Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông nổi danh từ phong trào Thơ mới với tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”. Tác phẩm nổi … xem thêm…tiếng nhất của nhà thơ trong tập thơ này đó là “Tràng giang”. Qua bài thơ, Huy Cận đã khắc hoạ cảnh thiên nhiên trời rộng sông dài mênh mang, rợn ngợp và biểu hiện một cái tôi thi sĩ mang đậm nỗi sầu nhân thế và tình yêu quê hương thiết tha, thầm kín. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 2
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 6
“Tràng Giang” là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “ Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước. Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.
Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đê “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào. Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà. “Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Những câu thơ đầu tiên đưa ta đến với những ấn tượng về cảnh sông nước bao la trong một không gian mênh mông, bát ngát:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Sự mênh mang của không gian được gợi ra qua từng lớp từng lớp sóng. Sóng gợn nhấp nhô trên dòng sông dài khiến nỗi buồn chất chồng “điệp điệp”. Từ “ điệp điệp” vang lên khiên lòng người trĩu nặng, tạo lên một âm điệu trầm buồn còn mãi đọng lại dư âm. Trước không gian rộng lớn của dòng sông ta bắt gặp hình ảnh một con thuyền xa xăm xuôi mái theo những dòng nước song song rong ruổi về cuối chân trời. Cái nhỏ nhoi của con thuyền đơn độc càng làm nổi bật hơn cái rộng dài tưởng như mênh mang của dòng sông. Hai câu thơ với nghệ thuật đặc tả và khả năng khơi gợi đã làm nổi bật lên cái tôi trữ tình của tác giả cũng là cái tôi thơ mới trong Tràng giang: một tâm hồn man mác cô đơn. Hai câu thơ tiếp:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng
“Thuyền về” khiền mặt sông trở lên heo hút, “nước lại sầu trăm ngả”. “Thuyền” và “nước” di chuyển trái chiều nhau như một sự chia ly xa cách. Con thuyền đơn độc, lẻ loi chỉ xuất hiện một chút trong không gian rợn ngợp rồi lại rời đi để lại nỗi buồn ngổn ngang, trăm mối tơ vò. “Nước” và “thuyền” chỉ gợi lên nỗi “sầu trăm ngả” nhưng “củi một cành khô” lại cho ta cảm giác chênh chao, heo hút đến rợn người. Hình ảnh “củi” đã gầy guộc mong manh, ở đây “củi một cành khô” lại càng thêm nhỏ bé, như “lạc mấy dòng” vào vô vọng trong những con sóng nối tiếp đến vô cùng. Cái tôi trữ tình ở đây dường như trở lên mong manh, đơn bạc giữa những sóng gió cuộc đời. Những hi vọng xa xăm, những nỗi buồn rồi những băn khoăn về lí tưởng. Chỉ bằng những hình ảnh đơn sơ nhưng câu thơ đã khơi gợi lên thân phận cô đơn của cả một kiếp người. Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang mở ra với một nỗi buồn sâu lắng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khổ thơ có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn dường như không vơi đi mà còn lặng lẽ hơn. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước, “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. “Cồn cỏ” xuất hiện nhưng lại “lơ thơ” với “đìu hiu” tạo nên khung cảnh cô liêu, tịch mịch đầy tâm trạng. Làng xóm hiện ra nhưng chỉ với âm thanh xa vời “đâu tiếng làng xa”. “Chợ chiều” thường gắn với hình ảnh hiu hắt khi con người đã ra về hết, chỉ còn lại hàng quán với mái lá vắng tanh. Cảnh vật, làng xóm dường như càng làm cái tôi trữ tình cô đơn hơn, nổi bật lên khát khao trong tâm hồn của một con người mong muốn sẻ chia. Rồi nỗi buồn như lan toả hết không gian của bến bãi, mặt nước, bầu trời. “Nắng xuống” – “trời lên” hai hình ảnh vận động trái ngược làm cho không gian thêm chiều sâu. Cụm từ “sâu chót vót” chuyển đổi cảm giác khiến ta như rợn ngợp trước đất trời. Cảm xúc lướt dần để rồi đọng lại ở “bến cô liêu” như lột tả hết những cô đơn, hoang vắng, trống trải trong hồn người. Tiếp theo:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo trôi dạt dường như khéo léo ẩn dụ cho thân phận nổi trôi của một kiếp người bế tắc. Những cánh bèo này không chỉ có một mà “hàng nối hàng” , cảm giác như miên man không dứt. Hai câu thơ sau càng cho ta thấy thêm sự vô vọng, “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, chẳng có một “niềm thân mật” nào để bám víu. Khoảnh khắc mà ánh sáng xanh của bờ bãi và nét vàng mờ nhạt xuất hiện là lúc cái tôi trữ tình chìm sâu trong nỗi buồn, những suy nghĩ mông lung. Khép lại bài thơ là những nét thiên nhiên nhưng mang tâm sự của con người:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ nhưng vẫn mang đầy dáng vẻ cô đơn trong bóng chiều hiu hắt. Giữa trời đất bao la chỉ có một cánh chim nhỏ chao nghiêng. Tất cả như cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người như chìm ngập giữa trời đất bao la. Cảm giác chênh chao của cán chim lẻ bóng lại xuất hiện để nổi bật lên trong nỗi sầu là tình cảm yêu quê hương đất nước đến da diết của cái tôi trữ tình. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, hai chữ “dợn dợn” thật đắt, nó thể hiện được cái dợn dợn trong tâm cảnh cũng như trong tâm hồn. Câu thơ cuối gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng ở Huy Cận, ông không cần phải có “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tâm khảm.
“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 10
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 10
Nhắc đến phong trào Thơ mới ta không thể không nhắc đến hồn thơ Huy Cận giàu hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. “Tràng giang” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất Huy Cận ẩn đằng sau bức tranh thiên nhiên được thi nhân vẽ lại bằng ngôn từ đó là cái tôi trữ tình mang nỗi buồn thương cô tịch, cô đơn trước cảnh thiên nhiên và luôn mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng mà thầm kín.
“Tràng giang” được bắt nguồn cảm hứng vào một chiều thu 1939 Huy Cận đứng ở bờ Nam bến nước Chèm nhìn cảnh sông Hồng sóng nước mênh mông mà buồn về cho thân phận mình và những kiếp người nhỏ bé. Khi ấy ông đã rời quê hương ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh Nông mang trong mình nỗi sầu của lứ thứ xa quê và tình cảnh của người thanh niên trước hoàn cảnh nước nhà bị xâm lăng nên ông đã gửi vào hồn thơ nỗi buồn nhân thế và thầm kín thể hiện tình yêu đất nước.
Thiên nhiên “Tràng giang” được Huy Cận quan sát và miêu tả với không gian hai chiều từ bề rộng mặt sông trải dài sang bên kia “Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu” và sâu chót vót khi nhìn về độ cao của trời chiều. Bức tranh thiên nhiên ấy có dáng dấp cổ điển với những hình ảnh của sông, trời, thuyền, mây cao và cánh chim nghiêng nhưng cũng mang nét hiện đại, đậm chất dân tộc của thi sĩ Việt với những cách tân độc đáo, mới lạ của “Củi một cành khô lạc mấy dòng” hay “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” rồi “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nét cổ điển và hiện đại được kết hợp tài tình trong bài thơ bằng tâm hồn của một thi sĩ tài năng đã viết nên những câu thơ tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn vô tận, nỗi buồn ấy trải dài mênh mông khi “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.
Tuy nhiên ẩn đằng sau đó là cái tôi trữ tình yêu tha thiết thiên nhiên đất nước của tác giả. Có yêu, có rung động trước cảnh đẹp của thiên nhiên mới có thể viết nên những câu thơ tả cảnh hay và đẹp như thế. Mặt khác đó còn là cái tôi trữ tình mang tâm trạng buồn thương, cô đơn, cô độc. Nỗi buồn ấy mở ra bằng “buồn điệp điệp” và kết thúc bằng “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. Nỗi buồn, cô đơn xuyên suốt trong toàn bài được thể hiện qua các hình ảnh của cành củi khô, trôi dạt giữ dòng nước mênh mông, là cánh chim nhỏ nghiêng cánh trong bóng chiều sa. Cuộc sống nơi đây “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật” chỉ có cái tôi cá nhân nhỏ bé giữa thiên nhiên. Đối diện với cái vô cùng vô tận càng khiến cho nhà thơ hiểu sâu sắc về sự hữu hạn của đời người thấm thía trong “một chiếc linh hồn nhỏ” của một con người mang trong mình “Mang mang vạn cổ sầu” của riêng Huy Cận.
“Tràng giang” còn bộc lộ một tâm hồn tinh tế tài hoa và đặc biệt hơn cả là tình yêu quê hương đất nước sâu sắc mà thầm kín. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ vào năm 1939 tức dân tộc lúc bấy giờ đang bị giặc ngoại xâm, nội xâm hoành hành, cuộc sống người dân nghèo khổ, cơ cực. Huy Cận cũng như bao nhà trí thức yêu nước buồn sâu thẳm cho nỗi đau dân tộc, nỗi khổ dân đen mà chưa tìm ra hướng đi mới cho đến khi bắt gặp lí tưởng của Đảng soi đường.
Bài thơ là sự kết hợp tài tình giữa nét cổ điển và hiện đại được thể hiện trong thể thơ bảy chữ niêm luật không thất, dồi dào về âm điệu, nhạc điệu gợi về cho ta những đặc điểm của bất kì con sông nào của quê hương ẩn đằng sau đó là cái tôi trữ tình đáng quý, đáng trân trọng.
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 1
Trong phong trào thơ mới và trong cả nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận đều là hai nhà thơ lớn, những tên tuổi hàng đầu có những đóng góp to lớn cho nền văn học của nước nhà. Hai nhà thơ này lại chính là những người bạn thân thiết, đến độ tri âm, tri kỷ thế nhưng mỗi một nhà thơ lại có riêng cho mình một nỗi ám ảnh, một niềm suy tư riêng về cuộc đời. Nếu như Xuân Diệu suốt một đời thơ cứ mang một nỗi ám ảnh thời gian, thiết tha với một lòng nồng nàn yêu thương cuộc sống đầy rạo rực, cháy bỏng. Thì Huy Cận trong những năm trước cách mạng lại thường mang một nỗi ám ảnh không gian, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, thơ của ông luôn chất chứa những nỗi buồn thế sự, mênh mang của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng trước thời cuộc rối ren. Và cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian ấy hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang, bài thơ đã đưa tên tuổi của Huy Cận vụt sáng thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941.
Huy Cận (1919-2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, ông vừa là một chính khách có nhiều năm hoạt động trong bộ máy nhà nước đồng thời cũng là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng thơ của ông đẹp nhưng thường mang những nỗi buồn da diết vô định của một cái tôi trữ tình đầy sầu não trước trời đất bao la, đó là những buồn thương cho kiếp người, cho cuộc đời, buồn thương cho hoạt cảnh đất nước đầy rối ren, phức tạp, là sự bất lực của người thi sĩ. Sau cách mạng thơ của ông như được thay một tinh thần mới, vui tươi lạc quan, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, và vẫn là những vẻ đẹp của thiên nhiên bao la rộng lớn được ông chú ý ca ngợi nhiều hơn cả. Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận phải kể đến như tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng.
Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng cảnh mênh mông sóng nước của sông Hồng kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, chất thơ vừa cổ điển của thơ Đường lại xen lẫn hiện đại của văn học Pháp, đã đánh dấu phong cách của nhà thơ trước một rừng các nhà thơ mới cùng thời. Đồng thời thể hiện được những nỗi lòng thầm kín của mình về cuộc đời, về kiếp người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời như dòng nước mênh mang, qua đó thể hiện tấm lòng yêu quê hương đất nước âm thầm, sâu sắc.
Chưa cần đi sâu vào đọc hiểu bài thơ, chúng ta cũng đã dễ dàng nhận thấy cái tôi trữ tình trong tác phẩm là một cái tôi mang đầy nỗi cô đơn lạc lõng, đó là tâm hồn của một con người nhỏ bé, một thanh niên trẻ tuổi nhưng đa sầu, đa cảm khi đối mặt với thiên nhiên rộng lớn, đối mặt với con sông Hồng mênh mông sóng nước, khung trời bao la, nhưng cảnh vật lại quá đỗi thưa thớt. Nhan đề “Tràng giang” với âm điệu vang vọng của điệp âm “ang”, kéo dài và mở rộng ra cái không gian rộng lớn của dòng sông, đó là không gian vũ trụ bao la, và lạnh lẽo, cô quạnh trong tâm hồn tác giả. Hơn thế nữa cái tôi trữ tình của tác giả còn thể hiện ở cách dùng từ, nhan đề “Tràng giang” là một từ Hán Việt, mang sắc thái cổ điển, càng tô đậm nên cái nỗi buồn của người thi sĩ, nỗi cô tịch, hồi tưởng về quá khứ với chiều sâu của mấy ngàn năm lịch sử huy hoàng, dễ khiến độc giả liên tưởng đến nỗi buồn thời cuộc của các bậc trí thức đương thời.
Huy Cận không chỉ đích danh con sông Hồng đã khơi nguồn cảm cảm hứng, mà chỉ gọi là “Tràng giang” dường như chỉ chung tất cả những con sông chảy trôi trên mảnh đất hình chữ S. Và tương tự thì những nỗi niềm, những tâm tư của tác giả cũng chính là nỗi niềm chung của thế hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, đó là tâm trạng của những người con sống giữa quê hương, đất nước mến yêu, nhưng tâm hồn luôn cảm thấy lạc lõng, cô đơn, bởi một nỗi đau đớn bất lực trước thời cuộc, trước nỗi đau nước mất nhà tan.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” này cùng kết hợp với nhan đề đã hé mở nội dung và cảm xúc chủ đạo của bài thơ, viết về một không gian rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ, có chiều rộng của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng sông, và khoảng cách cao xa giữa trời và nước. Từ đó cái tôi cá thể giữa không gian ấy mới hiện rõ ra, thức dậy những cảm xúc bâng khuâng, những nỗi nhớ vô định hình của một hồn thơ cô độc, lẻ loi giữa trời đất bao la, bát ngát, trước cái lạnh lẽo mà sông nước mang đến.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Nỗi buồn trong lòng của thi nhân chẳng chất chứ riêng trong tâm hồn mà theo tầm mắt của tác giả đã lan rộng ra khắp mọi cảnh vật tựa như câu thơ mà Nguyễn Du đã viết cho nàng Kiều bạc mệnh của ông rằng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Chàng thanh niên Huy Cận cũng vậy, đôi mắt buồn và cô đơn ấy khi ngắm nhìn con sông rộng lớn cũng khiến con sông ấy nhuộm hẳn một màu sắc u buồn ảm đạm như chính cái tâm hồn của thi nhân. Đó không phải là một nỗi buồn khủng hoảng, mãnh liệt mà là nỗi buồn âm thầm, nhỏ nhẹ tựa như những gợn sóng trên mặt tràng giang, buồn một nỗi buồn “điệp điệp”, có tính tuần hoàn, luẩn quẩn không lối thoát. Sự xuất hiện của con thuyền, của dòng nước vẽ nên một màu sắc cổ điển quen vốn thường xuất hiện trong thi ca cổ, độc giả dường như bắt gặp một luồng sinh khí mới giữa con sông rộng lớn ấy. Bởi bấy lâu nay thuyền và nước luôn là một một cặp đôi song hành, nước đẩy thuyền, thuyền xuôi theo mái nước “song song”, rất đỗi hòa hợp êm đềm.
Nhưng hình ảnh thuyền, nước đi vào thơ của Huy Cận lại chẳng còn được cái cảnh êm đềm như vậy nữa mà nó lại mang cảm giác chia ly, thuyền và nước cũng đi “song song” đấy, nhưng lại là hai kẻ cùng đường ngược hướng, khó tương phùng. Thuyền cô đơn, nước cũng lẻ bóng, trên dòng sông rộng, nước mênh mông lại là nỗi “sầu trăm ngả” giăng kín. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, khác với hình ảnh thuyền – nước ước lệ cổ điển, thì hình ảnh này lại mang trong mình những nét hiện đại mới mẻ, là ẩn dụ cho chính cái tôi trữ tình đầy dự cảm chia ly, lạc lõng của tác giả.
Cũng là chỉ những số kiếp con người trong khốn cảnh lạc lõng, bơ vơ giữa dòng sông cuộc đời mà thuyền nước mỗi cái một nẻo, chẳng giao hòa, chẳng có lấy một chút ấm áp, hy vọng. Cành củi khô Huy Cận nổi lềnh phềnh trên mặt nước, không có lấy một chút sức nặng trong cuộc đời, dần gợi ra những nỗi đau bất lực trước thời cuộc, nỗi day dứt về một cuộc đời mặc sức cho dòng chảy của thế sự đẩy đưa và chưa tìm ra cách để kháng cự của cái tôi trữ tình đầy suy tư, sầu não. Nếu nhìn gần Huy Cận chẳng thể cảm thấy được hơi ấm từ khung cảnh sông nước, mà chỉ thấy lòng thêm lạc lõng cô đơn thì ông quyết định tìm kiếm hơi ấm ấy ở một khung cảnh khác, xa hơn, rộng hơn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Nhưng có lẽ hồn thơ Huy Cận đã phải thất vọng thật nhiều, bởi cái ông thấy lại cũng chẳng có chút hơi ấm nào, mà trái lại càng đem đến sự quạnh quẽ, bởi đó là một không gian khác thậm chí còn hoang vắng, hiu hắt hơn nhiều. Từ láy “lơ thơ” đem đến cảm giác quá đỗi thưa thớt, bất định và xa xăm của những cồn cát nhỏ thấp thoáng trên dòng sông rộng, rồi thêm vài ngọn gió “đìu hiu” lại càng tăng thêm cái ám ảnh hoang vắng, lạnh lẽo trong tâm hồn thi sĩ. Huy Cận còn tô đậm thêm cái cảnh hoang sơ, tịch liêu ấy bằng câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, những tưởng đôi mắt buồn đã tìm được chốn vui, nhưng không phải, bởi thực tế chẳng dễ gì mà lắng tai nghe được những âm thanh chỉ thấp thoáng từ phía xa.
Thế nhưng thi nhân vẫn còn có thể nghe được tiếng vãn chợ của làng xa, vậy chẳng phải chứng tỏ rằng không gian xung quanh tác giả đang ở trạng thái vô cùng tĩnh lặng, tịch liêu đến ám ảnh đấy sao? Hóa ra cả câu thơ là nghệ thuật lấy động chế tĩnh, lấy cái ồn ào nho nhỏ để gợi lên cái sự yên tĩnh đến vô cùng của không gian. Và so sánh với cái tiếng ồn ào, nhộn nhịp của làng xa, nhân buổi chợ chiều, thì chính bản thân tác giả lại càng cảm thấy bản thân càng thêm cô độc, bởi tại nơi sông nước này chỉ có bản thân thi sĩ nhận biết được sự tồn tại của những con người ấy, còn bao nhiêu con người ngoài kia liệu có biết sự tồn tại của nhà thơ, một con người đang quá đỗi lạc lõng bên bến sông im lìm. Tiếp đến hai câu thơ “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” một lần nữa lại càng tô đậm cái không gian rộng lớn, nhấn mạnh cái sự xa cách của trời và đất, của sông và bến, bằng những tiểu đối độc đáo và mới mẻ, dường như mọi vật trong vũ trụ đều trở nên xa cách nhau, chúng cũng lẻ bóng như chính cái tâm hồn đơn độc của nhân vật trữ tình.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Đến khổ thơ thứ ba sự cô đơn lạnh lẽo trong tâm hồn của tác giả lại càng trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn cả. Người ta tiếp tục thấy một tư liệu cổ điển xuất hiện đó là hình ảnh “bèo”, thế nhưng bèo trong thơ ông không phải chỉ những kiếp người rẻ mạt, bấp bênh, mà bèo ở đây cũng tương tự với hình ảnh cành củi khô, cũng mang số kiếp nhẹ bẫng, nổi trôi mặc cho dòng nước xô đẩy, không xác định được bến đỗ cuối của cuộc đời, cũng giống như tâm hồn thi nhân cô đơn, lạc lõng trước dòng đời biến động. Phóng tầm mắt khắp mặt sông sóng gợn, Huy Cận chỉ mong thấy bóng một “chuyến đò ngang”, nhưng không có vẫn hoàn không có, cả khúc sông mênh mông như thế mà chỉ có duy nhất một mình tác giả cô độc, chẳng phải cái nỗi tịch liêu càng nhân lên gấp bội. Cảnh sắc thiên nhiên cứ lạnh lùng, không hơi ấm, không một chút niềm thân mật, chỉ có một không gian bao la cứ dàn trải ra mãi kéo theo cái tâm hồn đầy ưu tư của tác giả lặng lẽ nhìn “bờ xanh tiếp bãi vàng”, tuyệt không còn một phong cảnh nào khác, buồn tẻ vô cùng, nhạt nhẽo một nỗi buồn vô cùng tận.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Đến khổ thơ cuối khung cảnh mênh mông của vũ trụ tiếp tục được mở rộng ra với hình ảnh của mây và núi, đó lại tiếp tục là một hình ảnh thiên nhiên quá đỗi hùng vĩ, là từng tầng mây lớn “lớp lớp” chồng lên nhau ôm lấy những ngọn núi cao chót vớt thành khung cảnh kỳ vĩ “mây cao đùn núi bạc”. Và giữa một khung cảnh đẹp đẽ, bao la, rộng lớn người ta bỗng thấy sự xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, cô đơn, đang chao nghiêng đôi cánh trước “bóng chiều sa” in hằn trong cái nền trời, nền núi mênh mông. Cánh chim ấy cũng lại là một thi liệu cổ điển rất đỗi quen thuộc, cánh chim nhỏ bơ vơ, cô độc tung cánh trong không gian vũ trụ rộng lớn, nhưng mãi chẳng thấy được một cành cây nhỏ để dừng chân, có lẽ cánh chim đã mỏi mệt, có lẽ cánh chim này đã phải cô đơn đến tận cùng.
Và tận cùng nỗi cô đơn tâm hồn thi sĩ, cái tôi trữ tình dần chuyện hướng về nỗi nhớ quê hương tha thiết “Lòng quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, nỗi nhớ ấy sâu sắc, thiết tha nên chẳng cần đến “khói hoàng hôn” cũng đã dâng trào trong hồn thơ Huy Cận. Ngẫm lại thật kỹ, thi nhân đứng trên mảnh đất quê hương nhưng lại mang nỗi sầu muộn, nhung nhớ quê hương, từ đó ta mới vỡ lẽ ra rằng thật sâu trong đó chính là nỗi buồn chung của cả một thế hệ, là nỗi buồn nước mất nhà tan, là niềm suy tưởng về một tổ quốc mấy ngàn năm văn hiến anh hùng nay bỗng trở thành đất nước nô lệ, chịu cảnh rối ren. Thi nhân càng nghĩ lại càng thấy đau xót, chán chường, thấy muốn buông bỏ trong sự bất lực trước thời đại.
Huy Cận với một hồn thơ thường buồn, có lẽ đó là cái buồn cái suy tư bẩm sinh từ trong bụng mẹ, ông mang giọt lệ sầu ảm đạm, đậm ưu tư kết hợp với cái nỗi ám ảnh không gian sâu sắc để sáng tạo ra một thi phẩm xuất sắc như Tràng giang. Cái tôi trữ tình trong bài thơ đó là một cái tôi thật lẻ loi, cô độc mang những nỗi sầu, những cảm giác bất lực, bế tắc trước những đớn đau của quê hương đất nước, mà một thi nhân với lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc như Huy Cận lại phải chịu cảnh bó tay, trơ mắt nhìn đất nước ngày càng tàn tạ, rối ren.
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 5
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 4
Bài văn phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ “Tràng giang” số 1
Có thể bạn thích: