Đoàn Giỏi (1925-1989) viết văn từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). Tác phẩm của ông thường viết về thiên nhiên, cuộc sống và con người Nam Bộ. Bài văn “Sông nước Cà Mau” (tên bài do người biên soạn đặt) trích từ chương XVIII truyện “Đất rừng phương Nam” sáng tác năm 1957 là truyện dài nổi tiếng nhất của Đoàn Giỏi. Bài văn cho ta thấy cảnh sông nước Cà Mau có vẻ đẹp rộng lớn, hùng vĩ, đầy sức sống hoang dã. Chợ Năm Căn là hình ảnh cuộc sống tấp nập, trù phú, độc đáo ở vùng đất tận cùng phía Nam Tổ quốc. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài “Sông nước Cà Mau” của tác giả Đoàn Giỏi đã được tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 10
Cảnh vật sống nước Cà Mau được miêu tả theo con mắt của nhân vật chính. Chú bé An trên đường đi tìm gia đình đã lang thang phiêu bạt xuống mãi miền rừng phương Nam này. Nếu tách riêng ra khỏi bối cảnh rộng lớn của tác phẩm thì đây là một đoạn văn tả cảnh rất hoàn thiện.
Cánh được tả theo con mắt của chú bé An. Trời xanh, nước xanh, kèm theo đó là một màu xanh bất tận của cây lá, tiếng rì rào không dứt của gió rừng và sóng biển… Đoạn văn cho thấy tính chất chân thật, tự nhiên của bút pháp miêu tả. Bạn đọc có thể hình dung ra những cánh rừng ngập mặn xanh ngút mắt, những ngôi nhà nhỏ nằm dưới những tán lá um tùm, và đặc biệt là một hệ thống kênh rạch chằng chịt. Khác với nhiều nơi, phương tiện đi lại chủ yếu là xe cộ thì ở đây, kênh rạch nhiều đến nỗi phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền bè. Có nhiều gia đình suốt đời chỉ sống trên những chiếc nhà bè neo đậu ở một bến sông, bến chợ,… Đó chẳng phải là một nét rất lạ, rất độc đáo của miền đất này hay sao?
Đó là một cái nhìn lướt qua tạo những ấn tượng ban đầu. Khi đi sâu vào trong, giọng văn miêu tả không còn vẻ dửng dưng, lãnh đạm nữa. Dường như chú bé đã bị cảnh vật hấp dẫn, cuốn hút. Trí tò mò, ham hiểu biết đã khiến chú phát hiện ra những đặc điểm tưởng như rất bình thường nhưng lại hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Trước hết là những tên gọi: “Ở đây, người ta gọi tên đất, tên sông không phải bằng những danh từ mĩ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên”. Những rạch Mái Gầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía,… mỗi cái tên đều gắn với những đặc điểm cụ thể, sát thực mà | lại ngồ ngộ. Ngay cả những cái tên như Năm Căn, Cà Mau đã rất nổi tiếng, rất quen thuộc, tưởng như lai lịch của chúng đã lùi sâu vào quá vãng cũng được giải thích một cách tường tận, có lẽ ngay cả những người từng sống rất lâu ở miền đất này cũng thấy bất ngờ, ngạc nhiên vì những cái tên gọi ấy.
Điều kì diệu là bạn đọc dường như quên mất mình đang đọc tác phẩm mà cứ nghĩ rằng mình đang ngồi trên một con thuyền nhỏ, dạo qua những rạch, những kênh với những cái tên lạ lẫm và giàu sức gợi cảm này, còn chú bé An thì đang đóng vai 1 hướng dẫn viên tài tình, khéo léo đưa bạn đọc đến với cái thế giới giàu sự tích kia. Sự khéo léo của người hướng dẫn còn ở chỗ, mặc dù chưa nói gì đến con người nhưng qua những cái tên, bạn đọc đã cảm nhận được tính cách của người dân nơi đây. Những con người đặt tên cho con kênh, con rạch không dùng những từ hoa mĩ mà dùng nhữnh từ mộc mạc (Mái Gần, Bọ Mắt, Ba Khía, Năm Căn…) kia chỉ có thể là những con người bộc trực, thẳng thắn, giản dị, chất phác và sống rất hồn nhiên. Đó là tính cách chung của những người dân phương Nam chăng?
Càng đi dần ra phía cửa biển, giọng văn càng trở nên hấp can, lôi cuốn. Chú bé hăng hái thuyết minh, giải thích, đôi khi cao hứng còn dừng lại để tả một cách say sưa. Chú tả dòng sông rộng hơn ngàn thước đang ầm ầm đổ ra biển. Ông kính máy quay lia theo lời chú tả, quay trọn cả cảnh dòng sông Năm Căn hoành tráng với những chi tiết mạnh mẽ, sống động: “cá nước bơi làng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng”. Hai bên bờ sông vẫn là cảnh những rừng cây bất tận nhưng sao khác hẳn lúc ban đầu. Chúng không còn gợi vẻ solo điệu, buồn chán nữa mà thay vào đó là một cảm giác hưng phấn, nồng nhiệt trong cảm nhận về một thế giới đầy sức sống.
Mặc dù được sinh ra một cách tự nhiên nhưng hình ảnh những cây đước “mọc dài theo bãi, theo từng lứa trải rụng, ngon bằng tăm tắp, lớp này chống lên lớp kia không gợi lên cảm giác hoang vu mà rất gần gũi, ấm áp, tựa như có bàn tay sắp đặt khéo léo của ai đó. Đoạn trên chỉ có một màu xanh solo điệu của trời, của nước, của rừng cây, đến đây màu xanh đã phân ra những sắc thái rõ ràng: màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ, mỗi màu xanh là một loài, một thế hệ cây cối nhưng đồng thời cũng tạo nên một bức tranh với những gam màu phong phú, được điểm xuyết thêm bằng những đường nét rất lãng mạn: Tòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai.
Thuyền dừng lại ở chợ Năm Căn. Điểm mấu chốt của cuộc hành trình (và cũng là của đoạn văn miêu tả) này là thế giới con người. Cũng là cảnh chợ búa nhộn nhịp, đông vui, người mua kẻ bán lao xao, tấp nập mà sao ấn tượng khó quên. Những đống gỗ chất cao như núi, những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông, những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi,… Chợ họp ngay trên sông. Có thể mua mọi thứ mà không cần phải bước chân ra khỏi thuyền. Những giọng nói líu lo, những cách ăn vận sặc sỡ của các dân tộc khác nhau điểm tô cho Năm Căn những màu sắc độc đáo.
Đoạn trích hầu như rất ít tả người. Chú bé An (hay là chính tác giả) quá say sưa với cảnh vật mà quên mất con người chăng? Tuy vậy, chúng ta vẫn thấy con người xuất hiện ở khắp nơi. Từ những cái tên kênh, tên rạch, tên đất ngồ ngộ, từ cảnh chợ búa tấp nập, đông vui…, cuối cuộc hành trình, chú bé còn hướng về cận cảnh một vài gương mặt: những người con gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu,… Không ai nói với ta một lời nào, hay có nói thì ta cũng chẳng nghe được bởi rất nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau nhưng qua cách ăn vận sặc sỡ, qua những giọng nói líu lo ấy ta cũng phần nào cảm nhận được cuộc sống của họ, tâm hồn và tính cách của họ và càng bị cuốn hút bởi cảnh sông nước nơi này.
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 3
Cảnh sắc của Việt Nam quê hương ta vô cùng tươi đẹp, đó là vẻ đẹp của non sông gấm vóc, ở mỗi thành phố, mỗi tỉnh thành lại có những vẻ đẹp đa dạng khác nhau, mang đặc trưng của vùng quê ấy. Là vùng đất nằm ở vị trí cuối cùng của mảnh đất hình chữ S, vùng sông nước Cà Mau không chỉ là một vùng địa lí của đất nước mà nó còn là một cảnh quan tươi sắc thu hút nhiều ngòi bút của thi nhân viết về nơi đây. Tiêu biểu lên trong số đó chính là tác phẩm “Sông nước Cà Mau” của nhà văn Đoàn Giỏi. Đây là tác phẩm viết về cảnh tượng tươi đẹp và hùng vĩ của sông nước Cà Mau, đồng thời cũng thể hiện được tình cảm của tác giả Đoàn Giỏi dành cho nơi đây.
“Sông nước Cà Mau” nằm ở chương mười tám của tập truyện “Đất rừng phương Nam”của nhà văn Đoàn Giỏi. Trước hết nhà văn đã thể hiện được một ấn tượng khái quát của mình về vùng sông nước cà Mau, đó là càng đổ dần về hướng Cà Mau thì khung cảnh xung quanh được điểm tô bởi màu xanh của sắc lá, đó là những tán lá xanh ven bờ sông tạo ra một bức tranh hài hòa về màu sắc với màu nước sông cũng như màu sắc của bầu trời. Những sắc xanh của tán lá còn gợi cho người đọc liên tưởng đến sự sống tươi đẹp vùng sông nước. Ta có thể nhận thấy vị trí mà nhà văn Đoàn Giỏi quan sát đó chính là trên dòng sông, có lẽ nhà thơ đang thưởng ngoạn cảnh đẹp trên một con thuyền.
Bởi chỉ có ở vị trí giữa của dòng sông thì nhà văn mới có thể đón nhận trọn vẹn cảnh sắc xung quanh như vậy. Sau khi phác họa những nét khái quát về khung cảnh xung quanh thì nhà văn đi vào miêu tả những địa danh cụ thể của Cà Mau, cụ thể ở đây chính là dòng Năm Căn rộng lớn, mênh mông mà cũng không kém phần hùng vĩ, mang lại cho con người cảm giác choáng ngợp về tầm mắt. Các chi tiết thể hiện được sự hùng vĩ, mênh mông của dòng sông và rừng đó chính là “nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác”, “con sông rộng hơn một ngàn thước”, “Cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên ngụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng”.
Sau đó con thuyền của nhà văn đến chợ nổi Năm Căn, đây là nơi các thuyền chở đầy những loại hoa quả, hàng hóa để trao đổi, buôn bán. Đây cũng là một đặc trưng tiêu biểu của người dân vùng sông nước Nam Bộ. Sông Năm Căn được miêu tả với một không gian rộng lớn, con sông này rộng đến “hàng ngàn thước”, nước ở con sông này cũng dòi dào, đặc biệt nước ở các con kênh, con rạch khác đổ vào ầm ầm như thác nước. Trong văn bản “Sông nước Cà Mau” thì sự đông vui, nhộn nhịp của chợ nổi Năm Căn thể hiện thông qua những chi tiết rất sống động, chân thực.
Đó chính là sự tấp nập, nhộn nhịp của những “túp lều lá solo sơ”, của những “căn nhà gạch hai tầng”, “những đống gỗ cao như núi”, “những cột đáy”, “thuyền chài”, “thuyền lưới”…Sự độc đáo chỉ có ở chợ nổi vùng sông nước, đó chính là chợ họp luôn trên sông, những con thuyền chở đầy ăm ắp những loại hàng hóa, những người chủ thuyền chỉ cần đỡ sát thuyền lại với nhau là có thể trao đổi, mua bán hàng hóa từ tiêu dùng đến ẩm thực. Hơn nữa, Năm Căn còn là nơi tập trung những người bán vải, bán rượu đến từ nhiều nơi khác nhau, có nhiều giọng nói cũng như trang phục khác nhau làm nên nét độc đáo của những khu chợ nổi này.
Không những rộng lớn, hùng vĩ là nơi bắt nguồn của nhiều con kênh,con rạch khác mà sông Năm Căn còn rất đa dạng và phông phú bởi nguồn thủy sản dồi dào “cá bơi hàng đàn” hình ảnh những con cá này thể hiện được sự giàu có hải sản của các con sông nhưng đồng thời nó cũng thể hiện được vẻ đẹp thơ mộng, êm ả của chốn sông nước mênh mông, bát ngát này. Đó cũng chính là sự hòa hợp giữa thiên nhiên đất trời, các loại sinh vật, cảnh vật xung quanh cũng như hoạt động sống, hoạt động lao động của con người vùng sông nước.
Không chỉ miêu tả sông nước mà nhà văn Đoàn Giỏi còn đi vào miêu tả những cánh rừng dựng lên cao ngất như những “dãy trường thành vô tận”, đó là những khu rừng nguyên sinh vừa mang nét hoang sơ vừa mang nét huyền bí thu hút người xem, người nhìn. Ta có thể thấy ở đây nhà văn đã vô cùng tinh tế trong cảm nhận cũng như trong miêu tả lại cảnh sắc của vùng sông nước Cà Mau, theo hành trình xuôi dòng Năm Căn, nhà văn đã miêu tả tuần tự những cảnh sắc cũng như sự vật mà mình cảm nhận được nên ta thấy ở trong những trang văn này cảm xúc rất đỗi chân thực của nhà thơ.
Như vậy, tác phẩm “Sông nước Cà Mau”của nhà văn Đoàn Giỏi đã gởi ra cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về vùng sông nước Cà Mau, thông qua bức tranh ấy độc giả có thể cảm nhận được một cách trọn vẹn không gian hùng vĩ, cảnh sắc thiên nhiên cũng như không gian náo nức, nhộn nhịp nơi chợ nổi. Cách tái hiện của nhà văn vô cùng độc đáo, xuôi theo cuộc hành trình cũng như xuôi theo mạch cảm xúc trữ tình của nhà văn.
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 5
Bài văn Sông nước Cà Mau trích từ chương XVIII truyện Đất rừng phương Nam (1987) của nhà văn Đoản Giỏi. Đây là 1 trong những những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học thiếu nhi nước ta, được nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích. Tác phẩm được in lại nhiều lần, được dựng thành phim khá thành công. Bộ phim Đất Phương Nam ra đời đã chiếm được tình cảm yêu thích của công chúng. Tuy trích từ một tác phẩm truyện nhưng văn bản này có thể xem là miêu tả khá hoàn chỉnh về cảnh quan sông nước vùng Cà Mau ở cực nam của Tổ quốc.
Đoàn Giỏi miêu tả cảnh quan sông nước vùng Cà Mau theo một trình tự: bắt đầu từ những ấn tượng chung về thiên nhiên vùng đất Cà Mau, rồi tập trung miêu tả và thuyết minh về các kênh rạch, sông ngòi với cảnh vật phía hai bên bờ. Cuối cùng là cảnh chợ Năm Căn họp ngay trên sông nước. Với trình tự tự nhiên, hợp lý những hình ảnh trong bài văn được hiện lên như trong khuôn hình của một cuốn phim, lúc lướt nhanh, lúc chậm lại, có đoạn đặc tả cận cảnh, có chỗ lùi xa bao quát toàn cảnh. Điếm nhìn để quan sát và miêu tả của người kể chuyện là “trên con thuyền” xuôi theo các kênh rạch và dừng lại ở chợ Năm Căn.
Mở đầu “cuốn phim” là đoạn văn nêu ấn tượng chung ban đầu về vùng sông nước Cà Mau. Tác giả chưa miêu tả một hình ảnh cụ thể nào mà chỉ là những hình ảnh khái quát được cảm nhận qua thị giác và thính giác của nhà văn. Đó là ấn tượng về một vùng không gian rộng lớn mênh mông với sông ngòi, kênh rạch bủa giăng chi chít như mạng nhện và tất cả được bao trùm trong màu xanh của trời của nước, và tiếng rì rào bất tận của rừng cây, của sóng và gió. “Màu xanh” đã thành một ấn tượng nổi bật: trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, xung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá tạo nên cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh solo điệu. Và tiếng rì rào cũng thành một thứ âm thanh solo điệu, triền miên ru ngủ thính giác: đó là tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối….
Tiếp theo là cảnh kênh rạch vùng Cà Mau được kể lại qua những cái tên lạ và những lời giải thích thú vị: rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía… Qua cách đặt tên, ta thấy thiên nhiên ở đây còn rất tự nhiên, hoang dã, phong phú và con người sống rất gần với thiên nhiên, nên họ giản dị, chất phác ngay từ cách đặt tên cho kênh rạch, đất đai không phải bằng những danh từ mĩ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên.
Dòng sông Năm Căn hiện lên với một vẻ đẹp riêng: rộng lớn, hùng vĩ mà hoang dã. Cải nét rộng lớn, hùng vĩ được nhà văn tập trung miêu tả trong nhiều chi tiết gây ấn tượng: con sông mênh mông rộng lớn hàng ngàn thước, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên, hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận…. Còn cái vẻ “hoang dã” thì được vẽ lại tài tình trong cái màu xanh rừng đước phía hai bên sông với những mức độ, sắc thái khác nhau: Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp :rày chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai.
Những “bậc” màu xanh ấy đã miêu tả các lớp cầy đước từ non đến già, tiếp nối nhau từ bao đời nay vẫn như thế! Nhà văn không những đã quan sát tinh tế mà còn miêu tả lại một cách tài tình bức tranh phong cảnh thiên nhiên, thể hiện qua cách dùng tính từ chỉ màu sắc. Trong cách dùng động từ cũng vậy: thuyền chúng tôi cheo thoát qua kềnh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Các động từ “thoát qua”, “đổ ra”, “xuôi về” đều chỉ hoạt động của con thuyền nhưng không thể thay đổi trình tự các động từ ấy trong câu: “thoát qua” nói con thuyền vượt qua một nơi khó khăn, nguy hiểm; “đổ ra” diễn tả con thuyền từ kênh nhỏ ra dòng sông lớn; còn “xuôi về” là lúc con thuyền nhẹ nhàng xuôi theo dòng nước êm ả trên sông Năm Căn.
Chỉ nửa trang văn mà tác giả đã làm sống lại như thật trước mắt ta cảnh sắc của cái chợ ở vùng đất cuối cùng của Tổ quốc với vẻ đẹp riêng vừa trù phú, vừa độc đáo. Sự trù phú được thể hiện qua khung cảnh rộng lớn, tấp nập, hàng hoá phong phú, thuyền bè san sát, với các chi tiết tiêu biểu: những đống gỗ cao ngất như núi, những bến vân hà nhộn nhịp dọc dài theo sông, những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng sông chiếu rực trên mặt nước mui những khu phố nổi…. Tác giả đã sử dụng thành công biện pháp liệt kê với điệp từ “những” để gây ấn tượng về sự trù phú của chợ trên sông, “những”…, rồi lại “những”… cả đoạn văn có đến 12 chữ “những”.
Tuy nhiên, không chỉ trù phú, chợ Năm Căn còn có vẻ đẹp độc đáo: “một xóm chợ vùng cận biển” có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô trương sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Chợ họp ngay trên sông nước với những nhà bè như những khu phố nối và những con thuyền bán hàng len lỏi mọi nơi, có thể có mọi thứ mà không cần bước ra khỏi thuyền, với sự đa dạng về màu sắc, trang phục, tiếng nói của người bán hàng thuộc nhiều dân tộc: Những người em gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu giang bán vải, những cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sác độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.
“Cuốn phim” được khép lại sau cảnh chợ Cà Mau, nhưng lại gợi ra những suy nghĩ cho người xem. Phải chăng đó là bức tranh Sông nước Cà Mau với những vẻ đẹp riêng độc đáo của nó, tác giả không chỉ đem lại cho độc giả những hiểu biết mới, những phát hiện thú vị về vùng đất này, mà quan trọng hơn, nhà văn đã truyền cho chúng tã tình yêu đất nước để ta càng thêm yêu mảnh đất cực nam của Tồ quốc, bởi một lẽ giản dị rằng: đất nước ta, nơi nào cũng đẹp, cũng đáng yêu !
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 6
Trải khắp mọi nẻo đường trên đất nước Việt Nam, có 54 tỉnh thành. Với mỗi nơi, ta lại cảm nhận được một nét đẹp trong sinh hoạt đời sống và con người của mỗi vùng miền. Ví như, người Hà Nội thanh tao, lịch lãm, lời nói đĩnh đạc đúng mực, hay vùng đất miền trung quanh năm mưa lũ nhưng con người nơi đây lại luôn chăm chỉ, bền bỉ và giỏi giang hơn so với bất cứ vùng đất nào, và miền Nam thì lại là thiên đường nhiệt đới. Đâu đâu cũng có những nét đẹp riêng. Và hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận vẻ đẹp của phía cuối cùng của Tổ quốc- mũi Cà Mau qua tác phẩm Sông nước Cà Mau ( trích Đất rừng phương Nam)- tác giả Đoàn Giỏi nhé.
Cà Mau- vùng đất cuối cùng của tổ quốc là một vùng đất bằng phẳng với rất nhiều kênh rạch và những khu rừng ngập mặn trải dài, bao trùm cả một vùng rộng lớn. Tác giả Đoàn Giỏi đã miêu tả cả nơi đây như có sự hòa quyện, giao thoa giữa những màu xanh: màu xanh lục của cỏ cây, hoa lá, của những cánh rừng ngập mặn, màu xanh trong của làn nước dưới mỗi mạn thuyền hòa lẫn cùng màu thiên thanh của cả vùng trời rộng lớn. Ngày đêm, những cơn gió mang theo âm thanh của đất trời, của núi rừng khiến cho lòng người cảm thấy như được gần gũi với thiên nhiên hơn bao giờ hết. Ở kênh rạch Cà Mau có rất nhiều những con kệnh có những cái tên khác nhau, mỗi cái tên lại có một sự tích, một đặc điểm của riêng nó. Nhưng điểm chung giữa chúng chính là những cái tên ấy vô cùng gần gũi với những người con Cà Mau.
Nổi bật ở nơi đây chính là dòng sông Năm Căn. Tác giả miêu tả dòng sông với hình ảnh rộng lớn và hùng vĩ. Ngày ngày, nước ở con sông lại đổ về biển ầm ầm như thác, mang trong mình biết bao những tài nguyên, những đàn cá lớn hàng đàn giữa những đầu sóng trắng. Thế mới biết, thiên nhiên nơi đây vẫn còn hoang sơ và trong lành tới mức nào. Bao quanh phía ngoài của dòng sông chính là rừng đước với bạt ngàn biết bao những cây đước dựng đứng như thành trì bảo vệ cả dòng sông. Từng hàng, từng hàng nối tiếp nhau như bảo bọc, như thách thức. Đây chính là vẻ đẹp hoang sơ của dòng sông và khu rừng mà hiếm nơi đâu có thể có được.
Bằng con mắt tinh tế và sống động, nhà văn đã sử dụng cả thị giác và thính giác của mình để nhìn ngắm và lắng nghe sự sống trong những cánh rừng đước trải dài kia. Ông đã sử dụng rất nhiều những động từ như “ thoát qua”,” đổ ra”,”xuôi giữa dòng” mà chúng ta đã có được cái nhìn tổng quát về phong cảnh ở nơi đây. Đi qua kênh rạch nơi đây cũng không phải là việc solo giản, có những chỗ dòng nước chỉ nhẹ nhàng trôi, nhưng cũng có những nơi phải khó khăn và vất vả lắm mới có thể đi qua được. Ta cũng cảm thấy như những con kênh rạch này cũng giống như hỉnh ảnh khái quát trong cuộc đời của mỗi người, có những khi chúng ta được dễ dàng làm những điều mình muốn nhưng cũng có những lúc mọi thứ trở nên khó khăn, vất vả.
Không chỉ miêu tả cảnh vật mà tác giả còn tập trung nhìn vào những hoạt động của con người. Đó chính là khu chợ Năm Căn và hình ảnh con người Cà Mau được tập trung miêu tả sinh động. “ chợ nằm sát sông, ồn ào, đông vui, tập nập”, với biết bao hoạt động của con người qua những chi tiết liệt kê như “ những chiếc thuyền đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh trên sóng”. Điều đó đã đủ để cho chúng ta thấy được cuộc sống của những con người nơi đây trù phú và giàu có như thế nào. Ai tới đây cũng có thể mua được tát cả mọi thứ mà có thể không cần phải đi ra khỏi thuyền của mình, bởi những chiếc ghe nhỏ lúc nào cũng len lỏi được vào những góc nhỏ nhất để buôn bán: nào hoa quả, nào vải, nào hoa, giúp cho không khí của chợ Năm Căn càng thêm phần tươi mới, rực rỡ.
Cả đoạn văn là một bức tranh thiên nhiên hoang sơ nhưng cũng rất phong phú, sinh động giúp cho chúng ta càng hiểu rõ hơn về mũi Cà Mau của tổ quốc chúng ta, cho chúng ta càng thêm yêu thêm quý từng tấc đất Việt Nam.
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 1
Đoạn văn Sông nước Cà Mau trích từ chương XVIII trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Qua câu chuyện lưu lạc của một thiếu niên thành phố vào vùng rừng u Minh, tác giả đã đưa người đọc đến với thiên nhiên hoang dã và cuộc sống chân chất của con người ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Có thể xem đây là một bàivăn miêu tả khá hoàn chỉnh. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ở vùng đất mũi Cà Mau hiện lên vừa cụ thể, vừa khái quát thông qua cảm nhận trực tiếp và vốn hiểu biết phong phú của nhà văn.
Mở đầu đoạn văn, tác giả nêu lên cảm giác của nhân vật chính trước vùng đất Cà Mau xa lạ; sau đó miêu tả cụ thể các kênh rạch và con sông Năm Căn rộng lớn cùng cảnh chợ Năm Căn họp ngay trên mặt sông, đông vui và nhiều màu sắc độc đáo. Vị trí của người kể chuyện (nhân vật An) trong bài này là ỏ trên con thuyền xuôi theo các kênh rạch chằng chịt rồi đổ ra sông Năm Căn và cuối cùng dừng lại ở chợ Năm Căn. Suốt cuộc hành trình, nhân vật có điều kiện quan sát một vùng thiên nhiên rộng lớn.
Cảm giác đầu tiên là màu xanh tràn ngập khắp nơi: xanh trời, xanh nước, xanh cây. Trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Trong cảnh sắc tràn ngập màu xanh ấy là tiếng rì rào vọng về của hơi gió muối – tức là âm thanh và hơi thở mặn mòi của miền sông nước Cà Mau. Chúng ta có thể hình dung những hình ảnh trong bài văn hiện lên như trong một cuốn phim, lúc nhanh, lúc chậm. Có đoạn đặc tả cận cảnh, có đoạn lùi xa bao quát toàn cảnh.
Trước hết là cách đặt tên cho các dòng sông, dòng kênh của người dân ở vùng này. Người ta không dùng những danh từ mĩ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên:Chẳng hạn như gọi rạch Mái Giầm, vì phía hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xoà ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi là kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt, đen như hạt vừng…; gọi kênh Ba Khía vì ở đó phía hai bên bờ tập trung toàn những con ba khía, chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây… Còn như xã Năm Căn thì nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian của những người tới đốn củi hầm than dựng nên, cũng như Cà Mau là nói trại đi theo chữ “tức khơ mâu”, tiếng Miên nghĩa là “nước đen”.
Cách đặt tên ấy cho thấy thiên nhiên ở đây rất hoang dã và con người sống gần gũi với thiên nhiên nên rất giản dị, chất phác. Sau khi đi qua các dòng kênh, con thuyền thoát ra kênh Bọ Mắt đổ vào con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng… Hai bên bờ sông, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.
Trạng thái hoạt động của con thuyền ở mỗi cảnh được diễn tả bằng những từ ngữ chính xác và tinh tế. Thoát qua là ý nói con thuyền vượt qua một nơi khó khăn, nguy hiểm; đổ ra diễn tả con thuyền từ kênh nhỏ ra dòng sông lớn; xuôi về diễn tả con thuyền nhẹ xuôi theo dòng nướcở nơi dòng sông êm ả. Màu xanh của rừng đước được tả qua ba sắc độ khác nhau: màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ. Những sắc độ ấy chỉ màu xanh của các lớp cây đước từ non đến già tiếp nối nhau loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai.
Ở đoạn trước, tác giả đặc tả cảnh sông nước Năm Căn; đến đoạn này, ông miêu tả cuộc sống của con người trên sông nước. Chợ Năm Căn rộng lớn, tấp nập, hàng hoá phong phú, thuyền bè san sát: những đống gỗ cao như núi… những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông… những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng-sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi…
Chợ Năm Căn tập trung đặc điểm của các chợ họp trên sông của vùng sông nước Cửu Long. Những con thuyền bán hàng len lỏi mọi nơi, người ta có thể cập thuyên lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ quần áo may sản hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải bước ra khỏi thuyền.
Chợ còn là sự đa dạng về màu sắc, trang phục, tiếng nói của người bán, kẻ mua thuộc nhiều dân tộc: người Việt, người Hoa, người Khơ-me, người Chà Châu Giang. Những người con gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.
Phải là người sống và gắn bó thân thiết với mảnh đất Cà Mau, nhà văn mới cảm nhận và viết được những đoạn văn miêu tả tinh tế, đặc sắc như thế. Bằng ngòi bút miêu tả sắc nét, vừa bao quát, vừa cụ thể, sinh động, qua đoạn văn Sông nước Cà Mau, nhà văn Đoàn Giỏi đã giúp cho người đọc tưởng tượng ra trước mắt cảnh thiên nhiên kì thú của sông nước Cà Mau và càng thêm yêu mến con người ở mảnh đất tận cùng của Tổ quốc.
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 4
“Sông nước Cà Mau” được trích từ chương XVIII trong tác phẩm “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Thông qua câu chuyện về cuộc lưu lạc của một cậu bé thiếu niên thành phố vào vùng rừng U Minh, tác giả đã khắc họa một bức tranh đặc sắc về thiên nhiên hoang dã cũng như cuộc sống của con người nơi tận cùng cực Nam của Tổ quốc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai.
Mở đầu đoạn trích là cảm giác của An – nhân vật chính trước vùng đất Cà Mau xa lạ, sau đó là sự miêu tả cụ thể các kênh rạch, con sông năm Căn rộng lớn và cảnh họp chợ Năm Căn đông vui, độc đáo. Cậu bé An ngồi trên con thuyền xuôi theo các kênh rạch chằng chịt đổ ra sông Năm Căn và điểm cuối là chợ Năm Căn. Suốt cuộc hành trình ấy, thiên nhiên rộng lớn cứ thế hiện ra một cách đầy đủ và chân thực.
Cả một không gian rộng lớn được bao phủ bởi một màu xanh bất tận: xanh trời, xanh nước, xanh cây. Trên là màu xanh của trời, dưới là màu xanh của nước và xung quanh là sắc xanh của cây lá. Trong cảnh sắc tràn ngập màu xanh ấy là âm thanh và hơi thở mặn mòi của vùng đất tận cùng Tổ quốc – sông nước Cà Mau. Những hình ảnh hiện lên lúc nhanh, lúc chậm, hệt như một cuốn phim.
Điều ấn tượng đầu tiên đó là cách đặt tên cho những con kênh, dòng sông của người dân vùng này. Không bằng những cái tên mĩ lệ mà người ta gọi con sông, con kênh theo đặc điểm riêng của chúng. Gọi rạch Mái Giầm vì phía hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên xòe ra độc một cái lá xanh; gọi kênh Bọ Mắt vì tập trung cơ man bọ mắt, đen như hạt vừng…Cách đặt tên ấy cho thấy sự một thiên nhiên hoang dã, con người thì sống hòa hợp, gần gũi với thiên nhiên.
Sau khi phác họa những nét khái quát về khung cảnh xung quanh, nhà văn đi vào miêu tả cụ thể các địa danh cụ thể của vùng sông nước Cà Mau, mà ở đây chính là dòng sông Năm Căn mênh mông, rộng lớn. Đó là sự hùng vĩ của thiên nhiên khiến cho con người có cảm giác choáng ngợp về tầm mắt. Dòng Năm căn mênh mông, “nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác”, “con sông rộng hơn một ngàn thước”, cá bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thế mới thấy được thiên nhiên nơi đây còn hoang sơ và trong lành tới mức nào. Bao quanh dòng sông là rừng đước bạt ngàn. Từng hàng, từng hàng nối tiếp nhau như bảo bọc, như chở che. Bằng con mắt quan sát tinh tế, sử dụng cả thị giác và thính giác để ngắm nhìn và lắng nghe sự sống trong cánh rừng đước trải dài. Bức tranh thiên nhiên thật đẹp và thơ mộng.
Không chỉ miêu tả về cảnh sắc thiên nhiên mà tác giả còn diễn tả về nhịp sống của con người. Đó chính là sự miêu tả về chợ Năm Căn cùng với cảnh sinh hoạt của con người. Chợ năm Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui và tấp nập, là nơi các thuyền chở đầy những loại hoa quả, hàng hóa để trao đổi, buôn bán. Vẫn là những quang cảnh quên thuộc của một khu chợ nổi với những túp lều lá thô sơ nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch hai tầng, những cột đáy, thuyền chai, thuyền lưới dập dềnh trên sóng nước mênh mông. Ngoài hàng hóa, chợ nổi Năm Căn còn là sự đa dạng về trang phục, màu sắc, tiếng nói của kẻ bán, người mua thuộc nhiều dân tộc. Một khu chợ độc đáo, khác biệt so với tất cả các xóm trợ vùng sông nước Cà Mau.
Với ngòi bút miêu tả sắc nét, vừa cụ thể, chân thực, vừa có tính khái quát tác giả đã khắc họa nên một bức tranh về thiên nhiên hùng vĩ và cuộc sống con người đầy vui tươi nơi đất mũi Cà Mau. Phải là người yêu và gắn bó với Cà Mau lắm tác giả mới có thể làm nên bức tranh tuyệt vời đến vậy!
Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài “Sông nước Cà Mau” số 7
Đất rừng phương Nam là một truyện dài viết cho trẻ em của Đoàn Giỏi. Dựa vào bối cảnh thời gian là những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và cốt truyện là chú bé An lưu lạc đi tìm gia đình, nhà văn đem đến cho người đọc bao nhiêu cảm nhận phong phú, bất ngờ, sâu lắng đầy thi vị về cảnh và người, vể vùng đất cực nam của Tổ quốc thân yêu.
Đến với vùng đất ấy, như về với quê hương, một quê hương đôi phần bỡ ngỡ khi nhìn thấy nó đầu tiên, nhưng ngay sau đó là say mê khi được đắm mình vào cái thế giới kì lạ, hấp dẫn lạ lùng. Người, cảnh của một vùng quê như ẩn giấu bao trầm tích đáng yêu, đáng quý cứ mở ra trước mắt chúng ta trong chuyến đi dài ngày của nhân vật. Trích đoạn Sông nước Cà Mau không hề ngắt ngừng dòng chảy của những con sông như sông Bảy Háp, sông Cửa Lớn, sông Năm Căn,… mà nơi nào cũng neo đậu hồn ta như những cái bến hẹn hò với một vùng Đất Mũi.
1.Cửa ngõ của vùng sông nước Cà Mau xác định điểm bắt đầu của nó là khi con thuyền “thám hiểm” (đối với chú bé An nó có ý nghĩa như thế) vượt qua hai địa danh có cái tên lạ hoắc : Chà Là, Cái Keo, những cái tên bí mật như rừng, không thể phỏng đoán mà chỉ gợi liên tưởng tới những gì ẩn sâu trong lòng nó có lẽ còn rất hoang sơ. Quả thật, cái gì ở nơi này cũng không giống bất kì đâu, từ kênh, rạch, sông ngòi, vẫn biết đó là đặc trưng của vùng đất phương nam, nhưng độ đậm đặc của nó thì phải đến nơi này mới rõ. Đây là một hộ thống “mạng nhện” bủa giăng chi chít những dòng chảy nhằng nhịt, liên thông không có điểm khởi đầu và không biết nơi nào là kết thúc.
Nhìn vào cái sa bàn sông nước ấy, ta không khỏi chóng mặt trước một thiên la địa võng. Đúng là một thứ lưới trời. Từ “bủa giăng” gợi sự chủ động của người đánh cá, nhưng chủ thể ấy ở đây lại vô ảnh, vô hình, đồng thời gợi sự bị động của người mắc lưới như con cá cắn câu. Cảm giác này là có thật vì chú bé An trong truyện chưa từng chứng kiến một cảnh quan sông nước nào như thế. Sức hút của sông nước Cà Mau có lực dẫn dây chuyền. Ám ảnh này còn chưa yên thì cái lạ tiếp theo lại ập đến. Ấy là,cái không gian xanh bao bọc, cả trên dưới, cả xung quanh. Đúng là cái điệu xanh điệp trùng đang lặng lẽ cất lên một bản hoà âm về màu sắc.
Đôi mắt của người kể mở ra rất rộng như sự ngạc nhiên : “Trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá”. Câu văn giàu nhạc điệu này đưa con thuyền vào cõi mộng, cõi tiên cảnh Bồng Lai. Cùng với cảm nhận thị giác, một cảm nhận chưa quen như thế, thì cảm nhận thính giác vỗ về như bát ngát một lời ru êm đềm không dứt. Lời ru ngọt ngào và ấm áp bao dung ấy là từ đâu ? Từ “Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về…”. Nghĩa là từ lâu lắm, từ xa xôi. Âm thanh ấy lại là một thứ âm thanh ẩm ướt rất đặc biệt chỉ nơi này mới có, nó mằn mặn (cũng có thể tanh nồng) thổi về “trong hơi gió muối”. “Cái tôi” bị choáng ngợp của người kể chuyện khó khăn lắm mới tách được ra khỏi cái khí quyển dày đặc những cuốn hút lạ lùng.
Bằng mọi cách chống lại, hay là để cưỡng lại sự solo điệu, tẻ nhạt của âm thanh, màu sắc nơi đây (thứ âm thanh solo điệu triền miên cùng với cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh solo điệu), và riêng với âm thanh, nó có gì như khó chịu, như thấp thỏm vì nó “làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người”. Những cảm giác đa chiều đó (có khen, có chê) có tác dụng tôn vinh một vùng sông nước, để rồi khi rời xa nó sẽ “hoá tâm hồn” như cách nói của Chế Lan Viên thi sĩ. Sức hấp dẫn của đoạn văn nguyên khối này còn ở chỗ, người viết cứ cho nó hồn nhiên đi vào ý thức, tâm thức rồi đến một lúc nào đó, lắng lại khi sự tích tụ đã trào dâng, câu văn mới cất lên nlrư một lời tự thú : “Từ khi qua Chà Là, Cái Keo,… rồi bỏ con sông Bảy Háp xuôi thuyền trôi theo dòng, thì tôi bắt đầu có cái cảm giác trên đây…”.
– Còn nhận xét về cách người ta gọi tên đất, tên sông nơi này cũng có “sự tích” hẳn hoi. Chỉ có điểu không phải tên ông hoàng bà chúa, trong sách sử hay truyền miệng dân gian, chỉ solo giản là tuỳ theo đặc điểm sinh thái cây, con, nghĩa là động, thực vật ven bờ mà giản dị đặt tên cho nó. Rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, xã Năm Căn,… không có cái tên dân dã nào nằm ngoài quy luật ấy. Cũng có thể đây là vùng mà cha ông ta đi “mở cõi” mới khai phá chưa có được độ dày của nền văn hiến, về phương diện này, nó còn rất đỗi solo sơ.
2.Sự sống động của vùng sông nước Cà Mau chỉ thực sự bắt đầu từ câu: “Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn…”. Sự sống động này đối lập với cảnh “tĩnh” ở trên. “Sống động” là phải, bởi cuộc hành trình đang bơi nước rút đến cái dấu chấm xuống dòng là ngôi chợ Năm Căn. Cho nên cũng vẫn là một vùng sông nước, nhưng sông khác, nước khác và cây rừng cũng khác. Nói cho thật đúng, con sông đến đây mới thực sự định hình. Con sông Bảy Háp ở đoạn trên có lẽ chỉ là một con sông nhỏ, trong cảm giác của người lữ hành, nó rất dễ bị bỏ quên. Tới con sông Năm Căn này thì khác hẳn. Khác hẳn ở độ rộng “mênh mông”, vì mênh mông mà “nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác”, không giống như con sông Bảy Háp lặng lẽ trôi xuôi, có chăng tiếng rì rào thì đó là âm thanh từ biển Đông và vịnh Thái Lan vọng tới. Đây là một con sông hùng vĩ, trung tâm của sông nước nơi này.
Tư thế đầy chất tráng ca của nó được khẳng định trong những mối tương quan hoặc đối xứng hoặc đối lập rất nên thơ. về tương quan đối xứng, giông như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình trong thơ cổ (ở đây thay cho núi là rừng cây), cảnh ở đây là một bên sông, một bên rừng “ôm lấy dòng sông” như một đôi tri kỉ. Cả hai rất tương xứng vể tầm vóc. Nếu con sông Năm Cãn “rộng hơn ngàn thước” thì rừng đước “dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận”. Hơn thế nữa, hình như để chữ con sông đường bệ kia vừa ý, rừng đước còn bồi đắp cho vẻ đẹp của mình sự chung thuỷ và non tơ. Vì sao ở đoạn trước cũng có màu xanh, nhưng màu xanh không rõ nét, còn bây giờ sự mơn mởn đã hồi sinh. Vẫn là những cây đước nhưng bển bỉ “mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ”.
Rừng đước ở đây như một bản tình ca mượt mà sóng đôi với cái âm hưởng sục sôi của tiếng sóng đổ ra biển của sông Năm Căn “ngày đêm như thác”, về tương quan đối lập giữa cái lớn với cái nhỏ, có thể kể ra mối liên hệ giữa dòng sông mênh mông với hàng đàn cá nước đen trũi “nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng”. Sóng trắng là sóng lớn, gió to, còn đàn cá như bầy trẻ đang nô đùa thoả thích trong ngày hội lớn của bản năng loài cá hoang sơ. Bức tranh vừa rất hiện thực vừa mơ màng như một tứ thơ của Thôi Hiệu thời xưa với sự ẩn hiện của đường nét loà nhoà “trong sương mù và khói sóng ban mai”.
3.Tính chất đặc sản của cả vùng sông nước kết tinh ở phiên chợ Năm Căn mà hai cảnh trên đây là hai thứ thực solo khai vị. Những nét nổi bật của nó chưa phải phút chốc đã vội vã hiện ra. Cái duyên của chợ Năm Căn là cái duyên thầm. Cảm giác “vẫn là” gợi những gì quen thuộc quá, cái quen thuộc của những xóm chợ vùng rừng cận biển của tỉnh Bạc Liêu. Vẫn những kiến trúc nửa quê nửa tỉnh của dân ruộng và dân chợ với “những túp lều lá thô sơ kiểu cổ xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng”, những sản phẩm của rừng (những đống gỗ cao như núi) và dụng cụ của nghề chài lưới bên sông (cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới). Nhưng nếu chỉ thế thì chợ Năm Căn đâu còn có gương mặt riêng ? Nó sẽ mất đi cùng những xoáy nước, những thác nước của sông mà đổ ra biển như chưa hề có mặt bao giờ, còn đâu cái “”bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc”” ? Câu hỏi ấý, sự chờ đợi ấy phải đến lúc này, mới có hồi âm.
Hồi âm ấy đầy ắp sự giàu có và sang trọng, tấp nập đông vui mà tiện lợi, một cảnh quan ngắm nhìn không chán mắt cho tất cả những mê mải kiếm tìm. Nếu trích ra một từ ví như từ “phô phang” làm thừa số chẳng hạn thì nghĩa đầu tiên của tính cách cái chợ này là sự bộc trực. Ấy là sự trù phú cứ lồ lộ như cái bánh bóc trần không giấu giếm, như cái mỏ lộ thiên với bao nhiêu là “những” : những bến vận hà, những lò than hầm gỗ, những ngôi nhà bè ban đêm,… những người con gái Hoa Kiều, những người Chà Châu Giang, những bà cụ người Miên,… nghĩa là không thể nào kể xiết. Lấy sự trù phú làm nền, bao nhiêu nét đẹp khác cứ lấp lánh, cứ lung linh từng tầng, từng vỉa, hết lớp này đến lớp khác. Vẻ sang trọng của những ngôi nhà bè chỉ rực rỡ về đêm như “những khu phố nổi” khi ánh đèn măng sông chiếu rực rỡ trên mặt nước như thực như mơ.
Còn sự tiện lợi đến bất ngờ là ở đây đi thuyền chẳng khác nào đi bộ. Còn gì ung dung hơn cho dân nhậu khi cần một món xào, món nấu Trung Quốc, một đĩa thịt rừng, thậm chí vài cút rượu nữa thì lúc đó, chỉ việc “cập thuyền lại” là xong. Còn đàn bà con gái may mặc, thêu thùa thì từ cây kim cuộn chỉ, một bộ quần áo may sẵn, một món nữ trang đắt tiền,… đều không phải bước khỏi thuyền một bước. Riêng với khách lãng du muốn đi tìm cảm hứng tinh thần sẽ bất ngờ gặp gỡ sự đa dạng của sắc màu và tiếng nói, thôi thì “đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ” của trăm miền tụ họp về đây, về cái xóm chợ Năm Căn nhỏ bé. Chợ Năm Căn, trong mạch kể, nó như 1 điều dừng vừa đạt đến cao trào vừa có độ lắng sâu của cảm nghĩ. Người viết đã hoàn tất vai trò 1 hướng dẫn viên du lịch, đã gieo được ấn tượng vào tâm trí người đọc, người nghe.
4.Về nghệ thuật của bức tranh kí hoạ sông nước Cà Mau này (thật ra là bức tranh liên hoàn tạo thành một hệ thống), ta nhận ra độ đậm nhạt và những nốt nhấn của người hoạ sĩ ngôn từ. Nếu cảnh một là một bức tranh khái quát, nhìn xa thì cảnh hai lại là một cái nhìn cận cảnh với những đường nét đã được cụ thể hoá. Trong thế liên hoàn ấy, xóm chợ Năm Căn là một nốt nhấn. Nó giống như một bông hoa rực rỡ, đỏ tươi làm ấm lại và náo nức hẳn lên đối với người du ngoạn. Còn vè phong cách, căn cứ vào các yếu tố câu văn miêu tả như quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét thì Đoàn Giỏi có nhiều ưu thế về quan sát, nhận xét để từ đó ghi lại những bức tranh phong cảnh khác nhau.
Không có nhiều tưởng tượng, so sánh, tác phẩm không phải vì thế mà mất đi cảm hứng lãng mạn. Bởi tuy sử dụng bút pháp tả thực, nhưng do người viết đã vừa kể, vừa tả, nghĩa là đã gửi gắm tâm hồn mình trong cảnh, những trang vẽ đẹp về thiên nhiên ấy tự nó như bài thơ hay, đầy ý vị, ý ở ngoài lời cứ ngân mãi nơỉ chúng ta trong tâm tưởng.
Có thể bạn thích: