Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hòa, nhân ái, đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần. Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” được sáng tác trong dịp Trần Nhân Tông được về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Bài thơ được sáng tác trong dịp Trần Nhân Tông được về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 2
Nền văn học Việt Nam trong thời trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn sơn ca của Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế.
Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên, hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
Tương truyền, sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không”.
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, “bán vô bán hữu” nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người cũng như lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:
“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muôn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người và vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật.
Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hòa với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà sáng tác những vần thơ gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy có địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông đã bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điều đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 8
Trần Nhân Tông( 1258-1308 ) tên thật là Trần Khâm con trưởng của Trần Thánh Tông,là một ông vua yêu nước,anh hùng,nổi tiếng khoan hòa nhân ái đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống mông-nguyên và giành thắng lợi vẻ vang.Ông vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đại phật cuối đời,vào năm 1928 ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử hiện thuộc tỉnh quảng ninh.Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa một nhà thư của thời trần. Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường.
Các vua thời Trần cho xây ở quê một hành cùng gọi là cung thiên trường để thi thoảng có dịp về nghỉ ngơi.Mỗi dịp về đó nhà vua thường lưu lại,nay còn ác ôn được vài bài trong đó bài thơ Buổi chều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra là 1 trong các những bài thơ ấy. Mở đầu bài thơ là cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lí ngưu quy tân
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Theo như đoạn thơ viết thì đây là 1 trong các những buổi chiều ở phủ thiên trường. Đây là một khung cảnh vùng quê yên tĩnh như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều tà.Rõ ràng đến từng đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói;dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu về chuồng…vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng… Hai câu thơ đầu:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không)
Đây là cảnh hoàng hôn,sự vật trước xóm,sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống hòa lẫn với những màn khói đang được tỏa ra từ bếp. Trong buổi chiều man mác,mọi vật thấp thoáng ẩn hiện dường như có, dường như không. Một bức tranh quê đầy đủ với những màu sắc quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre,của những giọt sương,cánh cò trắng,lúa xanh hòa lẫn với tiếng sáo véo von gợi về một cuộc sống thanh bình mà bao người hằng mong ước sau bao năm binh lửa.
Hình ảnh bài thơ với ngôn từ giản dị,bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng.Bởi vì nhân dân ta phải trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh xương máu,lầm than để giành lại được độc lập chủ quyền,cuộc sống bình yên. Hai câu thơ cuối:
Mục đồng nghịch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Bằng con mắt tinh xảo của mình nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh đặc sắc của làng quê lúc chiều tà:trẻ thì ngồi trên lưng trâu thổi sáo rồi dẫn trâu về chuồng đàn cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người. Lời thơ còn thể hiện một cảm xúc kì lạ một niềm vui đang xốn sao rạo rực trong lòng nhà thơ nhìn ngắm những đứa trẻ với nụ cười hồn nhiên của tuổi trẻ và ngắm nhìn những đàn trâu đang nối đuôi nhau về làng,trên cánh đồng lúa xanh từng cặp cò trắng đang chao liệng làm dâng lên trong lòng tác giả một nỗi xuyến xao không tả. Đó cảnh tượng 1 trong các những buổi chiều làng quê được tác giả phác họa qua những vần thơ rất đối chọi sơ nhưng đậm chất quê nhà,hồn quê.Điều đó cho thấy tác giả cũng là một người con xuất thân từ những làng quê cũng vào sinh ra tử để đánh đuổi bọn giặc ngoại xâm.Dù có địa vị cao trong xã hội nhưng ông vẫn luôn hướng tâm hồn mình về với làng quê.
Bài thơ tuy được tác giả viết cô đọng nhưng phần nào đã được tác giả thể hiện xuất sắc khi viết về cảnh làng quê. Bài thơ tuy được tác giả viết từ rất lâu nhưng cho đến tận bây giờ bài thơ vẫn đi vào lòng người đọc như lẽ ban đầu. Hình ảnh bài thơ với ngôn từ giản dị,bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Bởi vì nhân dân ta phải trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh xương máu,lầm than để giành lại được độc lập chủ quyền,cuộc sống bình yên.
Cho đến nay nhà thơ đã vượt qua rất nhiều những bài thơ viết về quê hương và trở thành bài thơ gây được nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.Tác phẩm đã gợi được cái hồn cái cốt cũng như con người của làng quê Việt Nam.Bài thơ tuy được tác giả viết cô đọng nhưng phần nầo đã được tác giả thể hiện xuất sắc khi viết về cảnh làng quê.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 5
Tình yêu quê hương đất nước là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong nền văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Tình yêu ấy không chỉ thể hiện ở việc khẳng định chủ quyền dân tộc, niềm tự hào về những chiến công và niềm hy vọng khát khao về một nền thái bình thịnh trị vĩnh hằng. Mà tình yêu quê hương đất nước còn thể hiện thông qua tình yêu của con người với vẻ đẹp của quê hương, gắn bó với quê hương. Điều ấy đã nhiều lần được bộc lộ trong các tác phẩm thơ ca của các tác giả nổi tiếng trong đó bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của vua Trần Nhân Tông là một ví dụ điển hình.
Trần Nhân Tông (1258-1308), tên thật là Trần Khâm, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua yêu nước, anh hùng, khoan hòa, nhân ái, đã cùng với vua cha tham gia chống lại hai cuộc xâm lược của giặc Mông – Nguyên. Ngoài ra ông còn là một nhà văn hóa lớn, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần, năm 1299, Trần Nhân Tông về thiền tu ở chùa Yên Tử, và trở thành vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác vào dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên Trường (Nam Định ngày nay). Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Nhan đề “Thiên Trường vãn vọng” cho chúng ta thấy được không gian, thời gian và vị trí quan sát để tác giả thả hồn mình bộc lộ những cảm xúc sâu kín từ trong tâm hồn tác giả. Không chỉ vậy nó còn thể hiện sự gắn bó, thân thuộc, cảm giác yên bình thư thái, và vẻ đẹp bao quát của quê hương tác giả, cho ta thấy 1 phần nội dung của tác phẩm chính là sự gắn bó tha thiết với quê hương đất nước, niềm vui niềm sung sướng khi nhìn cảnh thanh bình của đất nước.
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên”
Hai câu câu thơ đầu tiên đã dựng lên một bối cảnh không gian làng quê được bao phủ bởi khói chiều, với mốc thời gian là buổi chiều buông. Trong đó khoảng thời gian buổi chiều là một khoảng thời gian rất đắt giá trong văn học trung đại, cũng như văn học nói chung. Nguyên do bởi nó thường đem đến cho con người những cảm xúc đặc sắc, khơi gợi trong tâm hồn những nỗi xúc động sâu sắc, đặc biệt là với những con người xa quê cha đất tổ lâu ngày. Thường bóng chiều, hay hoàng hôn lịm tắt, mây tím ráng chiều thường đem đến những nỗi buồn man mác trong lòng người, thế nhưng khác với lẽ thường trong bài thơ Thiên trường vãn vọng, buổi chiều tàn lại đem đến cho người đọc những xúc cảm mới lạ, là sự an yên, bình lặng của cuộc sống nơi làng quê. Kết hợp với bóng chiều chính là làn khói tỏa mờ, bao phủ trước xóm sau thôn, đó có thể là sương khói do thời tiết, nhưng có lẽ trong tác phẩm này khói mà tác giả muốn nhắc đến chính là thứ khói bếp màu xanh bốc lên từ bếp lửa của những ngôi nhà trong thôn xóm.
Ấy là ánh lửa nổi lên nấu bữa cơm chiều của mỗi gia đình, đối chọi sơ giản dị nhưng lại mang lại cảm giác ấm áp, thanh bình, thể hiện đời sống an cư lạc nghiệp của nhân dân, sau 1 ngày lao động vất vả ta lại về quây quần bên bếp lửa nấu bữa cơm rau. Như vậy có thể thấy rằng cảnh vật trong hai câu thơ đầu hiện lên là một cảnh tĩnh, được bao phủ bởi bóng chiều và khói bếp, đem đến vẻ hư ảo, nửa thực nửa hư, tạo nên cho con người cảm xúc lâng lâng, say đắm lòng người. Từ đó có thể thấy thái độ của tác giả trước dáng vẻ của quê hương chính là sự gắn bó, cảm nhận tinh tế, sâu sắc cùng với dáng vẻ thư thái, tự tại trước không gian rộng lớn, giản dị của quê hương.
“Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền”
Nếu như hai câu thơ đầu cảnh vật hiện lên là cảnh tĩnh, bóng chiều hòa quyện cùng với làn khói hư ảo, thì đến hai câu thơ sau ta thấy tác giả đã chuyển sang miêu tả cảnh vật và con người ở trạng thái động. Với sự xuất hiện của hình ảnh mục đồng dắt trâu về và hình ảnh những con cò trắng từng đôi từng một hạ cánh xuống cánh đồng. Bên cạnh đó còn có âm thanh của tiếng sáo bảy lỗ, kết hợp với gam màu trắng muốt của cánh cò. Từng hình ảnh, âm thanh, màu sắc kể trên đều là những thứ rất đỗi thân thuộc với làng quê, đặc biệt hình ảnh con trâu lại là bằng chứng sống cho sự thanh bình của đất nước, bởi con trâu là đầu cơ nghiệp, mà trong bài thơ người ta có thể tưởng tượng ra dáng vẻ đủng đỉnh của những chú trâu đang thủng thẳng chậm rãi bước về nhà cùng với lũ trẻ mục đồng.
Thể hiện vẻ yên bình, đất nước đã sạch bóng quân thù trở về với dáng vẻ an yên, giản dị, đối chọi sơ và ấm áp. Bên cạnh đó hình ảnh từng đôi cò trắng hạ xuống đồng chính là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa, sự sinh sôi nảy nở dòng giống của dân tộc, cũng như cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng sóng đôi cùng gây dựng tương lai cho quê hương cho đất nước. Điều đó thể hiện sự phát triển vững bền của dân tộc xuất phát từ chính những làng quê nhỏ bé, chân chất, bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.
Như vậy bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông dẫu chỉ được xây dựng bằng những hình ảnh và từ ngữ dung dị, bình thường của làng quê Việt Nam lúc bấy giờ. Thế nhưng sâu trong đó nó lại thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó, thân thuộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước, khát khao cuộc sống hòa bình an yên cho nhân dân và nỗi lòng vui sướng trước viễn cảnh thanh bình, trầm lắng của quê hương với khói bếp, với đàn trâu, cánh cò của tác giả.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 6
Cảnh chiều tà từ lâu đã trở thành một chủ đề được nhiều nhà thơ quan tâm, bởi không gian chiều tà thường gợi cho con người nhiều cảm xúc đặc biệt. Cảnh chiều tà có khi gợi lên nỗi suy tư về kiếp người ngắn ngủi, có khi lại gợi lên nỗi niềm nhớ nước, nhớ quê hương, có khi lại gợi lên sự đồng điệu trong tâm hồn thi sĩ với thiên nhiên, cảnh vật. Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra” của vua Trần Nhân Tông chính là sự giao hòa giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật nơi miền quê thôn dã. Mở đầu bài thơ là cảnh làng quê trong ánh chiều tà mơ màng, yên ả:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không)
Thật là một bức tranh yên bình, tĩnh lặng! Chiều xuống, từ phía phủ Thiên Trường, cảnh vật thôn xóm mờ dần trong làn khói phủ. Khói ở đây phải chăng là làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với khói bay lên từ những mái bếp thơm nồng hơi cơm. Với điểm nhìn ở trên cao, vừa quan sát được khung cảnh “trước xóm”, vừa bao quát “sau thôn”, nhà thơ như lạc vào một không gian mờ mờ ảo ảo. Cảnh vật trước hoàng hôn trở nên huyền diệu, dường như có, dường như không. Khung cảnh êm đềm, nên thơ khiến tâm hồn con người cũng man mác, mơ hồ, vừa như sông thật vừa như trôi vào cõi mơ. Hay chính lòng người đang bâng khuâng, xao động nên mới nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế?
Trong hai câu đầu tiên, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới vốn quen thuộc nhưng lại huyễn hoặc bằng những từ ngữ gợi ra sự mơ hồ, hư ảo. Ở hai câu sau, Trần Nhân tông vẫn điểm xuyết cho bức họa làng quê của mình bằng những nét bút miêu tả khung cảnh, tuy nhiên, sự mơ hồ đã giảm bớt và mang lại cảm giác thực hơn, đó là nhịp sống của người dân, động vật gắn liền với không gian dân dã:
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Sự tĩnh lặng của cảnh vật và lòng người bị đánh thức bởi tiếng sáo của mục đồng. Bức tranh thôn dã đã có thêm âm thanh, màu sắc và cử động. Mục đồng lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo khiến lòng nhà thơ thư thái sau bao nhiêu lo toan, trăn trở việc triều chính. Xa xa trên đồng ruộng, từng đôi cò trắng chao liệng rồi xà xuống. Đây là nhưng hình ảnh tiêu biểu cho làng quê Việt Nam. Người và vật, thiên nhiên, âm thanh và màu sắc, tất cả như hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, yên ả mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ lấy một vài chi tiết, chấm phá vài nét mà như thổi hồn vào cảnh vật. Qua tâm trạng con người, cảnh đã đẹp lại càng đẹp.
Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc một vùng quê yên bình, thơ mộng với những con người bình dị. Như vậy, bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” đã khắc họa bức tranh phong cảnh làng quê, ở đó vừa có cái thực, vừa có cái mờ ảo của cảnh vật, không gian nhưng không thể thiếu bóng dáng của con người.
Con người đã làm cho bức tranh miền quê trở nên sống động hơn. Ta thường nghĩ, vua là người ở chốn cung cấm, được bao bọc bởi châu báu ngọc ngà. Vậy mà Trần Nhân tông lại vẽ được một bức tranh đậm đà sắc quê, hồn quê như vậy. Ông còn hòa mình vào với cảnh thôn quê ấy. Điều đó chứng tỏ, vị vua phải có sự yêu mến, gắn bó với làng quê thì mới có thể phát hiện ra vẻ tuyệt mĩ ngay trong cái không gian bình dị ấy. Bài thơ cũng thể hiện được tình yêu mãnh liệt của nhà vua đối với quê hương mình. Đọc bài thơ, ta càng thêm quý trọng và mến phục ông.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 1
Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của Trần Nhân Tông.
Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó 1 phần là thực 1 phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sao du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.
Bài thơ có sự kết hợp tiểu đối và điệp ngữ 1 cách sáng tạo. Nhịp thơ êm ái hài hòa, giọng điệu tha thiết thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng. Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa. Đó là bức tranh phong cảnh làng quê quen thuộc ở bất cứ vùng đất nào của nước ta, chỉ bằng vài ba nét phác họa nhưng cho thấy một bức tranh thật thanh bình, yên ả.
Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẻ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 7
Trần Nhân Tông nổi tiếng là một vị vua anh minh hiền đức khoan dung. Bên cạnh đó ông còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa tiêu biểu của nhà Trần. Ông đã để lại 1 số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn. Trong số đó ta không thể không kể đến tác phẩm Buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra. Tác phẩm được sáng tác trong thời điểm ông về thăm quê nhà. Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở Thiên Trường tuy vắng lặng nhưng lại có rất nhiều cảnh vật khiến lòng người xốn xang.
Hai câu thơ đầu tiên tả thời điểm và vị trí khi mà tác giả có mặt:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên“
(Trước xóm sau thôn tựa khói hồng
Bóng chiều man mác có dường không)
Đọc câu thơ ta thấy xuất hiện thời gian đó là thời điểm cảnh hoàng hôn. Chọn thời điểm như vậy dường như cũng là một dụng ý của tác giả bởi cảnh vật khi đã hoàng hôn trên thôn quê thì vô cùng vắng lặng hiếm có hình ảnh con người nhưng khi ấy cảnh vật lại đang chuyển giao màu sắc nên cảnh vật sẽ vô cùng phong phú khiến cho thi nhân ngỡ ngàng. Địa điểm mà tác giả nói đến ở đây chính là trước xóm nhưng lại sau thôn và cảnh tượng ấy như đang chìm dần vào làn khói mờ giăng mắc khiến cho tầm mắt thi nhân khó quan sát hơn. Đó là làn khói từ trong bếp của các ngôi nhà đang chuẩn bị cơm tối. Hình ảnh này gợi cho chúng ta cảm giác về tình cảm ấm cúng của gia đình, đó là một hình ảnh quen thuộc mà quê hương ai cũng có để rồi đi xa ai cũng nhớ cái hương vị của bếp củi đó. Cụm từ “bán vô bán hữu” nửa như có lại nửa như không có khiến cho chúng ta thấy được khung cảnh ấy vừa thực lại vừa ảo không rõ thực hư.
Tâm hồn người đang lâng lâng trước cảnh hay chính lòng người đang lâng lâng mơ mộng nhìn về xóm nhà tranh quê hương với bếp củi ấm áp. Bức tranh quê với những màu sắc quen thuộc của ánh dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre chỗ đậm chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cho ta cảm giác về cuộc sống thanh bình và dường như đây cũng là một mong ước giản đối chọi với những người dân bình thường nhưng nó lại thật khó khăn đối với một ông vua của dân tộc. Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Bởi nhân dân ta đã đổ xương máu đau thương tang tóc mới có thể giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc ngoại xâm. Hai câu thơ cuối là bức tranh đối chọi sơ của cảnh thôn quê.
“Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.”
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
Nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh thơ đó là cánh cò và hình ảnh lũ trẻ đang chăn trâu. Tác giả chọn hai hình ảnh ấy làm hai hình ảnh kết bài thơ chính bởi đây là những hình ảnh đặc trưng nhất tiêu biểu nhất của quê hương mỗi người. Đó là hình ảnh tiếng sáo đang văng vẳng bên tai của những cậu bé chăn trâu khiến nhà thơ cảm thấy xốn xang lạ thường. Dường như ta đang được về quê cùng tác giả để ngửi hơi khói bếp để nghe tiếng sáo du dương để ngắm đàn trâu đang nhai những ngọn cỏ cuối cùng để về nhà. Đó còn là hình ảnh những cánh cò trắng đang chao liệng.
Nói đến quê hương sao có thể không nhắc đến những đàn cò trắng đã đi vào trong tâm hồn người dân thôn quê và cánh cò ấy cũng chao nghiêng trên bao bài thơ, câu thơ thân thương của người dân. Đã là một người con của quê hương ta không thể quên được những hình ảnh thân thương ấy. Có lẽ tác giả không thực nhìn thấy những hình ảnh đó nhưng đối với một người con của quê hương mà nói những hình ảnh đó vốn là những hình ảnh quen thuộc đến nỗi mỗi khi nhắc đến là họ không thể quên được. Qua đó ta thấy tác giả cũng là một người sinh ra trên một mảnh đất quê hương và chịu cảnh chân lấm tay bùn, có thế tác giả mới có thể hiểu cảm nhận và viết lên những ấu thơ về quê hương da diết đến như thế.
Cho đến nay bài thơ đã vượt qua rất nhiều những bài thơ viết về quê hương và trở thành bài thơ gây được nhiều ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Tác phẩm đã gợi được cái hồn cái cốt cũng như con người của làng quê Việt Nam. Bài thơ sâu sắc nhưng lại vô cùng giản dị thể hiện khí chất của bậc hiền tài.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 9
Trần Nhân Tông là vị vua, vị anh hùng nổi tiếng chính trực, công bình phân minh, nhân ái thương dân và cũng là nhà thơ tiêu biểu của thời Trần. Một trong những tác phẩm nổi tiếng và đặc sắc của ông còn lưu lại đến thời nay đó là bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, hay còn gọi theo tiếng hán nôm là Thiên Trường vãn vọng. Bài thơ được ông sáng tác trong dịp vị vua anh minh vi hành về thăm quê cũ ở Thiên Trường.
Phiên âm
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Đặc sắc đầu tiên của bài thơ nằm ở hai câu đầu tiên là cảnh thôn xóm bình dị dân dã, bức tranh làng quê khi chiều về. Hoàng hôn luôn luôn là thời điểm “tức cảnh sinh tình” của các thi nhân bởi cảnh sắc mơ hồ mờ ảo của thiên nhiên khi trời đất giao hòa từ ngày sang đêm và cũng là thời điểm bình yên nhất của con người khi đó là lúc mà họ kết thúc 1 ngày làm việc để quay về sum họp quây quần với gia đình. Ta có thể hình dung rằng tác giả đang đứng ở một nơi cao, có thể nhìn bao quát cảnh vật, khi phóng tầm nhìn ra xa để bao quát trọn cảnh đẹp chiều tà, đặc biệt là, đây là quê hương của ông, là nơi ông đặt nhiều tình cảm nhất.
Ở đây xuất hiện sự bao phủ của “khói lồng” là hình ảnh thân thuộc, gần gũi, bình dị và đặc trưng nhất của làng quê Việt Nam. Từ “man mác” thường được dùng để miêu tả về nỗi buồn tâm trạng con người, nhưng trong hoàn cảnh này man mác còn được dùng để miêu tả về 1 trong các những buổi chiều thôn quê yên bình và có đôi phần ảm đạm, hiu hắt. Qua đó ta thấy được tâm tư của một vị vua trước cảnh đẹp: tạm gác lại việc triều chính để hòa mình vào phút giây lắng đọng hiếm có, đáng quý của đời người. Thôn xóm như đang dần nhạt nhòa trong sương khói và bóng chiều mập mùng dường như nửa có nửa không. Đó là một cảnh tĩnh rất đẹp, gợi nhiều cảm xúc.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Mục đồng là hình ảnh đặc trưng cho con người thôn quê Việt Nam thời xưa. Trong rất nhiều tác phẩm dân gian như tranh vẽ, tranh thêu, đồ gốm,… ta đều thấy hình ảnh chú bé mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo nơi những cánh đồng cỏ. Điều đó cho thấy mối giao thoa giữa con người, động vật và thiên nhiên cùng với tinh thần sống luôn căng tràn của họ đặc biệt là những chú bé thôn quê luôn vui vẻ, yêu đời.
Thời điểm mà tác giả nhắc tới trong bài thơ là xế chiều, khi ấy mọi người đã kết thúc 1 ngày làm việc và các chú bé mục đồng cũng đã quay về sau 1 ngày chăn trâu. Đàn cò trắng “từng đôi” liệng xuống đồng làm ta liên tưởng đến đời sống thường nhật của con người: họ cùng nhau làm việc, về nhà nghỉ ngơi, sum họp sau một ngày lao động mà không hề có sự cô đối chọi lạc lõng. Tất thảy những cảnh vật đó đã vẽ nên một bức tranh có âm thanh, có màu sắc gợi nên cảnh quê thanh bình, hài hòa nhưng cũng căng tràn sức sống từ nhiệt huyết của con người.
Tóm lại, cảnh chiều ở thôn quê đã được tác giả phác họa rất bình dị nhưng đã gợi nên được hồn quê sâu đậm. Đó là một làng quê thanh bình, trầm lắng nhưng đầy sức sống, là một ngôi làng tiêu biểu cho làng quê Việt xưa. Qua đó ta cũng có thể thấy tâm tư của tác giả- một vị vua gần gũi với thiên nhiên, với nhân dân, gắn bó với làng quê và cũng là một người con có hiếu của quê hương. Đó chắc chắn và đã là một vị vua tốt, yêu thương nhân dân, mang lại hạnh phúc thái bình thịnh trị cho đất nước.
Phân tích bài “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” số 10
Tác giả Trần Nhân Tông là một vị vua của nước ta, ông không chỉ là một nhà vua yêu nước, vì nước vì dân mà còn là một vị anh hùng để lại nhiều chiến công cho dân tộc ta. Tác phẩm “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” đã thể hiện được tinh thần yêu nước của Trần Nhân Tông.
Bằng thứ ngôn ngữ mộc mạc, giản dị tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, qua hình ảnh thiên nhiên đó, tác giả đã gửi gắm tình cảm yêu thương của mình với quê hương, đất nước. Với cương vị là một người đứng ở vị trí cao nhất, đứng đầu một đất nước, vua Trần Nhân Tông là một vị vua hết lòng vì đất nước và nhân dân. Ông luôn gắn bó gần gũi với cuộc sống của người nông dân khốn khó, trong các tác phẩm của ông, đã thể hiện tình yêu thương đó:
“Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như sương khói
Bóng chiều tà nửa không nửa có”
Cảm nhận bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của Trần Nhân TôngĐịa danh Thiên Trường chính là quê gốc của vua Trần Nhân Tông (ngày nay thuộc tỉnh Nam Định). Bài thơ này chính là những câu thơ tác giả viết về chính quê hương của mình, nơi chôn rau cắt rốn, sinh ra và lớn lên của tác giả. Cảnh vật ở câu thơ hiện lên hình ảnh cảnh chiều tà khi hoàng hôn đang dần buông xuống. Đứng trước cảnh hoàng hôn, khoảng khắc khi ngày tàn, lòng người ta thường không khỏi man mác buồn và niềm nhớ thương da diết.
Khung cảnh hoàng hôn ấy gơi lên trong lòng người những nỗi buồn phiền, sầu muộn và gợi tả một cảm giác cô liêu, hiu quạnh và đối chọi độc. Lòng người “nửa không nửa có” như đang bị những cảm xúc ấy bủa vây kín tâm hồn. Giữa không gian bao la mênh mông ấy cũng đã bị bao phủ bởi lớp sương khói mờ ảo, những làn sương chiều hòa vào trong làn khói của những bếp rơm, bếp dạ hay những đám rơm cháy ngoài đồng làm cho bầu không khí mờ đục, huyền ảo. Những hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ hiện lên vừa mơ màng lại rất giản dị và gần gũi, đám sương khói ấy lúc gần lúc xa, hư hư ảo ảo khiến cho tác giả cũng như người đọc như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
“Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng”
Hai câu thơ trên đã có sự xuất hiện của con người trong bức tranh thiên nhiên quê hương đó. Hình ảnh về một chú bé mục đồng – trẻ chăn trâu đã gợi lên trong tác giả những kỉ niệm về tuổi thơ của chính mình, tuy nghèo khó nhưng luôn vui vẻ và hồn nhiên. Giữa không gian bao la ấy, tiếng sáo vi vu cất lên của những em bé chăn trâu cắt cỏ đã khiến cho người nghe cảm nhận và cảm thấy lòng mình như da diết và bồi hồi nhung nhớ. Tiếng sáo ấy hay chính là tiếng lòng của tác giả, nó chứa đựng một nỗi buồn xót xa, nỗi lòng thầm kín mà không biết giãi bày hay tâm sự cùng ai. Hình ảnh con người và thiên nhiên đan xen, hòa hợp với nhau tạo nên một bức tranh sống động với những cảm xúc chân thật, thân thuộc và gắn bó, gần gũi.
Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” của vua Trần Nhân Tông đã vẽ lên một bức tranh về miền quê miền Bắc Việt Nam vô cùng tươi đẹp. Bài thơ không chỉ thể hiện cho tài năng, sự tinh tế trong cách quan sát của nhà thơ mà còn thể hiện sự nặng tình nặng nghĩa của tác giả đối với mảnh đất quê hương.
Có thể bạn thích: