gọi mọi người cần tìm ra một phương thuốc khác, cần một phương thuốc giúp nhân dân nhận ra đó là một thứ thuốc độc giết người chứ không phải là thần dược.
Đồng thời, người dân Trung Quốc cũng phải tìm ra một thứ thuốc để chữa bệnh tinh thần của quần chúng khi cho rằng làm cách mạng là làm giặc, phải có cách chữa căn bệnh mê muội đó của quần chúng và bệnh xa rời quần chúng của những người chiến sĩ cách mạng như Hạ Du.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 5
Khi nhắc đến nền văn học Trung Quốc thì chắc có lẽ không thể không nhắc đến Lỗ Tấn, ông là một nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc,là một người mà nhiều chuyên gia đã nhận xét là vừa có tài vừa có đức sinh năm ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân , quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đã tận mắt chứng kiến cha mình bị bệnh vì không có tiền chữa bệnh mà mất đi, ông ôm ấp giấc mơ trở thành một thầy thuốc để có thể chữa bệnh cho những người dân nghèo. Và ông quyết định học ngành y để thực hiện ước muốn của mình.
Trong thời gian ông đi học y ở Nhật Bản thì đã có một sự kiện xảy ra đã làm thay đổi cuộc đời và cả sự nghiệp của ông. Đó là một lần khi xem phim, ông đã chứng kiến những người Trung Quốc hớn hở đi xem người Nhật giết chết một người Trung Quốc yêu nước. Lỗ Tấn đã nhận ra rằng, nếu chữa căn bệnh về thể xác mà bỏ quên căn bệnh về tinh thần thì tương lai người Trung Quốc rồi sẽ “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” mà thôi. Từ đó, ông đã từ bỏ y học để chuyển sang văn học, dùng văn học để cảnh tỉnh, để “chữa bệnh” về tinh thần cho người dân Trung Quốc.
“Thuốc” được ra đời vào năm 1919 ở thời điểm xay ra cuộc vận động phong trào Ngũ Tứ, là phong trào đòi tự do dân chủ của học sinh sinh viên Bắc kinh bùng nổ mạnh mẽ. Thuốc là một tác phẩm và là một liều thuốc để ông chữa căn bệnh cho người dân của đất nước ông, cho xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, cần phải có một liều “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa trị được, nếu không thì sẽ dần u mê và lụi bại và suy tàn không thể tồn tại như nhân vật Thuyên khi bị bệnh lao, đã cố gắng tìm ra một đối chọi thuốc nhưng lại không hề tốt và không chữa được để rồi mất mạng.
Ở trong tác phẩm này, thuốc không phải chỉ là được làm ra từ những dược liệu thông thường mà nó chính là một chiếc bánh bao được tẩm máu người, đặc biệt phải là máu của người tử tù thì mới có hiệu quả, mới có thể giúp lão Hoa chữa được bệnh ,của con trai lão được.
Có lẽ không ai là không biết rằng, máu của người tử tù, đó là máu của những người Trung Quốc yêu nước và chống lại Nhật Bản. để có được phương thuốc ấy đã phải lấy đi tính mạng của những con người đang ngày đêm cố gắng đem tất cả bình sinh của mình ra để bảo vệ cuộc sống của người thân, của những con người u mê, lạc hậu, mê muội đang cố lấy đi tính mạng của họ chỉ vì mê tín dị đoan, cố chấp, thiếu hiểu biết.
Vợ chồng lão Hoa và mọi người trong quán trà cố chấp cho rằng chỉ cần có chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù thì căn bệnh hiểm nghèo của Thuyên sẽ được chữa khỏi. Đặt niềm tin vào một phương thuốc phản khoa học ấy, lão Hoa đã bỏ rất nhiều tiền và công sức để tìm được chiếc bánh bao thần kì ấy, khi ông mang “thuốc” về, nó vẫn còn dính máu và đang nhỏ giọt, máu rất tươi, đó là một hình ảnh ghê sợ biết bao, ám ảnh biết cỡ nào mầy mà ông ta và nhiều người trong quán trà của vợ chồng lão đã rất vui vẻ vì nghĩ rằng con mình sắp hết bệnh và khỏe lại như bao người khác rồi. Để khi con trai chết vợ chồng lão cũng chẳng biết vì sao khi đã có thuốc rồi mà thằng Thuyên vẫn chết.
Ngoài ý nghĩa về một than thuốc để chữa căn bệnh lao phản khoa học đã làm cho Thuyên chết sớm, ở đây Lỗ Tấn còn đưa ra căn bệnh cũng đang rất cần có một phương thuốc để chữa, đó là căn bệnh gia trưởng, u mê, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc.
Cha mẹ của thằng Thuyên vì lạc hậu thiếu hiểu biết nên mới tin và cho rằng chỉ cần một chiếc bánh bao có tẩm máu tươi của người tử tù thì Thuyên sẽ hết bệnh và thậm chí còn khỏe mạnh hơn, không chỉ có cha mẹ của thằng Thuyên mà còn có tất cả những người có mặt tại quán trà cũng tin như vậy, họ quá tin vào một chiếc bánh bao tẩm máu khi không hề có một chứng cứ xác thực nào cả.
Họ thậm chí không thèm tìm thử xem có một phương thuốc nào tốt hơn, chắc chắn hơn, có thuốc nhưng lại không phải mất đi tính mạng của người khác không mà họ không hề biết rằng chiếc bánh bao tẩm máu mà họ tìm kiếm ấy, bỏ tiền bạc và công sức để có được ấy thật ra chỉ là một liều thuốc độc mà thôi, nó giết chết một thằng Thuyên bị bệnh lao, hại chết Hạ Du làm cách mạng phải lấy máu tẩm bánh bao, ghê gớm hơn là nó giết chết cả tinh thần của người dân Trung Quốc.
Không chỉ là lạc hậu về phương diện khoa học, mà Lỗ Tấn còn lên án cả về đường lối chính trị của cách mạng của Trung Quốc. Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, chưa hề có một con đường chính xác nào cho cách mạng Trung Quốc và đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc, điều đáng tiếc ấy được thể hiện rất rõ qua nhân vật Hạ Du. Đó là do sự xa rời nhân dân, không quán triệt cho dân hiểu làm cách mạng mà không gần dân, xa rời dân chúng.
Làm cách mạng mà xa rời quần chúng đó chính là cái sai, cái lỗi để dẫn đến sự hi sinh vô ích của Hạ Du, cho dù anh là một người yêu nước, một nhà cách mạng nhưng người dân không hề hiểu và biết điều đó, Họ cho rằng anh là giặc, là tử tù và máu của anh có thể cứu sống được Thuyên. Máu để tẩm chiếc bánh bao chính là máu người chiến sĩ Hạ Du phải đổ xuống để giải phóng cho nhân dân.
Hạ Du đại diện cho một tầng lớp yêu nước và có lý tưởng lúc bấy giờ thế nhưng mọi người lại nhắc đến anh với sự miệt thị và khinh khi, đau đớn hơn là chính chú của Hạ Du lại là người đi báo án để hưởng được số tiền thưởng mà bọn phản quốc đang treo. Nếu có trách thì cũng trách con đường mà Hạ Du đã đi là sai.
Bởi vì nhân dân họ không biết điều mà Hạ Du đang cố gắng làm, thậm chí là mẹ anh cũng không biết con mình làm cái gì, họ chỉ biết anh là một tủ tù và cái tốt nhất từ anh chính là máu, mọi người cho rằng chỉ cần có máu của Hạ Du là bệnh của thằng Thuyên sẽ được chữa khỏi, thế nhưng đâu có phải như vậy. thằng Thuyên ăn bánh bao cũng chết, Hạ Du làm cách mạng sai đường Hạ Du đổ máu vô ích.
Những nhà cách mạng lúc ấy như một vì sao lẻ loi trên bầu trời đêm đen mà không hề có thêm một vì sao ở gần cả. Có lẽ nào Lỗ Tấn còn đang tìm thuốc để khai sáng con đường đi của cách mạng Trung Quốc để đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, giải phóng cho con người lẫn tinh thần của nhân dân Trung Quốc. Qua tất cả những điều ấy cho thấy rõ ràng sự mê muội u tối của người dân Trung Quốc.
Ở cuối tác phẩm, khi hai người mẹ đến thăm mộ con mình, nghĩa trang được chia làm hai phần 1 bên là dành cho tử tù và 1 bên là dành cho người dân nghèo. Bà Hoa đến thăm mộ Thuyên và một lát sau gặp mẹ Hạ Du ngập ngừng đến bên mộ Hạ Du. Con đường phân hai bên nghĩa trang tượng trưng cho chính ranh giới mà con người tự đặt ra. Hai bà mẹ bước qua ranh giới ấy và an ủi lẫn nhau cho vơi sự đau xót trước sự ra đi của hai người con trai.
Sự đồng cảm, ca ngợi lý tưởng của người chiến sĩ Hạ Du qua vòng hoa được đặt bên nấm mộ của anh mà hai người mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy được và không hề biết ai là người đã đặt ở đó.Phải chăng đó chính là ánh sáng nơi cuối đường, le lói con đường đi mới, một liều thuốc mới để đem lại hi vọng cho con người.
Như vậy, Thuốc của Lỗ Tấn không chỉ là thuốc để chữa những căn bệnh về thể chất, mà Thuốc còn là nỗi đau khi chưa tìm ra được một con đường trị “bệnh” cho dân tộc, mù mờ về tương lai của đất nươc khi mà người dân còn ngủ trong nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ, là tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn đối với hiện thực và tương lai của nước nhà.
Qua tác phẩm Lỗ Tấn đã nêu rõ thực trạng u tối của đất nước Trung Quốc và con đường cách mạng đang đi là sai vì nó hiu quạnh, không hề gần gũi với nhưng dân. “Thuốc” đã giúp xã hội Trung Quốc lúc này nhìn lại con đường mà mình đang đi là sai và cần phải tìm ra một con đường, chính sách mới thì mới có thể thành công, mới có một phương thuốc có thể chữa lành căn bệnh cho người dân.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 1
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ông là nhà văn cách mạng thế hệ đầu tiên có phương châm và mục đích sáng tác đúng đắn là dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần của quốc dân” – 1 trong các những nguyên nhân quan trọng khiến cho xã hội Trung Quốc trở nên trì trệ và suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương… ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại.
Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế xa rời quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng Ngũ Tứ lúc bấy giờ.
Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng. Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong trào cách mạng Ngũ Tứ – sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện đại.
Sự xâm chiếm và can thiệp thô bạo của 1 số đế quốc như Anh, Pháp, Mĩ, Nhật đã biến Trung Quốc thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Thời vàng son của các triều đại vua chúa đã ở vào dĩ vãng. Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ Tấn : So với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.
Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc – một thứ “thuốc” kinh khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bánh bao tẩm máu tươi của những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cà những bệnh thuộc “tứ chứng nan y” như phong, lao, cổ, lại.
Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua “thuốc” cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh. Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém không chữa được bệnh lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc đinh của vợ chồng lão Hoa vẫn chết.
Ngòi bút của Lỗ Tấn đã đề cập tới một vấn đề đáng lo ngại là tập quán chữa bệnh phản khoa học – 1 trong các những biểu hiện của tình trạng lạc hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong dời sống tinh thần của dân chúng mà nhân vật Thuyên chỉ là 1 trong các muôn ngàn nạn nhân của tập quán hủ lậu ấy.
Tuy nhiên, Lỗ Tấn còn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thuyên tội nghiệp mà lò đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số đông dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, đòi hỏi phải có một thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi ; đồng thời ông cũng chỉ ra rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt, cần phải nhanh chóng phát quang mọi con đường mới.
Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh: Cảnh thứ nhất : Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù. Cảnh thứ hai: Vợ chồng lão Hoa cho con trai (Thuyên) ăn bánh bao tẩm máu nướng. Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa. Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp mộ của tử tù bữa trước.
Mở đầu tác phẩm, tác giả tả cảnh lão Hoa chủ quán trà dậy thật sớm, bảo vợ đưa tiền để đến pháp trường mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù về làm thuốc chữa bệnh lao cho đứa con trai duy nhất. Lỗ Tấn có cách kể chuyện xen miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại có tác dụng kết nối, tạo mạch cho câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian. Chẳng hạn tràng ho không dứt của thằng Thuyên như thúc giục lão Hoa nhanh chóng lên đường lúc trời chưa sáng; hay lòng thương con và niềm hi vọng con sẽ khỏi bệnh khiến cho lão Hoa bước nhanh hơn.
Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, cổ thể cứu mạng đứa con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như bán các món hàng bình thường khác. Ngòi bút tả thực sắc sảo của Lỗ Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra trước mắt.
Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ 1 mình lão Hoa vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều người khác cũng có ý định như lão. Qua chỉ tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến thực trạng đáng lo ngại: số đông dân chúng Trung Quốc đương thời vẫn tin vào những điều nhảm nhí không có cơ sở khoa học, bởi thói mê tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành 1 căn bệnh tinh thần khó chữa.
Ở cảnh hai, niềm hân hoan, tin tưởng và hi vọng của lão Hoa mỗi lúc một dâng cao. Về đến nhà, lão cùng với vợ vội vàng chế biến “thuốc cải tử hoàn sinh” rồi cho con trai ăn chiếc bánh bao tẩm máu nướng đen thui. Thuyên cầm chiếc bánh lên nhìn, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận…
Không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng… Lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Tác giả đã thể hiện tài tình diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên nhìn con ăn chiếc bánh bao mà lòng khấp khởi hi vọng, tin rằng con sẽ nhanh chóng khỏi bệnh.
Họ muốn rót vào người con sự sống, đồng thời cũng muốn lấy ra căn bệnh lao đáng sợ mà người đời đã liệt vào hàng “tứ chứng nan y”, ai mắc phải là cầm chắc cái chết. Vợ chồng lão Hoa là những nhân vật vừa đáng thương vì tình phụ tử, mẫu tử của họ thật cảm động, nhưng lại vừa đáng giận bởi họ mê tín đến ngu muội.
Hình ảnh đám đông trong quán trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân thực về “căn bệnh tinh thần” của người trung Quốc. Quán trà lão Hoa là nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thông tin chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.
Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi… và 1 số người khác. Họ là những người thuộc số đống dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ.
Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi : Thứ nhất là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn tôn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì luôn luôn có sẵn, nhưng còn máu tử tù? Máu tử tù không sẵn nhưng cũng không phải là hiếm, chì cẩn có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có tử tù bị chém.
Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao? Về sự kiện thứ nhất, mọi người đều mừng cho lão Hoa đã may mắn mua được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kì quái ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu : Cam đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột.
Về sự Kiện thứ hai, mọi người đều tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu và dùng những lời lẽ xấu xa nhất để gọi Hạ Du : tên phạm, thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn… Họ coi anh là giặc, là dám vuốt râu cọp, là điên. Họ cho rằng anh bị chém đầu là đích đáng. Họ hả hê như chính mình vừa trừ khử được một kẻ tội đồ. Khi nghe kể đến đoạn Hạ Du bị lão Nghĩa quản ngục đánh cho hai cái bạt tai vì dám rủ lão “làm giặc” thì họ thú quá, cứ nhao nhao nói nói cười cười. Trong khi đó, họ lại xuýt xoa khen cụ Ba đã sáng suốt đem nộp cháu mình cho nhà chức trách, vừa không bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được thưởng hai mươi lạng bạc.
Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để. Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người làm cách mạng là làm giặc”. Họ càng không hiểu gì về mục đích cao cả của cách mạng.
Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc “đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào?
Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng đang tìm đường, ông chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng ông đã dự cảm được một điểu gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện qua hình tượng nhân vật Hạ Du.
Hạ Du tuy không dược tác giả miêu tả trực tiếp nhưng nhân vật này đóng vai trò quan trọng là mắt xích tiên kết toàn bộ câu chuyện và chi phối các sự kiện trong tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Đến phút chót anh vẫn tuyên truyền cách mạng. Hạ Du bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mê muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành động của anh lại bị mọi người hiểu 1 cách sai lạc.
Cụ Đa là người thân cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để láy tiền thưởng. Dân chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm thuốc chữa bệnh. Với những tôn đao phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám dông dân chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến cả mẹ anh cũng không hiểu đúng về con trai mình.
Xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa bày tò thái độ trân trọng và kính phục, vừa ngầm phê phán những người làm cuộc cách mạng Ngũ Tứ xa rời và chưa giác ngộ được quần chúng. Thật xót xa và đau đớn trước hình ảnh người chiến sĩ cách mạng không hòa hợp được với quần chúng và còn bị dân chúng nhìn bằng con mắt miệt thị và giễu cợt. Chính vì thế mà sự hi sinh của họ trở nên vô nghĩa.
Trong phần cuối của truyện, khung cảnh nghĩa địa được Lỗ Tấn miêu tả rất kĩ: Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa là con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người nghèo, ở về phía tay phải.
Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ. Hình ảnh con đường mòn ở đây không chỉ đối chọi thuần là một ranh giới tự nhiên mà nó còn là ranh giới vô hình của lòng người, của những định kiến xã hội. Cảnh nghĩa địa trong đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất: Dư luận xã hội không hề có sự phân biệt giữa những người làm cách mạng hi sinh vì đất nước với những kẻ tội đồ.
Như vậy thì những chiến sĩ cách mạng cũng bị coi là “giặc”. Thứ hai: số người bị chết chém hoặc chết tù cũng nhiều như số người bị chết vì nghèo đói. Hình ảnh những ngôi mộ ở nghĩa trang nhiều như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ là một hình ảnh so sánh mỉa mai, gợi lên thực trạng xã hội phong kiến Trung Hoa vừa đen tối vừa tàn bạo thời ấy.
Lỗ Tấn còn gửi gắm một hàm ý khác nữa trong hình ảnh con đường mòn chia đôi nghĩa địa: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất gần. Những người làm cách mạng là ai nếu không phải là tầng lớp nghèo khổ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, không còn con đường nào khác là phải tự vùng lên để giải phóng cuộc đời mình? Nếu như lúc còn sống họ chưa thật sự hiểu nhau, gắn bó với nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi họ được ở gần nhau.
Hai bà mẹ cùng ra thăm mộ con trong tiết Thanh minh. Đó là bà Hoa, mẹ của Thuyên và bà mẹ của Hạ Du – tử tù chết chém. Bà Hoa đặt lễ vật trước mộ con, khấn vái rồi khóc lóc một hồi. Bà kia cũng làm như vậy trước mộ con mình, chỉ khác là mộ của Thuyên ở bên phải đường mòn, còn ngôi mộ kia thì nằm bên trái đường mòn, gần như đối diện nhau. Tình huống này đã tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Cả những người đã chết và những người đang sống đều là nạn nhân đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc hủ bại, bế tắc đương thời.
Câu hỏi đẩy ngạc nhiên và băn khoăn của bà mẹ Hạ Du: Thế này là thế nào ? khỉ nhìn thấy trên nấm mộ con trai mình có những cánh hoa trắng hoa hồng… không nhiêu lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy thể hiện thái độ khó hiểu của bà mẹ trước hành động tham gia cách mạng và cái chết bi thảm của con trai mình; đồng thời chất chứa cảm xúc chua xót, đau khổ và tự trách.
Đó không chì là câu hỏi dành riêng cho bà mẹ Hạ Du mà còn dành cho tất cả mọi người. Ai đã đến đây? Chắc chắn đó là đồng chí của Hạ Du, hoặc là người có cảm tình với cách mạng. Họ đã bất chấp luật lệ nghiệt ngã của chính quyền, vẫn can đảm bày tỏ tỉnh cảm của mình đối với cách mạng. Họ dám đến viếng mộ anh và còn kính cẩn đặt lên đó một vòng hoa tươi: …hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum.
Một trong số những người không sợ liên liên chính là Lỗ Tấn. Nhà văn đã bày tò thái độ kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách mạng Ngũ Tứ. Ông đã đặt vòng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó cũng là cách ông nêu ra vấn đề cấp thiết là phải có một phương thuốc đặc trị để cứu chữa “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Phương thuốc đó quyết không phải là cái gì khác ngoài con đường cách mạng, nhưng không nửa vời như cuộc cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.
Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du còn chứng tỏ nhà văn Lỗ Tấn vẫn ấp ủ hi vọng vào ngày mai tươi sáng, cho đù những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ đang bị chính quyền ráo riết khủng bố và bản thân tác giả cũng đang ở tâm trạng đau đớn, bàng hoàng. Nó làm cho cái chết của Hạ Du bớt phần bi thảm bởi vì dù sao thì cũng có người xúc động và hiểu được phần nào ý nghĩa cái chết của anh. Đó cũng là niềm an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ).
Câu chuyện về Thuốc được miêu tả ở hai thời điểm là mùa thu và mùa xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, đồng nghĩa với sự tàn lụi. Hai cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi đau mất con dường như đã đồng cảm với nhau.
Đặt câu chuyện vào thời điểm của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ, một mùa có tính chất hồi sinh, tốc giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi thay tất yếu. Dù không có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách kết cấu và thời gian nghệ thuật đầy ý nghĩa tượng trưng, tác giả đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin, một niềm hi vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc mình.
Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho bút pháp hiện thực tỉnh táo, khách quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện dung dị nhưng độc đáo ở khả năng lựa chọn các tình tiết, ở cách sắp xếp thời gian nghệ thuật và đặc biệt là ở khả năng tạo ra tính đa nghĩa của ngôn từ và hình tượng. Câu chuyện có chung một âm điệu trầm buồn thể hiện sự suy tư, lo lắng, day dứt đầy tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc mình.
Có thể coi tác phẩm này giống như con dao mổ sắc bén trong tay một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc và Danh nhân văn hóa thế giới.
Bài văn phân tích tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn số 8
Thuốc là một truyện ngắn nhưng hàm chứa một nội dung lớn lao và sâu sắc. Nói như nhà văn Nguyễn Tuân là có kích thước của truyện dài. Nó khơi dậy nỗi ưu quốc ưu dân. Nó đánh trúng căn bệnh trầm kha của dân tộc Trung Quốc.
Có thểcoi đây là một bức tranh thu nhỏ về xã hội Trung Quốc tối tăm đầu thế kỉ XX với các đường nét sẫm màu về hai cái chết (của thằng bé chết bệnh và của người cách mạng bị xử chém), về hai bà me đau khổ, về chiếc bánh bao tẩm máu, về nghĩa địa mồ mả dày khít được phán ranh giới bởi một con đường mòn.
Nhân vật chính của truyện là đám đông quần chúng mê muội, người cách mạng Hạ Du chỉ ở tuyến sau và được giới thiệu qua đối thoại giữa đám đông quần chúng. Truyện ngắn Thuốc được viết vào năm 1919, đúng vào lúc cuộc Vận động Ngũ tứ bùng nổ, sau Cách mạng Tân Hợi 1911, cuộc cách mạng mà Lỗ Tấn hiểu rõ những hạn chế của nó. Trên thực tế, cuộc cách mạng này có thành tích là đánh đổ chế độ phong kiến, nhưng cũng có nhiều nhược điểm.
Đó là sự xa rời quần chúng khiến cho quần chúng không được tuyên truyền giác ngộ. Mặt khác lại nửa vời, thay thang không đổi thuốc, cội rễ của chếđộ phong kiến không bị đánh bật, đời sống xã hội không có gì thay đổi. Những điều này Lỗ Tấn đã miêu tả 1 cách sinh động và hình tượng trong AQ chính truyện. Trong Thuốc, qua nhân vật Hạ Du, Lỗ Tấn bày tỏ sự kính trọng và lòng thương cảm sâu sắc đối với những chiến sĩ tiên phong của Cách mạng Tân Hợi.
Trước tiên, đó là bạn bè đồng hương Thiệu Hưng cùng ôm mộng “cải tạo nhân sinh”, cùng Đông du sang Nhật để học hỏi công cuộc Duy Tân, rồi gia nhập tổ chức cách mạng Đồng Minh Hội của Tôn Trung Sơn, rồi về nước tuyên truyền cách mạng và bị khủng bố, bị tàn sát như Từ Tích Lân, Thu Cận, đặc biệt là Thu Cận.
Chính Lỗ Tấn cho biết là ông viết về Hạ Du là đề nhớ về Thu Cận (Hạ đối với Thu, Du và Cận đều thuộc bộ ngọc, là hai loại ngọc). Trong không khí khủng bốcách mạng Tân Hợi, đây là cách né tránh kiểm duyệt. Thu Cận là nhà nữ cách mạng tiên phong thời cận đại, từng du học ở Nhật, tham gia cách mạng rồi bị trục xuất về nước, lập tờ Trung Quốc nữ báo đầu tiên tuyên truyền bình đẳng nam nữ, chống phong kiến quân phiệt.
Bà tham gia chuẩn bị khởi nghĩa với Từ Tích Lân rồi bị bắt và bị hành hình lúc ba mươi hai tuổi (1875 — 1907). Nơi bà bị hành hình là Cô Hiên Đình Khẩu trong thành Thiệu Hưng mà Lỗ Tấn cho là thấp thoáng ẩn hiện trong tác phẩm.
Là nhà văn đã để lại hai phần ba tác phẩm nói về số phận người phụ nữ Trung Quốc, là nhà văn quan tâm sâu sắc đến sự vươn mình của phụ nữ, Lỗ Tấn đã không chỉ một lần nhắc đến Thu Cận. Số phận bi thảm của nhà nữ cách mạng trẻ tuổi này đã khắc sâu trong tâm khảm nhà văn. Nhưng Thu Cận cũng đồng thời là biểu tượng của cả một lớp thanh niên giác ngộ sớm thời bấy giờ. Trong truyện Câu chuyện về cái đầu tóc, Lỗ Tấn đã truy điệu cả một lớp dũng sĩ “bôn ba trong vắng lặng” như vậy.
Ông viết: Có những thanh niên bôn ba vất vả mấy năm ròng, nhưng những viên đạn vô tình đã kết liễu đời họ; có những thanh niên ám sát quan lại, nhưng bắn không trúng, phải chịu một tháng khổ sai ở trong tù; 1 số thanh niên khác thì đang ôm ấp chí hướng cao xa, nhưng rồi bỗng nhiên mất tích, đến xác của họ cũng không biết ở đâu.”
Truy điệu Hạ Du cũng là truy điệu Thu Cận và cả một lớp người cách mạng giác ngộ sớm, cô đối chọi và bị những người đang ngủ mê gọi là điên. Hạ Du nằm trong hệ thống các nhân vật giác ngộ sớm “đi trước buổi bình minh” mà quần chúng ngủ mê gọi là điên như người điên trong Nhật kí người điên, người điên trong Đèn không tắt. Hạ Du dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn, nhưng lại rất có đơn, không ai hiểu việc anh làm, đến nỗi mẹ anh cũng gào khóc kêu anh chết oan.
Quần chúng mua máu anh làm thuốc chữa bệnh cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng muốn thực hiện lí tưởng trời đất nhà Thanh là của chúng ta của Hạ Du thì phải làm gì? Nói cách khác, lúc này cách mạng giải phóng dân tộc phải là một cuộc cách mạng như thếnào thì Lỗ Tấn cũng chưa rõ.
Ông đang hướng về cách mạng vô sản. Bài tập văn Thánh võ (vua sáng nghiệp) được ông viết năm 1918, trong đó ông nhiệt liệt ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga như là “bình minh của kỉ nguyên mới”, ca ngợi nhữngdũng sĩ cách mạng “lấy máu đào dập tắt ngọn lửa, lấy xương thịt làm cùn gươm giáo” là một minh chứng.
Trong truyện Thuốc, ông để cho hai bà mẹ có con chết chém và chết bệnh bước qua con đường mòn cố hữu đến gập nhau và cùng sững sờ trước vòng hoa trên mộ người cách mạng. Nhà văn vẫn vững tin vào tiền đồ cách mạng. Ông nói với mọi người rằng máu người tử tù đã thức tỉnh một bộ phận quần chúng; đã có người hiểu được cái chết vinh quang của họ và nguyện bước tiếp bước chân khai phá của họ.
“Nhưng truyện không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà chỉ đặt ở tuyến ngầm phía sau. Điều này có dụng ý sâu sắc: khi quần chúng chưa giác ngộ thì máu của người cách mạng đổ ra thật vô nghĩa, không được ai chú ý. Truyện đặt sốđông quần chúng chưa giác ngộ vào vị trí chủ yếu để chỉ rõ rằng, mục đích của tác phẩm vẫn là vạch trần sự đầu độc của tư tưởng phong kiến, nhằm thức tỉnh quần chúng đang mê muội.” (Lâm Chí Hạo — Truyện Lỗ Tân)
Thuốc vừa là tiếng Gào thét để “trợ uy cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu”, vừa là sự bộc bạch tâm huyết của một ngòi bút lạc quan tin tưởng: “Riêng về phần tôi, tôi vẫn cho rằng hiện nay, tôi không còn phải là người có điều gì bức xúc, không nói ra không được, nhưng hoặc giả bởi vì chưa thể quên hết những nỗi quạnh hiu, đau khổ của mình ngày trước, nên có lúc không thể không gào thét lên mấy tiếng đế an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở nơi tuyên đầu được vững tâm hơn…” (Lỗ Tấn,Tựa Gào thét, 1922). “Những kẻ dũng sĩ” đây là hình tượng của Hạ Du chăng?
Có thể bạn thích: