Ở Tiểu học, các em học sinh đã được làm quen với dạng văn miêu tả các con vật. Các em miêu tả những đặc điểm về hình dáng bên ngoài, thói quen sinh hoạt của chúng qua các từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Trong chương trình văn thuyết minh ở Trung học cơ sở, vẫn với đề tài này, các em phải cung cấp nhiều thông tin hơn trong bài văn của mình về nguồn gốc, đặc điểm, giống loài, sinh sản, tập tính, lợi ích,… Để làm tốt dạng văn này, mời các em tham khảo một số bài văn thuyết minh về con vật nuôi mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau.
Bài văn thuyết minh về con cá chép
Cá chép, một loại cá quen thuộc, gắn bó với đời sống nhân dân ta từ xưa đến nay trên phương diện kinh tế và quan niệm tâm linh. Với vị trí địa lí gần biển, nhiều sông hồ, cá chép đã và đang trở thành nguồn lợi lớn cho người nông dân nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản tại nước ta.
Cá chép có nguồn gốc ở châu u và châu Á, hiện đã có mặt ở hầu hết các ao hồ trên thế giới. Chiều dài tối đa của cá chép có thể lên đến 1,2 mét và nặng tối đa 37,3kg. Cá chép nước mặn thường có xu hướng nhỏ và nhẹ hơn cá nước ngọt. Ở Nhật, cá chép còn có giống cá Koi, loại cá chép có màu sắc sặc sỡ, được nuôi làm cảnh.
Cá chép thường có màu vàng, đen, màu sắc sẫm dần về phía vây lưng. Thân cá chép thon dài, hẹp ở hai phần đầu và đuôi. Vảy cá xếp sát nhau tạo thành lớp bảo vệ cho cá khỏi va xước khi di chuyển. Đầu cá chép nhỏ, mắt đối xứng hai bên cùng hệ thống giác quan gồm mũi, miệng và râu. Mang cá áp sát thân, là cơ quan hô hấp để cá thở được dưới môi trường nước.
Ngoài lớp vây bám dọc thân, cá chép có hai vây nhỏ sát mang giúp di chuyển dễ dàng. Đuôi cá hình rẻ quạt, chia đôi đối xứng có chức năng giữ thăng bằng, giúp cá bơi đúng hướng. Trong quá trình bơi, cá chép uốn mình, hai thùy vây đuôi uốn thành hình số tám, đưa thân cá tiến lên phía trước. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vây đuôi, vây lưng và và đôi vây ngực khiến cá chép di chuyển nhanh chóng, dễ dàng.
Cá chép thường ăn những thực vật mềm như rong, rêu, thích sống thành bầy để cùng nhau kiếm ăn. Chúng ăn gần như mọi thứ bơi ngang qua chúng bao gồm các loại thực vật thủy sinh, côn trùng, giáp xác, thậm chí là cả cá chết. Cá chép sinh sản theo mùa, mỗi ổ trứng cá sinh sản được từ ba đến bốn nghìn cá thể cá con. Số lượng cá chép mỗi mùa rất lớn, mang đến nguồn lợi kinh tế cao cho người chăn nuôi.
Cá chép có giá trị dinh dưỡng cao, thịt có vị thơm ngon khi nuôi trong môi trường nước sạch. Vây và đầu cá chép được chế biến thành cá bài thuốc Nam gia truyền. Theo y học, cá chép tốt cho bà bầu và sản phụ sau sinh, giúp lợi sữa, bổ tì vị. Tại Việt Nam, cá chép được nuôi chủ yếu ở sông, hồ, dễ bắt, dễ chế biến thành các món ăn bổ dưỡng như cá chép om dưa, cháo cá chép, rán giòn,…
Về tinh thần, cá chép theo quan niệm dân gian được cho là con vật gắn với biểu tượng sức khỏe dồi dào, trường thọ. Truyền thuyết “cá chép hóa rồng” dùng để nhắc đến sự thi cử đỗ đạt của học trò, sự thành công trong làm ăn, buôn bán. Vào dịp lễ Tết, cá chép được coi là phương tiện rước Táo về trời, kết thúc một năm cũ để chào mừng năm mới an khang, thịnh vượng. Cá chép cũng được chọn làm con vật linh, dùng để phóng sinh khi đi chùa chiền, lễ Phật.
Cá chép là loài động vật gần gũi, thân thuộc với người Việt Nam. Để đảm bảo chất lượng và số lượng cá chép, cần bảo tồn, nuôi trồng có kế hoạch, khai thác hợp lý, điều độ để cá chép có điều kiện và khả năng sinh sản tốt, phục vụ nhu cầu con người.
Bài văn thuyết minh về con bò
Từ những buổi đầu dựng nước, nhân dân ta đã biết tận dụng các con vật được thuần hóa như một công cụ lao động. Theo thời gian, những con vật ấy đã trở thành người bạn thân thiết gắn bó với con người, là cánh tay phải hỗ trợ đắc lực trong quá trình lao động của nhà nông. Những chú bò to khỏe, vạm vỡ là những con vật như thế.
Theo các nghiên cứu thì bò hiện đại đã tiến hóa ra từ một tổ tiên chung là bò rừng châu Âu (B.primigenius). Loài này sống sót cho tới tận thập niên 1600 nhưng chúng đã bị săn bắn đến tuyệt chủng. Bò có ba phân loại chính là Bos primigenius taurus, Bos primigenius indicus và Bos primigenius primigenius. Ở Việt Nam, bò được nuôi ở hầu hết các vùng miền, chủ yếu là bò vàng.
Bò là một loại động vật nhai lại. Bò cũng như trâu, không thể sống và “lưu trú” nếu không có quá trình nhai lại bởi nhai lại không chỉ có chức năng nghiền nát thức ăn mà còn có tác dụng tăng tiết nước bọt, ổn định môi trường dạ cỏ. Thời gian nhai lại khoảng 5 – 8 giờ/ngày đêm, tùy thuộc vào tính chất vật lý của thức ăn.
Khác với gia súc dạ dày đơn, dạ dày bò có 4 ngăn (dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế). Mỗi túi lại có chức năng riêng. Dạ cỏ, dạ tổ ong được xem như phòng lên men yếm khí, tại đây có các quá trình phân giải và lên men các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn.
Ðồng thời các sản phẩm của quá trình lên men được hấp thu qua vách dạ cỏ, các tiểu phần thức ăn có kích thước lớn được ợ lên và nhai lại. Dạ lá sách được xem như hệ thống lọc. Dạ múi khế là dạ dày thực của bò và quá trình tiêu hóa thức ăn tại đây theo phương thức tiêu hóa hóa học bằng men.
Nhờ có bộ máy tiêu hóa như vậy nên bò có khả năng sử dụng và chuyển hóa các thức ăn thô xanh (cỏ, lá cây…), các phế phụ phẩm của nông nghiệp (rơm rạ, thân cây ngô…), công nghiệp chế biến (bã bia, bã dứa, bã sắn…) có giá trị hàng hóa thấp, thậm chí không có giá trị thành các sản phẩm có giá trị cao cho con người (thịt, sữa..).
Bò không chỉ là gia súc ăn cỏ mà còn tự gặm cỏ trên đồng cỏ. Nhờ đặc điểm này nên bò đã giúp con người khai thác tối ưu các nguồn lợi thiên nhiên sẵn có (đồng cỏ, bãi chăn thả..) và lao động dư thừa, ngoài độ tuổi. Nhờ vậy, ngành chăn nuôi bò rất thiết thực và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Bò cung cấp hai loại thực phẩm có giá trị cao đối với con người là thịt và sữa. Thịt bò được xếp vào loại thịt đỏ có giá trị dinh dưỡng cao. Sữa được xếp vào loại thực phẩm cao cấp vì nó hoàn chỉnh về dinh dưỡng và rất dễ tiêu hóa. Ngày nay khi mức sống càng được cải thiện thì nhu cầu của con người về thịt và sữa trâu bò càng tăng lên.
Bò được sử dụng từ lâu đời nay vào mục đích cung cấp sức kéo để làm đất phục vụ trồng trọt. Ngoài việc làm đất, bò còn được sử dụng để kéo xe vận chuyển hàng hóa và các mục đích lao tác khác như kéo gỗ, kéo nước, kéo cối xay, v.v… Lợi thế của sức kéo bò là có thể hoạt động ở bất kỳ địa bàn nào và sử dụng tối đa nguồn thức ăn tự nhiên tại chỗ và các phụ phẩm nông nghiệp làm nguồn cung cấp năng lượng.
Với việc khai thác những vai trò nói trên của bò thì chăn nuôi bò trước kết là một hoạt động kinh tế. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò cho phép khai thác tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, kể cả những nguồn năng lượng có thể tái tạo đang bị bỏ phí gây ô nhiễm môi trường như rơm rạ và các phụ phẩm cây trồng khác, để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao cho xã hội. Chăn nuôi bò do vậy mà đã trở thành kế sinh nhai, là một phương tiện xóa đói giảm nghèo, là công cụ để góp phần phát triển bền vững.
Bò đã đi vào đời sống văn hóa của con người. Ở Ấn Độ, bò như con vật thiêng của tôn giáo. Những chú bò giản đơn nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống. Vì vậy mọi người hãy luôn yêu thương và chăm sóc chúng thật tốt.
Bài văn thuyết minh về con chim bồ câu
Chim bồ câu là giống chim nuôi hiền lành, xinh đẹp, được mọi người ưa thích. Dù ở thành phố hay ở nông thôn, người ta vẫn có thể nuôi được bồ câu.
Tổ tiên bồ câu nhà là bồ câu núi, hiện còn sống hoang dã ở nhiều vùng núi châu Âu, châu Á và Bắc Phi… Chim bồ câu được loài người thuần hóa đầu tiên ở Ai Cập, cách đây khoảng 5000 năm. Cho đến nay, trên thế giới có khoảng 150 giống bồ câu. Ở Việt Nam, chim bồ câu hơi nhỏ, trọng lượng chỉ khoảng năm, sáu lạng, có nhiều màu lông khác nhau như trắng, xám, nâu, xanh đen, đốm… Bồ câu nước ngoài như Pháp, Mĩ, Hà Lan có trọng lượng gần 1 kg
Thân hình của bồ câu gần giống như chim gáy nhưng lớn hơn một chút. Toàn thân chim bồ câu được bao phủ bởi một lớp lông vũ. Mình chim hình thoi, đuôi ngắn xòe rộng khi bay. Cổ chim dài khoảng 6 đến 7 phân, mỏ nhỏ và cong. Đôi mắt màu nâu tròn và sáng. Đầu chim quay đi quay lại rất linh hoạt, giúp chim dễ dàng mổ thức ăn, rỉa lông rỉa cánh.
Đôi chân thanh mảnh màu hồng sậm có vảy bao bọc gồm 4 ngón, 3 ngón trước, một ngón sau đều có móng sắc, giúp chim đi lại nhẹ nhàng. Bồ câu tương đối dễ nuôi. Chúng ăn các loại hạt như thóc, lúa mì, ngô, đỗ… và rất ít khi bị bệnh.
Chim bồ câu nhà tuy sống trong điều kiện nuôi dưỡng tốt song vẫn mang những đặc điểm của chim bồ câu núi. Chúng thích sống thành từng đôi, sống theo đàn, trong những ngăn chuồng khô ráo, sạch đẹp. Con trống có động tác gù mái, con mái đẻ mỗi tháng một lứa hai trứng.
Chim bồ câu bay rất giỏi, có thể đạt tới vận tốc 100 km/h và bay lâu hàng trăm ki-lô-mét không nghỉ như chim bồ câu đưa thư, song khi chúng đi trên mặt đất thì lại chậm chạp và vụng về.
Hiện nay, người ta nuôi chim bồ câu để ăn thịt và làm cảnh. Thịt bồ câu là món ăn cao cấp ngon và bổ. Món miến xào thịt chim, món chim bồ câu rô ti, món chim bồ câu hầm với hạt sen, thuốc bắc có tác dụng bồi bổ sức khỏe rất tốt.
Chim bồ câu gắn bó với đời sống tinh thần của con người từ lâu đời. Mỗi sớm mai, được nghe tiếng chim gù, được nhìn những cánh chim bay vút lên trời xanh, tâm hồn con người trở nên thư thái, dễ chịu vô cùng!
Bố em rất thích nuôi chim bồ câu. Bố đóng cả dãy chuồng cho chim. Những chiếc chuồng được sơn màu xanh lá cây, cửa tròn viền trắng. Trước chuồng là tấm ván rộng chừng ba tấc để làm chỗ cho chim đậu và tắm nắng. Đấy là tổ ấm của những cặp vợ chồng, con cái bồ câu.
Cặp chim non mới nở được gần một tháng. Trông chúng mới ngộ nghĩnh làm sao! Chiếc mỏ màu hồng nhạt to quá cỡ lúc nào cũng há rộng ra như chờ đợi. Tiếng kêu chim chíp yếu ớt. Đôi chân nhỏ xíu lẩy bẩy đỡ tấm thân trụi lủi, thưa thớt mấy đám lông măng. Đôi mắt chúng tròn xoe, ngơ ngác nhìn ngó xung quanh, lấy làm lạ lắm.
Chim mẹ chao nghiêng đôi cánh rộng, nhẹ nhàng đáp xuống bên con. Chim non cuống quýt há mỏ đòi ăn. Chim mẹ mớm mồi từng chút, từng chút vào cái mỏ háu đói. Mặc cho chim non thúc giục, chim mẹ chẳng vội vàng. Chim bố nãy giờ đứng ở đầu chuồng canh chừng. Nó ngắm nhìn chim mẹ, chim con rồi cất tiếng gù gù, vẻ hài lòng lắm.
Cảnh tượng trên gợi lên trong lòng em một niềm xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng. Tiếng chim trong buổi sáng giữa vườn cây trái sum suê gợi lên cuộc sống êm ả, thanh bình, đáng yêu biết mấy!
Chim bồ câu rất có ích cho con người. Hình ảnh con chim bồ câu trắng là hình ảnh tượng trưng cho hòa bình và thủy chung của nhân loại.
Bài văn thuyết minh về con vịt
Cũng như trâu, bò, chó, mèo, gà, lợn thì vịt cũng là một loài vật nuôi vô cùng quen thuộc đối với con người, đặc biệt là đối với người nông dân. Ở Việt Nam, chăn nuôi vịt đã trở thành một ngành nghề riêng biệt đang rất phát triển, đem lại lợi ích kinh tế cao, thịt vịt là loại thức ăn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và được rất nhiều người ưa thích. Tuy nhiên không phải ai cũng có những hiểu biết căn bản về vịt.
Vịt nhà có nguồn gốc từ loài Vịt cổ xanh (tổ tiên của tất cả các giống vịt nhà), chúng xuất hiện các vùng ao đầm, phá của Châu Á, và xuất hiện ở các nước Đông Nam Á cách đây vài ngàn năm, được con người nuôi thả để cung cấp thức ăn và lông.
Cũng giống như những họ hàng của chúng là thiên nga, ngỗng, ngan thì vịt được xếp vào nhóm thủy cầm (loài gia cầm sống, kiếm ăn dưới nước), phân biệt với các loài gia cầm khác là chim và gà. Tên khoa học của vịt là Anas platyrhynchos domesticus thuộc họ Vịt (Anatidae), bộ Ngỗng (Anseriformes), ở Việt Nam, phổ biến nhất là giống vịt cỏ, hay còn gọi là vịt chạy đồng.
Vịt cỏ có nhiều màu lông khác nhau, có con là trắng thuần, có con nâu pha xám, cũng có con màu đen nhạt, một số con khác còn có màu lông như màu cà cuống xem những đốm đen nhỏ. Nguyên nhân vịt nhà có nhiều màu lông như vậy là do quá trình nuôi thả, chúng bị lai tạp giữa nhiều giống khác nhau, nhưng có 1 điểm chung là loài vịt có một bộ lông mượt mà, dày và không thấm nước, giúp chúng nổi và không bị lạnh khi ở dưới nước lâu.
Thân vịt nhỏ, ngực lép, cổ dài, mắt sáng linh động, chân cao, giữa các ngón có màng bơi, giúp vịt di chuyển dưới nước dễ dàng. Dáng đi của vịt lạch bạch, nhìn khá hài hước, nhưng chúng di chuyển khá nhanh và bơi khỏe, kiếm mồi cũng rất giỏi.
Ngoài ra vịt cũng là một trong số ít các loài vừa có thể di chuyển trên cạn, bơi được dưới nước và còn biết bay bởi đôi cánh to khỏe, dù không bay được xa do thân nặng. Đặc điểm nổi bật nhất của vịt, cũng như toàn Bộ Ngỗng (Anseriformes) là chiếc mỏ dẹt, dài và khỏe, phần lớn chúng có màu vàng hơi cam, thuận tiện cho vịt xúc, rẽ nước tìm mồi. Về cân nặng, thông thường con trống trưởng thành nặng 1,7kg, con mái nhẹ hơn khoảng vào 1,5kg.
Vịt đẻ trứng quanh năm, con mái trưởng thành có thể đẻ từ 150-200 quả trứng mỗi năm, tỉ lệ thụ tinh của vịt rất cao tầm 94,3%, tỉ lệ trứng ấp nở thành con là 81,2%, với tỉ lệ như vậy vịt được xem là loài duy trì giống nòi tốt. Thông thường, một con vịt nuôi từ 65-70 ngày là mọc đủ lông, 70-80 ngày là có thể giết thịt.
Trong những năm gần đây, vịt được nuôi nhiều ở các vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nhiều các đầm, phá, sông, đặc biệt nơi đây là vựa lúa lớn nhất, nhì cả nước thế nên sau vụ thu hoạch, vịt nuôi thả có thể kiếm được nhiều thức ăn từ phần lúa gặt còn sót lại.
Về giá trị kinh tế, vịt cỏ những năm gần đây ngày càng chiếm sản lượng lớn trong tổng sản lượng gia cầm cung cấp thực phẩm cho cả nước và xuất khẩu. Thịt vịt có hàm lượng dinh dưỡng cao, giàu protein, sắt, phốt pho, can xi cùng nhiều loại vitamin khác, khi ăn có vị ngọt, dai và thơm, có thể chế biến nhiều món ăn từ dân dã đến cao cấp.
Trong Đông y thịt vịt có vị ngọt, tính hàn dùng để bổ âm, dưỡng vị, có tác dụng bổ dưỡng, hợp với người mắc chứng âm hư nội nhiệt, mắc chứng nhiệt lâu ngày. Không chỉ thịt có giá trị, trứng vịt cũng là một loại thực phẩm phổ biến trong bữa ăn hàng ngày, ngoài ra trứng còn được dùng trong việc tạo ra các loại bánh.
Vịt nhà là giống gia cầm quen thuộc, dường như đã trở thành một biểu tượng cho làng quê Việt Nam, đặc biệt là ở những vùng sông nước. Vịt không chỉ mang lại giá trị kinh tế nâng cao thu nhập cho người nông dân mà không phải tốn quá nhiều kỹ thuật chăn nuôi, mà còn đem lại những món ăn ngon, giúp mâm cơm Việt thêm đậm đà bản sắc. Về vùng sông nước không một lần nếm món vịt luộc chấm mắm gừng quả là đáng tiếc.
Bài văn thuyết minh về con gà
Gà là một loài vật nuôi gắn bó với đời sống của người Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho con người, không chỉ về vật chất mà cả về mặt tinh thần. Một loài vật thân thuộc hiện hữu trong bức tranh làng quê.
Gà là loài gia cầm được nuôi rất phổ biến. Gà có cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lớp lông mao bóng như bôi mỡ, cái đầu bé và cổ dài từ 10cm đến 12 cm . Gà có đôi mắt không tinh, thường không nhìn thấy gì vào buổi đêm. Để thích nghi với việc đào xới tìm mồi, gà có đôi chân sần sùi, móng cùn và cứng phủ những vẩy sừng màu vàng nhạt có cựa ở chân và một cái mỏ vàng khỏe khoắn, để mổ con mồi.
Theo các nghiên cứu, tổ tiên của chúng là gà rừng , theo sự thuần hóa của con người, dần dần chúng mất khả năng bay lượn, đa số chúng sử dụng chân để di chuyển trên mặt đất, đi lại và tìm mồi.Gà cũng có con trống, con mái. Gá trống có cái mào màu đỏ tươi oai vệ, bộ lông óng mượt, chân có cựa sắc nhọn thu hút sự chú ý của con cái.
Những con gà trống còn được coi là đồng hồ báo thức sống, mỗi lần chúng cất tiếng gáy lại là một lần chuyển canh giờ, sự báo hiệu của ngày mới sắp bắt đầu. Còn gà mái, không có cái mào đỏ tươi rực rỡ như gà trống, bộ lông cũng không sặc sỡ, thường chỉ một màu. Vai trò chính của những con gà mái là sinh sản và nuôi con. Chúng thực hiện thiên chức làm mẹ của mình, thường ấp trứng và những con gà con được sinh ra.
Gà mái đẻ một lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số những con gà mái đẻ thường kêu cục tác cục tác, ta lại nhớ đến câu “con gà cục tác lá chanh”. Gà con nở, đón chào một cuộc sống mới bên ngoài vỏ trứng, chúng như những cục bông màu vàng nhỏ xinh vây quanh gà mẹ ,sung túc đủ đầy.Thức ăn của gà thường là thóc hay cám, nhưng chúng vẫn thường đào xới đất để tìm những hạt sỏi, cát hay những con giun đất.
Gà ăn thóc nên thịt của chúng rất thơm và mềm , là một trong những loại thực phẩm phổ biến của con người mang lại nhiều chất dinh dưỡng.Giờ đây, gà được nuôi theo quy mô lớn tại các trang trại với công nghệ cao, phòng dịch bệnh và giảm thiểu số gà chết. Bên cạnh đó trứng cũng là nguồn thức ăn cung cấp một lượng lớn protein tốt cho sự phát triển của con người.
Hàng năm, gà được tiêu thụ khá cao trong thị trường thực phẩm nhưng mỗi mùa bệnh dịch, hàng nhìn con gà bị chết và nhiễm bệnh dịch cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế và sức khỏe con người. Chúng ta cần khắc phục hiện tượng này và bảo vệ chúng bởi chúng là một nguồn cung cấp dồi dào.
Không chi chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp của nước ta, mà con gà còn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần. Gà đã đi vào tín ngưỡng của người dân Việt Nam. Tên khác của chúng là “Dậu”. Có năm “Đinh Dậu” cũng là tên gọi phổ biến để gọi năm đối với con người Việt Nam.
Gà còn đi vào những bức tranh Đông Hồ đậm tính truyền thống dân tộc qua nét vẽ của những người nghệ sĩ tài ba. Gà còn là món ăn không thể thiếu, luôn được đặt ở giữa mâm trong những ngày giỗ , cúng bái tổ tiên hay mâm cỗ ngày Tết cổ truyền. Gà còn đi vào lời ru, những lời ca dao từ xa xưa, những câu răn dạy con người ta về cách sống tốt đẹp : “Khôn ngoan đối đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.
Gà là loài vật nuôi quan trọng trong đời sống, gắn bó thân thiết với con người và là một trong những nét truyền thống đẹp của Việt Nam biểu tượng cho những ước mơ cơm áo đủ đầy.
Bài văn thuyết minh về con mèo
Mèo nhà là một trong những phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.
Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,…
Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu “meo”, “mi-ao”, “gừ-gừ”, rít , gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.
Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm.
Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.
Mèo là những “vận động viên điền kinh” tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.
Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón.
Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp.
Khả năng này được gọi là “phản xạ thăng bằng.” Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân.
Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt gồ ghề. Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.
Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về 1 phía và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó.
Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.
Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng.
Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.
Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.
Trải qua 1 thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một “người bảo vệ”, một “dũng sĩ diệt chuột” mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.
Bài văn thuyết minh về con thỏ
Thế giới xung quanh ta thật đa dạng và phong phú với rất nhiều chủng loại. Theo thời gian, con người dần càng gắn bó với các con vật, coi chúng như những người bạn gần gũi và thân thiện. Một số con vật khác được thuần hóa còn trở thành thú cưng của con người. Trong số đó phải kể đến những chú thỏ vô cùng đáng yêu- loài vật mà em yêu quý nhất.
Các giống thỏ nhà trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ thỏ rừng (Orytolaguc cuniculus). Thỏ rừng ở châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi họ đến bờ biển Tây Ban Nha vào năm 1000 trước công nguyên. Từ đầu thế kỉ 19 việc nuôi thỏ đã phát triển khắp Tây Âu và được người châu Âu đưa thỏ đi du nhập ở tất cả các nước trên thế giới.
Cuối thế kỉ 19 và nhất là đầu thế kỉ 20 các giống thỏ đã thích nghi với điều kiện nuôi nhốt đã được chọn lọc và thay đổi dần về ngoại hình, sinh lý thích nghi với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất phù hợp. Ở Việt Nam, thỏ được nhập vào cách đây hơn một trăm năm và được nuôi khá phổ biến, rải rác trên mọi vùng miền.
Thỏ là loài gia súc tương đối yếu, khá nhạy cảm và dễ có phản ứng cơ thể với những điều kiện thay đổi của môi trường bên ngoài như nắng, mưa, ẩm độ, nhiệt độ, thức ăn, nước uống, tiếng ồn và các ô nhiễm môi trường khác. Loài thỏ khá đặc biệt với một số tập tính như đào hang làm nơi trú ẩn và sinh sản, sống thành bầy và thông thường số cái nhiều hơn đực, thỏ cái thường dùng các vật liệu kết hợp với lông ở bụng để làm ổ trước khi đẻ, thỏ ăn và uống bất kỳ thời gian nào trong 24 giờ , chúng không ăn thức ăn đã dơ bẩn, đã rơi xuống đất,…
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đối với thỏ. Khi nhiệt độ thấp hơn 10 độ C thỏ cuộn mình để giảm diện tích chống lạnh, nhưng khi nhiệt độ từ 25- 30 độ C thì chúng sẽ nằm dài soải thân thể ra để thoát nhiệt. Thỏ rất thích điều kiện thông thoáng, gió sự lưu chuyển trong không khí vào khoảng 0.3m/giây là thích hợp nhất. Tuy nhiên nếu gió thổi trực tiếp vào cơ thể thỏ thì chúng có thể bị bệnh viêm mũi và cảm lạnh.
Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, nó có thể ngửi mùi mà phân biệt được con của nó hay con của con khác. Xoang mũi thỏ có nhiều vách ngăn chi chít có thể ngăn chặn được các tạp chất bẩn trong không khí bụi hoặc từ thức ăn. Nổi bật trên bộ lông trắng muốt là chiếc mũi phớt hồng lúc nào cũng ươn ướt như người bị cảm cúm.
Cơ quan thính giác thỏ rất tốt. Thỏ rất nhạy cảm với tiếng động dù là rất nhẹ. Khi nghe thấy tiếng động, thỏ rất dễ sợ hãi, do vậy trong chăn nuôi tránh tiếng động ồn ào cho thỏ. Trong đêm tối, đôi mắt tròn xoe sáng lên như hai chiếc đèn pha nên vẫn nhìn thấy mọi vật, do vậy thỏ vẫn có thể ăn uống ban đêm cũng như là ban ngày.
Thỏ là loại động vật đẻ con, mỗi lần sinh đẻ, thỏ cái có thể đẻ từ một đến hai con. Tuổi thọ của một con thỏ có thể lên tới 10 năm hoặc hơn nữa tùy vào điều kiện sinh sống. Thỏ rất ưa những nơi thoáng đãng và khí hậu mát mẻ nên khi chăn nuôi, các hộ trang trại cần chú ý đến yếu tố này. Vào mùa đông, thời tiết lạnh giá, nhiệt độ xuống thấp thì ta cần đảm bảo việc giữ ấm cho thỏ để chúng phát triển bình thường và không bị nhiễm bệnh.
Ngày nay việc nuôi thỏ để lấy thịt hay phục vụ một số nhu cầu khác đã đem lại một nguồn lợi kinh tế không hề nhỏ. Trong đời sống tinh thần, thỏ cũng có vị trí khá quan trọng. Thỏ là biểu tượng của Tây Ban Nha vào thời kỳ La Mã. Trong câu chuyện truyền thuyết Chị Hằng- Chú Cuội, chú thỏ ngọc chính là người bạn thân thiết với chị Hằng nơi cung trăng. Thỏ thường được biết đến trìu mến là con vật cưng của nhiều gia đình.
Như vậy những chú thỏ nhỏ xinh không chỉ đáng yêu, ngoan ngoãn mà còn rất hữu ích trong cuộc sống. Bởi vậy chúng ta hãy luôn yêu quý và chăm sóc thật tốt cho loài vật này nhé.
Có thể bạn thích: