Phan Châu Trinh là nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn của Việt Nam đầu thế kỉ XX. Phong cách sáng tác của ông nổi tiếng với những áng văn chính luận đầy tính hùng biện, có lập luận đanh thép, tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác vào thời gian Phan Châu Trinh bị bắt giam tại nhà tù ở Côn Đảo. Bài thơ giúp ta cảm nhận một hình tượng đẹp, một khí thế ngang tàng, vẻ đẹp lẫm liệt của người anh hùng dù gặp phải tình cảnh gian nguy nhưng vẫn không hề sờn lòng đổi chí. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 9
“Đập đá ở Côn Lôn” là khẩu khí của một người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Khẩu khí ấy rắn rỏi như chính khí phách của tác giả – một nhà chí sĩ yêu nước trên bước đường bôn ba cách mạng đang bị giam cầm, đày ải. Có thể nói rằng, với “Đập đá ở Côn Lôn” nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã khẳng định rằng, có một dòng thơ ca yêu nước chống ngoại xâm toát lên khí phách kiên cường bất khuất.
Trước hết tác giả đã dựng lên một tượng đài hiên ngang, lẫm liệt về người anh hùng cứu nước. Dẫu đó là một người tù nhưng hình ảnh thơ lại khiến ta liên tưởng đến tư thế của người đang làm chủ mình, làm chủ cuộc sống, muốn dùng sức mạnh và nghị lực của bản thân để hoán cải càn khôn, vũ trụ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Thật hào hùng, thật lẫm liệt ở cái tư thế “đứng giữa đất Côn Lôn”. Ởđây, vị trí của kẻ làm trai là vị trí trung tâm. Đất Côn Lôn như là toàn bộ hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống đầy cam go khủng khiếp. Với tư thế ấy, kẻ làm trai như muốn khẳng định sức mạnh dời non lấp biển của mình, sức mạnh ấy sánh ngang cùng trời đất, ở chính giữa trời đất. Họ tin rằng với vị trí ấy, sức mạnh đó sẽ làm cho “lở núi non”.
Đi liền với tư thế là hành động:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Hai câu thơ vận dụng nhiều động từ chỉ hành động mạnh, hay nói cách khác động từ chi phối toàn bộ ý tưởng của câu thơ: “xách”, “đánh tan”, “ra tay”, “đập bể”… Hình ảnh và ý thơ đối nhau chan chát vừa tạo lớp nghĩa tả thực người tù đang cầm búa để đập đá trong những buổi lao động khổ sai, vừa tạo nghĩa bóng thể hiện khí phách hào hùng của người có chí lớn.
Cùng với dụng ý sử dụng động từ, cách ngắt nhịp của hai câu thơ khiến hình ảnh thơ trở nên cứng cỏi, mãnh liệt:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Nhịp thơ 2/2/3 tạo nên hành động mạnh mẽ, ý chí quyết tâm của kẻ có chí vá trời lấp biển. Và tiếp theo, hai câu luận (5 – 6) thể hiện nghị lực phi thường của kẻ làm trai trong một hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
“Tháng ngày”, “mưa nắng”, những thử thách của thời gian và hoàn cảnh không làm cho người chiến sĩ sờn lòng, nản chí, trái lại, lời thơ khẳng định một quyết tâm vượt qua mọi gian lao, khổ hận để giữ tấm lòng son sắt.
Hai câu thơ kết, tác giả bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm của “những kẻ vá trời khi lỡ bước”. Nếu nói rằng âm hưởng chủ đạo của bài thơ là khẩu khí anh hùng của một người tuy thất thế nhưng vẫn nuôi mộng lớn dời non lấp bể thì ở hai câu kết ý tưởng đó được thể hiện nổi bật nhất:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con!
Hình tượng kì vĩ “những kẻ vá trời” làm ta liên tưởng đến bà Nữ Oa trong câu chuyện thần thoại, sức mạnh của Nữ Oa là sức mạnh biến cải cả trời đất, vũ trụ. Khí phách của người anh hùng trong bài thơ được tỏa sáng, tạo nên sức truyền cảm góp phần động viên tinh thần những người yêu nước trong những giờ phút nguy nan nhất.
Đọc xong bài thơ, có hai hình ảnh đậm nét đọng lại trong tâm trí em. Đó là hình ảnh một người bị kẻ thù đày đọa nhưng vẫn coi thường gian khổ, chết chóc, dáng vẻ vẫn hiên ngang anh hùng. Người chí sĩ xem thực tế khổ ải của lao tù thực dân như một hoàn cảnh để tôi rèn khí phách.
Một hình ảnh khác vượt lên hoàn cảnh tù đày, không gian, thời gian, một kẻ “làm trai” nguyện đem tâm huyết và nghị lực để cải tạo thế giới, biến cái cuộc sống thực tại hướng tới một bàn chân trời sáng tươi của đất nước, dân tộc. Hai hình ảnh đó liên kết, đan xen, bổ sung cho nhau để dựng nên một tượng đài anh hùng rực rỡ trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm.
Cuộc đời và thơ văn của Phan Châu Trinh sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam anhhùng.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 2
Phan Châu Trinh (1872-1926) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Ông còn để lại nhiều thơ văn thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con”.
Nhan đề bài thơ là “Đập đá ở Côn Lôn”, nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân.
Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc “đứng giữa đất Côn Lôn”, bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vản “lừng lẫy làm cho lở núi non”. Hai từ “đứng giữa” biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ “làm cho lở núi non” thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.
Các vị ngữ: “đánh tan” và “đập bể” vừa tả thực sức mạnh đập đá “năm bảy đống” và “mấy trăm hòn”, đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:
“Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Hai câu 5, 6 đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (tháng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. “Thân sành sỏi” và “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cách mạng của nhà thơ:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son”
Các từ ngữ: “bao quản” và “chi sờn” biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp nhiều trong “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau:
“Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân;
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần”
(Bốn tháng rồi)
Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là “việc con con” không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà chiến sĩ:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con.”
“Đập đá ở Côn Lôn” tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng.
Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để giãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” này. Cái tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 8
Đầu năm 1908, nhân dân Trung Kì nổi dậy chống chính sách sưu cao thuế nặng của chính quyền thực dân, phong kiến. Phan Châu Trinh – nhà chí sĩ yêu nước đề xướng phong trào dân chủ và bãi bỏ chế độ quân chủ đã bị Pháp bắt giam, kết án chém và đày ra Côn Đảo (tháng 4 -1908). Vài tháng sau, nhiều nhân sĩ cũng bị đày ra đây.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn được sáng tác trong lúc Phan Châu Trinh cùng các tù nhân chính trị khác bị bắt lao động khổ sai đập đá:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Bằng nghệ thuật ẩn dụ tượng trưng, bài thơ đã dệt nên hình tượng hiên ngang, lẫm liệt của người anh hùng cứu nước, trong lúc nguy nan vẫn giữ vững chí khí dời non lấp bể. Cái độc đáo của bài thơ là ở chỗ tác giả nói về công việc hết sức nặng nhọc là đập đá mà như nói về một công cuộc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách của một dũng sĩ trong thần thoại.
Côn Đảo là một hòn đảo nằm ở vùng biển phía đông nam nước ta, nơi thực dân Pháp lập nhà tù giam cầm những chiến sĩ yêu nước và Cách mạng. Tù nhân buộc phải lao động khổ sai và không ít người đã gục ngã vì kiệt sức, vì bệnh tật, đòn roi của lũ cai ngục độc ác, dã man.Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu quan niệm về “chí làm trai” của tác giả nói riêng và của các nhà Nho thuở ấy nói chung.
Thủa trước, vị Thượng quan Nguyễn Công trứ đã từng tuyên bố: Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông. Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể. Chí sĩ Phan Bội Châu thì khẳng định: Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời. Còn trong bài thơ này, Phan Châu Trinh nhấn mạnh: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Câu thơ thể hiện tư thế hiên ngang, sừng sững giữa trời cao, biển rộng và thái độ kiêu hãnh, tự hào, cùng khát vọng lớn lao của những chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã.
Công việc đập đá vô cùng vất vả, nguy hiểm đã được tác giả miêu tả bằng nghệ thuật cường điệu (hay còn gọi là lối nói khoa trương). Mỗi hình ảnh là một ẩn dụ đặc sắc, chứa đựng ý nghĩa sâu xa:
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Quả là những dũng sĩ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, hành động phi thường và sức mạnh thật là ghê gớm. Điều thú vị là các động tác ước lệ ấy lại giống hệt như những động tác của tù nhân trong công việc khai thác đá hằng ngày.
Phan Châu Trinh đã khắc họa rất thành công hình ảnh kiêu hùng của người tù cách mạng với tầm vóc và tư thế ngang tầm vũ trụ. Họ đã biến công việc lao động khổ sai nặng nhọc thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của những con người có ý chí lớn lao và sức mạnh thần kì. Qua bốn câu thơ đầu, tác giả đã dựng lên một tượng đài uy nghi về người anh hùng với khí phách hiên ngang, lẫm liệt.
Nếu trong bốn câu thơ đầu, tác giả kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm thì trong bốn câu thơ cuối, tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Đây là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thử thách gian nan, luôn giữ vững khí tiết, niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong được miêu tả ở trên đã tạo nên một hình tượng nghệ thuật giàu tính sử thi, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Để làm nổi bật chí lớn, gan to của người anh hùng, tác giả đã đặt nhân vật trong thế tương quan đối lập với những thử thách lớn lao. Ở câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan (tháng ngày, mưa nắng) và sức chịu đựng kiên trì, bền bỉ cùng ý chí chiến đấu, chiến thắng mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng (thân sành sỏi, dạ sắt son).
Câu 7 – 8 nêu bật khí phách cương cường rất đáng khâm phục của những con người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX. Tác giả tự hào gọi họ là Những kẻ vá trời và so sánh hành động của họ giống với hành động đội đá vá trời của bà Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc ở tính chất vĩ đại, phi thường.
Bởi thế nên những thử thách trên bước đường chiến đấu được Phan Châu Trinh và các đồng chí của ông coi chỉ là những việc con con (tầm thường, không đáng kể). Sự thật thì bản án tử hình và hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng đâu có phải là việc con con? Có điều, đặt bên cạnh lí tưởng vì dân vì nước thì quả là nó chẳng có gì đáng phải bận tâm.
Âm hưởng chung của bài thơ là hào hùng, sảng khoái. Cảm xúc của nhà thơ bay bổng vượt lên trên thực tế tù đày và sự nặng nhọc, hiểm nguy của công việc đập đá ở Côn Lôn. Vẻ đẹp của Những kẻ vá trời khi lỡ bước biểu hiện ở khí phách ngang tàng, lẫm liệt trước những thử thách, gian lao, ở ý chí chiến đấu bất khuất và niềm tin vững chắc vào thắng lợi.
Bài thơ là hình tượng tuyệt vời về những người anh hùng cứu nước đầu thế kỉ XX. Họ đã chấp nhận hi sinh cuộc đời mình để đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại chủ quyền độc lập tự do thiêng liêng cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 3
Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sống mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái “địa ngục trần gian” này là nơi giam cầm, đọa đày dã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây.
Bị đày đến địa ngục, Phan Châu Trinh tự xác định: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Trong tư thế “đứng” ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin – Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan Châu Trinh thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang.
Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí “làm trai” của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách. Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan Châu Trinh, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc.
Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng: Lừng lẫy làm cho lở núi non. Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩa rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ “làm trai” có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
“Xách búa”, “ra tay” thể hiện tư thế chủ động; “đánh tan”, “đập bể” động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để “đập bể”, “đánh tan” cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.
Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông “vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu”, Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Nhật kí trong tù)
Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời “sắt son” một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước. Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Phan tự ví mình là kẻ “vá trời”, lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, “lỡ bước”! Bị “lỡ bước” trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng.
Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng: Gian nan chi kể việc con con! Ông xem đó chỉ là việc “con con”, không đáng kể, thái độ tư thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan:
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu)
Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, “đứng trên đầu thù”. Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 4
Là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt, Phan Châu Trinh là một chí sĩ yêu nước quả cảm và tài hoa. Dường như trong những tâm hồn chí sĩ như ông, khí phách ngang tàn đã thấm vào máu xương để dù trong hoàn cảnh nào thì vẫn sáng lên như ngọn hải đăng trong đêm tối mịt mùng của thời đại.
Bài thơ: “Đập đá ở Côn Lôn” ra đời năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, trong hoàn cảnh ấy, cả bài thơ vẫn sáng bừng khí phách của người anh hùng thời đại. Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã phác họa nên chân dung vị anh hùng hào sảng:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Đây là bài thơ ra đời năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ra Côn Đảo vì vụ chống thuế ở Trung Kì nhưng đọc hai câu thơ đầu, ta không hề cảm nhận được đây là một người tù khổ sai ở cái nơi mệnh danh là “địa ngục trần gian” mà là một trang nam nhi khí khái hơn người ở giữa trời đất bao la mà Côn Lôn không chỉ là một địa danh solo thuần mà là một vùng rộng lớn bao la, là phông nền cho hình ảnh cao lớn của con người.
Ở giữa nơi bao la hoang vắng ấy, khí phách của con người dường như “lừng lẫy”, hiên ngang tới mức núi non cũng phải rung chuyển.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Những hành động “xách búa”, “ra tay” đi kèm với những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” trong biện pháp nói quá đã vẽ nên chân dung vạm vỡ khỏe mạnh của người chí sĩ yêu nước. Đây là những chi tiết tả thực được lí tưởng hóa cao độ. Là người tù khổ sai ở Côn Lôn, công việc nặng nhọc chính của những người tù cách mạng đó là đập đá để xây nhà tù.
Họ phải dùng những dụng cụ vô cùng thô sơ như búa, xẻng để đập những ghè đá to và vững trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt cùng hoàn cảnh sống kham khổ lại dưới sự quản thúc đòn roi của bè lũ tay sai. Những hành động ấy đi vào trong thơ của Phan Châu Trinh không còn nhuốm màu bi thương mà hùng tráng vô cùng.
Ta như cảm nhận được sức mạnh dời non lấp bể của một trang nam nhi trí lớn, trong từng nhát búa bổ xuống không chỉ là sức mạnh thể chất phi thường mà còn là ý chí sắt đá, lòng căm thù giặc sâu sắc. Và có lẽ cũng chính vì như vậy mà Phan Châu Trinh coi những ngày tháng phải chịu khổ sai ở nơi đây chỉ là thử thách để tôi rèn ý chí và sức mạnh:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Ngày tháng càng dài, con người ta như càng kiên trì, sành sỏi hơn, càng nhiều khổ cực, nắng mưa dãi dầu, lòng con người ta như càng vững, càng tin hơn. Côn Đảo thực chất là nơi mà thực dân Pháp cố tình lập ra để giam cầm những chí sĩ yêu nước, những nhà cách mạng trong khổ sai và tra tấn, muốn làm thui chột ý chí chiến đấu của họ để tiêu tan đi mọi lí tưởng về một dân tộc tự do.
Nhưng chúng đã lầm, tinh thần sắt son của những chí sĩ cách mạng không những không mất đi mà giống như vàng càng thử qua lửa thì càng giá trị. Phan Châu Trinh đã coi những năm tháng này chỉ như thử thách tôi rèn bản thân và lí tưởng nơi ông chỉ có thể ngày càng rõ ràng, hun đúc, không bao giờ tàn lụi. Bởi ông đã tự coi mình là:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con.
Ông tự cho mình là “kẻ vá trời”, người nhận trách nhiệm cao cả và vĩ đại vì sự bình yên và no ấm của muôn dân vì vậy khổ sai ở Côn Lôn chỉ là việc “con con” không đáng kể trong hành trình vĩ đại của ông. Cả bài thơ toát lên một khí phách kiên cường bất khuất với một giọng hào sảng, hiên ngang. Đó chính là tinh thần của những chí sĩ yêu nước cuối thế kỉ XIX với quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi gông kìm nô lệ của chế độ thực dân.
Hình ảnh người chí sĩ yêu nước hiên ngang dõng dạc sẽ không thể phai mờ trong lòng những thế hệ sau, cổ vũ thế hệ tiếp tục bước lên phía trước với một khí phách kiên cường bất khuất, xứng đáng với cha ông ta ngày trước.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 6
Phan Châu Trinh bên cạnh là một nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng, ông còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc. Các tác phẩm của ông thấm đẫm tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu kiên trinh, bền bỉ. Đập đá ở Côn Lôn là một trong các những bài thơ tiêu biểu thể hiện tinh thần cứng cỏi, yêu nước của tác giả.
Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh ông bị bắt giam, lưu đày ngoài đảo với công việc đập đá khổ sai. Nhưng ngay từ những câu thơ đầu đã thể hiện được tinh thần sắt đá, tư thế sừng sững, lớn lao, nổi bật giữa đất trời của người chí sĩ cách mạng:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Hai câu thơ đầu đã thể hiện chí nam nhi thường thấy trong văn học. Văn học dân gian khẳng định, làm trai thì phải:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên.
Sống cùng thời với Phan Châu Chinh, Phan Bội Châu cũng có quan điểm tương tự: Sinh vi nam tử yếu hi kì. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh chí làm trai thật lớn lao, mạnh mẽ, nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế làm chủ, hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, vô cùng anh dũng, kiêu hùng.
Đây cũng là nét mới trong cách thể hiện chí làm trai của ông. Giữa non nước, đất trời Côn Lôn, con người được đặt vào vị trí trung tâm với sức mạnh “làm cho lở núi non”. Từ “lừng lẫy” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh hơn nữa sức mạnh phi thường của nhân vật trữ tình.
Để làm rõ sức mạnh phi thường của kẻ làm trai, hai câu thơ tiếp theo miêu tả trực tiếp sức mạnh đó: Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn. Tác giả sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: xách búa, ra tay, đập bể cho thấy sức mạnh thần kì của con người. Sử dụng số từ năm bảy, mấy trăm có tính chất ước lệ càng khẳng định hơn nữa vẻ đẹp sức mạnh của con người.
Hai câu thơ dùng nhiều thanh trắc với nhịp điệu mạnh mẽ như chính những hành động trong thực tế công việc của tác giả. Đây đồng thời cũng là hình ảnh thực tế của công việc đập đá mà người tù khổ sai phải làm, nhưng câu thơ không dừng lại là tái hiện công việc mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh của kẻ làm trai. Gây ấn tượng về con người có tầm vóc sánh ngang vũ trụ.
Những câu thơ cuối thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước.
Gian nan chi kể việc con con!
Bốn câu thơ cuối tạo tương quan đối lập giữa hoàn cảnh thực tế với ý chí kiên cường, dẻo dai của người chiến sĩ. Hai câu thực có sự đối lập giữa “tháng ngày”, “mưa nắng” với “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” – đối lập giữa gian khổ với sức chịu đựng dẻo dai và ý chí bền bỉ phi thường của người chiến sĩ. Hai câu thơ cuối thật đẹp đẽ: đây không còn là công việc khổ sai mà trở thành trọng trách lớn lao “vá trời”.
Ông tự nhận trách nhiệm to lớn, cứu nước cứu dân, bởi vậy những gian nan vất vả này chỉ là thử thách nhỏ bé, tầm thường không đáng quan tâm. Câu thơ đã hoàn chỉnh bức tranh chân dung tinh thần của người chiến sĩ. Bài thơ kết hợp hài hòa giữa giọng điệu hào hùng và bút pháp lãng mạn, người chí sĩ cách mạng được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, phóng đại và thủ pháp đối lập. Thể thơ thất ngôn bát cú phù hợp với nội dung tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của bài.
Tác phẩm đã cho thấy ý chí kiên trung, nghị lực phi thường của người chí sĩ cách mạng trong hoàn cảnh khổ sai, tù đày vẫn vững lòng với sự nghiệp cứu nước của mình. Bài thơ còn có ý nghĩa nêu gương và động viên to lớn đối với thế hệ cách mạng sau này.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 1
Phan Châu Trinh là một trong các những chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật cường, một bản lĩnh ngang tầm với dũng sĩ thần thoại.
Nhà tù thực dân Côn Đảo là một địa ngục trần gian. Bọn thực dân dùng nơi này để đày đọa những con người yêu nước ưu tú hòng làm nhụt chí khí đấu tranh của họ. Trong đó, đập đá là một trong các những công việc cực nhọc mà người đi đày phải làm. Phan Chu Trinh cũng ở trong số tù khổ sai ấy.
Nhưng giữa nắng gió biển khơi khắc nghiệt, người tù Phan Chu Trinh đã dựng lên cả một tượng đài bằng thơ thể hiện một vẻ đẹp lẫm liệt, phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù và cũng bằng những hình ảnh ấy mà khắc họa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Câu mở đầu, tác giả phác ra bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận “làm trai” đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: “Làm trai cho đáng nên trai”. Nguyễn Công Trứ thì viết: “Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông; Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”. Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: ” Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời”…
Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thông. Trong câu thơ của Phan Chu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: “… đứng giữa đất Côn Lôn” là “đứng giữa” biển – trời – đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình.
Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận: “xách búa”, “ra tay”; và “lừng lẫy” những chiến công “lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”. Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.
Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng:
Tháng ngày bao quản thông sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chỉ kể việc con con!
“Thân sành sỏi”, “dạ sắt son” sẽ bền bỉ trụ lại được cùng “tháng ngày”, mưa nắng”. Thế đối lập ở câu 5-6 thể hiện sự kiên tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung, son sắt “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Vững vàng đến “trơ gan cùng tuế nguyệt”, đến ngạo nghễ đã là đạo sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung. Phan Chu Trinh xuất thân nho học, ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hòa thấm thuần thục với tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Trong bối cảnh đầy những gian nan, thử thách hồi đầu thế kỷ XX người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những con người bất chấp hy sinh, nguy khó, biết quên thân mình.
Có khi còn phải biết gồng mình lên, chiến thắng hoàn cảnh bằng ý chí. Cảm hứng lãng mạn hào hùng tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm ở hai câu thơ kết với hình ảnh thơ mang đậm chất sử thi. Hai chữ “vá trời” lấy từ tích Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được thi vị hóa đến mức thần kỳ, giống như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh “những kẻ vá trời” vừa thực vừa bay bổng, khoa trương.
Thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được miêu tả ở 4 câu thơ đầu. Bay bổng, khoa trương ở lối ví với nhân vật trong thần tích. Hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao, kỳ vĩ (vá trời) với thực tế gian nan chỉ là “việc con con”.
Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, niềm tin lớn vào sự nghiệp chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể đè bẹp mọi trở ngại gian nan. Thực tế thì những khó khăn tác giả đang phải đương đầu không “con con” chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy, bằng ý chí quật cường tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường dằng dặc chông gai trước mắt. Đó cũng là một cuộc chiến thắng chính mình.
Đập đá ở Côn Lôn và Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là hai bài thơ của hai nhà nho yêu nước tiêu biểu trong phong trào cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. Qua đó chúng ta nhận ra cái mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Rồi đây cái mạch nguồn ấy lại bừng lên thành những đợt sóng mãnh liệt và thể hiện trong văn học kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp.
Bài văn phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh số 7
Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước lớn, sớm có tinh thần dân chủ ở nước ta. Ông là một trong các những người đã làm dấy lên phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Không những là một nhà chính trị, một nhà hoạt động cách mạng hăng say, Phan Châu Trinh còn là một nhà văn, nhà thơ. Cũng giống như nhiều nhà cách mạng khác, Phan Châu Trinh đã dùng ngòi bút của mình như một thứ vũ khí tinh thần cổ động và kích động tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đập đá ở Côn Lôn là một trong các những bài thơ tù nổi tiếng của ông.
Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ ông làm tại nơi ông bị bắt làm tù khổ sai ở đảo Côn Lôn, do bị vu cho tội khởi xướng phong trào chống thuế Trung Kì. Cũng giống như bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, bài thơ này mang khẩu khí ngạo nghễ, bất chấp gian khổ, khẳng định bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng đầy nhiệt huyết.
Bài thơ mở đầu với tư thế của kẻ làm trai :
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Không phải ngẫu nhiên kẻ làm trai lại được ví tư thế của mình với đất Côn Lôn, được đặt giữa đất Côn Lôn. Mảnh đất đảo xa, đầy nắng gió khắc nghiệt, lại là nơi thực dân Pháp lập nhà tù khổ sai để giam cầm các chiến sĩ cách mạng của ta, những nhà hoạt động yêu nước. Côn Lôn có thể coi là mảnh đất của cái chết, hủy diệt sinh mạng của con người.
Giữa cái mảnh đất tử thần đó, người làm trai phải khẳng định được tư thế của mình. “Lừng lẫy làm cho lở núi non”, “lừng lẫy” là tính từ chỉ sự vang dội, ở đâu cũng nghe thấy tiếng vang. Hình ảnh “làm cho lở núi non” là hình ảnh hùng vĩ, vang dội như động đất, núi lửa, kinh thiên động địa.
Tư thế của con người ngang hàng cùng với núi non. Đó là tư thế đĩnh, đạc, hiên ngang, ngạo nghễ của một người anh hùng trong trời đất. “Làm trai” ở đây thực chất là làm chủ giang sơn, gây tiếng tăm vang dội. Đó là quan niệm làm trai của Phan Bội Châu.
Hai câu thơ sau nhà thơ mới đi vào tả cụ thể việc đập đá ở Côn Lôn. Với nhà thơ, đây là một trong các những biểu hiện cho việc làm trai giữa trời đất:
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Những cụm động từ “xách búa”, “ra tay” đứng đầu câu tạo một chất giọng khỏe khoắn, hãng hái. Những từ “đánh tan”, “đập bể” đầy sức mạnh. Các từ chỉ số lượng “dăm bảy đống”, “mấy trăm hòn” càng tôn thêm cho sức mạnh như vũ bão ấy. Cả hai câu thơ đầy khí thế, tưởng chừng như sẵn sàng đập tan những gì cứng rắn nhất.
Ta cảm giác như trong hành động đập đá của người tù khổ sai ấy là một ý chí và một sức mạnh không có gì địch nổi. Tinh thần, khí thế bừng bừng của người tù khổ sai ấy đã nâng lên thành một lời hứa chắc nịch :
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
“Tháng ngày” là một khoảng thời gian dài, triền miên từ ngày này sang ngày khác. Nói đến tháng ngày lúc này chính là nhà thơ đang nói đến những ngày tháng ở Côn Lôn. “Thân sành sỏi” là thân phận của người tù khổ sai. Nhưng cụm từ “bao quản” đứng giữa câu thơ như một lời khẳng định chắc nịch tinh thần không sợ hiểm nguy của người tù. “Mưa nắng” là những hiện tượng của tự nhiên, nhưng ở đây được hiểu như là những hiểm nguy của cuộc sống tù đày nơi Côn đảo.
Nắng mưa ấy có thể làm xoay mòn đá núi, nhưng không thể làm sờn lòng người tù cách mạng, “chi sờn dạ sắt son”. “Dạ sắt son” là dạ rắn như sắt, đỏ như son, thuỷ chung như nhất. Dù nắng mưa có thế nào thì nó vẫn không bao giờ đổi thay. Hai câu thơ tả sức chịu đựng gian khổ, thử thách nghe như một lời tự khẳng định và như một lời thề thiêng liêng.
Hai câu thơ kết bài thơ cho chúng ta biết ý nghĩa sâu xa của công việc đập đá của nhà thơ – người tù :
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con !
Với người tù này, thân phận tù đày chỉ là một phút sa cơ, gặp tai ách rủi ro trên bước đường hoạt động cách mạng. Họ gọi mình là “những kẻ vá trời”. Câu thơ gợi nhắc cho ta đến câu chuyện Nữ Oa vá trời. Thì ra những kẻ đập đá, làm lở núi non trên kia là những kẻ đang luyện đá vá trời, đang đưa vai gánh vác vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Họ không phải là những người tù khổ sai bình thường.
Có thể bạn thích: