Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong những năm nửa sau thế kỉ XIX. Tất cả thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều viết bằng chữ Nôm, thấm đẫm tư tưởng nhân nghĩa, giàu lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc sục sôi. “Lục Vân Tiên” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông trong đó đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” đã thể hiện rõ sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và toan tính thấp hèn đồng thời thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích đoạn trích trên mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 1
Lục Vân Tiên là tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu dựng lên bức tranh đối lập giữa những người “cương trực”, “khẳng khái”, “vị tha”, “trọng nghĩa hiệp” như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga và những kẻ độc ác, đầy lòng đố kị, ghen ghét như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Qua đó, ông bày tỏ quan niệm của mình về lẽ công bằng và cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác. Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” đã thể hiện xuất sắc quan niệm ấy của nhà thơ.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện thơ. Trên đường về quê chịu tang mẹ, khóc nhiều nên Vân Tiên đã bị mù cả hai mắt, chàng và tiểu đồng bơ vơ nơi đất khách quê người. Đúng lúc này, Trịnh Hâm trên đường đi thi trở về gặp được hai người. Vì tâm địa xấu xa, ghen ghét, hắn đã không giúp bạn bè khi gặp hoạn nạn mà còn lập mưu hãm hại Vân Tiên.
Hắn lừa tiểu đồng vào rừng rồi trói lại, giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ đưa về nhà. Đợi lúc đêm xuống, hắn thực hiện tội ác của mình. Đoạn thơ thể hiện sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, đồng thời gián tiếp gửi gắm lòng tin của tác giả đối với những người lao động bình thường. Tám câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả hành động tội ác của Trịnh Hâm:
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phui pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Trong hoàn cảnh “đêm khuya lặng lẽ như tờ” – đêm hôm khuya khoắt, yên lặng không một tiếng động, người người còn đang say giấc nồng, Trịnh Hâm đã ra tay để hại Vân Tiên. Dường như đó là thời điểm thuận lợi để những kẻ xấu xa thực hiện tội ác của mình bởi chúng dễ dàng che giấu mọi hành vi tội lỗi.
Vì tính đố kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên và lo lắng cho con đường tiến thân của mình, Trịnh Hâm đã ra tay phân tán thầy trò và bất ngờ khiến “Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”. Không chỉ vậy, hắn còn vu khống “giả tiếng kêu trời” để mọi người thức dậy nghĩ rằng Vân Tiên tự mình bị ngã.
Có thể nói, đó là hành động vừa bất nhân, bất nghĩa, vừa độc ác và gian xảo. Đó là hành động bất nhân bởi hắn đang tâm ác lòng hại người khác trong khi người ấy đang rơi vào hoàn cảnh hoạn nạn, không nơi nương tựa, bị mù hai mắt, bị lang băm lừa lấy hết tiền. Đó là hành động bất nghĩa bởi Vân Tiên từng là người bạn từng đàm đạo thơ văn, hứa hẹn đưa Vân Tiên về nhà.
Đó còn là hành động độc ác, gian xảo bởi cái ác đã ăn vào máu thịt, đẩy con người ta vào đau đớn còn sẵn sàng phủi tay khiến người khác hiểu lầm. Chỉ với tám dòng thơ, bộ mặt của một kẻ độc ác, bất nhân, bất nghĩa đã được tái hiện một cách chân thực và toàn diện nhất.
Đối lập với kẻ độc ác, ghen ghét đố kị người khác như Trịnh Hâm là những người thiện lành, có tấm lòng nhân hậu, hào hiệp như Ngư Ông và gia đình của ông. Trời vừa hửng sáng, thấy người gặp nạn, Ngư Ông đã nhanh nhẹn cứu ngay lên bờ và hối thúc gia đình mình tập trung cứu giúp:
“Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”.
Mỗi người nhanh nhẹn, không ai bảo ai mà tìm mọi cách để cứu người. Họ cứu giúp không tính toán, không nề hà, trượng nghĩa và hào hiệp. Sau khi hỏi han biết tình cảnh của Vân Tiên, Ngư Ông còn sẵn lòng cưu mang chàng dù hoàn cảnh hết sức nghèo đói:
“Ngư rằng: Người ở cùng ta
Hôm nay hẩm hót với già cho vui.”
Thậm chí, ông còn không hề tính toán đến ơn cứu mạng:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”.
Qua đó, người đọc lại càng thêm cảm phục tấm lòng nhân ái, bao dung của Ngư Ông. Tấm lòng ấy hoàn toàn đối lập với mưu toan hãm hại người khác của những kẻ độc ác như Trịnh Hâm. Ngư Ông còn có một cuộc sống tự do, hòa hợp với thiên nhiên, tránh xa mọi vòng quay danh lợi:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng…”
Lời tâm sự của Ngư Ông về cuộc sống tự do không kiềm tỏa, tránh xa mọi danh lợi thị phi, tìm đến với thiên nhiên nay đây mai đó cũng chính là quan niệm, ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về một cuộc sống trong sạch thanh cao, giản dị mà vẫn không kém phần phóng khoáng. Những dòng thơ cuối lại càng nhấn mạnh cuộc sống thoải mái, phóng khoáng tự do cùng với thiên nhiên của Ngư Ông:
“Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời, .
Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”.
Có thể nói, qua nhân vật Ngư Ông, Nguyễn Đình Chiểu đã bộc lộ quan điểm nhân dân rất tiến bộ. Tác giả thể hiện niềm tin, khát vọng về cái thiện, về những con người lao động bình thường. Đó là những người đối lập với cái tráo trở, cái lừa lọc ganh ghét, cái đố kị, họ đối xử với đời hòa nhã và bao dung. Phải chăng đó cũng chính là vẻ đẹp ẩn chứa trong tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu?
Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” đã sử dụng cách sắp xếp các tình tiết hợp lí, lời thơ dung dị đời thường, xây dựng các hình ảnh đối lập. Qua đó, người đọc thấy được sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa những người cao cả và những kẻ thấp hèn, đặc biệt cảm nhận được niềm tin mãnh liệt của nhà thơ dành cho vẻ đẹp của những người dân lao động bình dị.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 2
Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” là đoạn trích kể về cảnh ngộ éo le, đau khổ và khó khăn nhất của Lục Vân Tiên. Mẹ mất, thi cử dở dang, đôi mắt bị mù nhưng những đau khổ vẫn bủa vây khi bị chính những người bạn vì ghen ghét, đố kị hãm hại. Và nếu không nhờ đến sự giúp đỡ của Ngư ông thì có lẽ Lục Vân Tiên đã bỏ mạng nơi dòng sông rộng lớn, thăm thẳm ấy.
Đoạn trích này vừa thể hiện được những thủ đoạn ti tiện, tàn nhẫn của những kẻ tiểu nhân, vừa làm người đọc ấm lòng vì lòng tốt của những người ngư dân, họ tuy nghèo nhưng có tấm lòng yêu thương, sống tình nghĩa, hết lòng cưu mang, cứu giúp Lục Vân Tiên.
Trong đoạn trích này, nhà văn Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa rõ nét tính cách ti tiện, tiểu nhân khi hãm hại Lục Vân Tiên. Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn cũng đã từng miêu tả hai nhân vật Kiệm, Hâm bằng vài nét song độc giả cũng đã phần nào hình dung được tính cách của hai nhân vật này:
“Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công”
Chỉ bằng đôi ba câu thơ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã hé lộ cho người đọc thấy bản chất ghen ghét, đố kị của Kiệm, Hâm đối với tài năng của Lục Vân Tiên. Chính vì sự nông cạn trong hiểu biết, bất tài lại vốn có bản chất đố kị nên dù Vân Tiên đã bị mù đôi mắt, cũng không thể tham gia thi cử song hai tên Kiệm, Hâm vẫn đành tâm hãm hại đến cùng:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay”
“Đêm khuya” là thời điểm thích hợp để cho Trịnh Hâm thực hiện kế hoạch hãm hại đê hèn của mình. Không gian vắng lặng “lặng lẽ như tờ”, lại “mịt mờ sương bay”. Có thể nói cả thời gian và không gian đều thích hợp để cho Trịnh Hâm ra tay, bởi thời điểm đêm khuya là thời gian mà mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ, không gian lại mịt mù nên dù có hãm hại người thì “thần không biết, quỷ chẳng hay”. Quả là một kế hoạch tuyệt vời:
“Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”
Quả như dự đoán, Trịnh Hâm đã lợi dụng thời gian đêm khuya, lại biết Vân Tiên đã không thể nhìn thấy nên đã ra tay rất nhanh gọn, dứt khoát “xô ngay xuống vời”. Sau khi lừa Vân Tiên là tiểu đồng bị bắt cóc ( thực chất là bị Trịnh Hâm lừa trói vào rừng), lợi dụng tình thế đơn độc, lại không thể nhìn rõ để ra tay, ta có thể thấy hắn là một kẻ vô cùng mưu mô, xảo quyệt. Nhưng không, hắn không dừng lại ở đó, sau khi rat ay hãm hại Vân Tiên, Trịnh Hâm còn dở trò “Mèo khóc chuột”, lớn tiếng la làng:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
“Giả tiếng kêu trời” bộc lộ sự giả tạo đến đáng khinh của Trịnh Hâm. Có lẽ, sự tình buổi đêm hôm nay là sự chuẩn bị rất chu toàn của hắn, bởi hắn không chỉ ra tay rất nhanh gọn mà còn chuẩn bị cả một bản kịch sau đó. Hắn tỏ ra mình là một kẻ vô tình phát hiện ra sự việc, và còn có lòng tốt kêu lên để mọi người biết “cho người thức dậy lấy lời phôi pha”.Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của hắn là đưa mình thoát ra khỏi danh sách bị tình nghi, tức là hắn đã tạo ra bằng chứng ngoại phạm cho mình. Nghe tiếng kêu của Trịnh Hâm, người trong thuyền xôn xao, hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Lục Vân Tiên vốn là một người hiền lành, tốt bụng, điều này cũng rất được lòng những người xung quanh nên khi biết Vân Tiên gặp nạn thì ai cũng “xót xa tấm lòng”, vô cùng thương tiếc cho chàng. Tuy nhiên,Trịnh Hâm được khắc họa với tính cách tiểu nhân, lươn lẹo, cả sự độc ác, vô lương tâm thì cũng ở trong đoạn trích này, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã xây dựng được những tấm lòng vị tha, nhân hậu của những con người rất đỗi bình thường song lại vô cùng trọng tình nghĩa. Mà cụ thể ở đây là gia đình của Ngư ông:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Nếu Trịnh Hâm lên cả một kế hoạch dài, diễn cả một vở kịch để hại người thì gia đình Ngư ông thấy người bị nạn, không hề suy tính, so đo mà dốc hết sức cứu người xa lạ. Các từ như “hối con”, “ông hơ bụng dạ”, “mụ hơ mặt mày” thể hiện được sự gấp gáp, khẩn trương của hành động cứu người. Dù không hề biết Vân Tiên là ai, nhưng gia đình ông lão vẫn tận lòng cứu giúp bằng cả tấm lòng. Nếu ở trên ta thấy ghê sợ với hành động nhẫn tâm của Hâm thì đến đoạn thơ này ta lại cảm động, thấy ấm lòng vì tấm lòng thương người của gia đình ông lão.
Khi được gia đình Ngư ông cứu giúp, Vân Tiên đã rất cảm động trước những tấm lòng đẹp đó và trăn trở không biết lấy gì ra mà báo đáp thì câu nói của ngư ông càng làm cho vẻ đẹp phẩm chất của ông đáng được trân trọng:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Đến đây, ta cũng có thể thấy được sự tương đồng trong quan điểm sống của Ngư ông và Lục Vân Tiên. Vân Tiên cũng quan niệm “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Có lẽ, vì tấm lòng nhân đức, giúp người một cách vô tư mà Vân Tiên cũng được báo đáp, đúng như câu nói “Ở hiền gặp lành”. Ở lại với gia đình Ngư ông, Lục Vân Tiên đã cảm nhận được cái bình yên, tìm kiếm được ý nghĩa của cuộc sống, cũng suy nghĩ thông suốt được nhiều việc:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi cho sờn lòng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng”
Đoạn thơ thể hiện được sự thanh thản, vô tư khi sống cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, những khúc mắc, những điều trăn trở, u uất trong lòng cũng được Vân Tiên gỡ bỏ “rửa ruột sạch trơn”. Và với Vân Tiên, danh lợi bây giờ cũng chỉ là thứ phù hoa, không thể “sờn lòng đây”. Cuộc sống ẩn dật, vui sống với cuộc sống lao động bình thường, nhịp sống của cuộc sống ẩn dật tự do tự tại mới thực sự là ý nghĩa.
Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” là một đoạn trích khá hay trong tác phẩm. Ở đây, nhà văn Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tranh đối lập về hai kiểu người, hai loại nhân cách. Một bên là Trịnh Hâm xấu xa, vô tình, sẵn sàng hãm hại người vì đố kị, ganh ghét. Một bên lại là những con người lao động vô cùng bình thường, không màng danh lợi, chức tước, sống giản dị nhưng lại vô cùng tình nghĩa, đạo đức.
Qua đoạn trích ta cũng thấy được sự tinh tế của nhà văn khi đi xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 3
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước sống ở cuối thế kỉ XIX , cuộc đời của ông gặp nhiều đau thương, bất hạnh. Xã hội nhiều biến động lớn lao, nhưng sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu lại là những dấu ấn tinh thần lớn lao của thời đại và xã hội ấy trong đó tác phẩm Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm điển hình.
Bên cạnh Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm, người anh hùng lý tưởng phò đời cứu dân lành, ta còn thấy nhân vật ông Ngư cũng mang nhiều vẻ đẹp trong sáng của người dân lương thiện hiền lành sống thanh cao, trong sạch được thể hiện rất rõ trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn.
Trịnh Hâm là một tên bất nhân và bội nghĩa. Bất nhân vì Trịnh Hâm độc ác, đang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa ( Vân Tiên lúc này đã mù mắt), tiền bạc không còn, may nhờ Tiểu đồng dìu dắt, tớ thầy đang bơ vơ “màn trời chiếu đất” rất khổ sở.
Bội nghĩa vì Vân Tiên là bạn của Trịnh Hâm, từng gặp gỡ “trà rượu”, khi vừa tới trường gặp lại bạn, Vân Tiên đã có lời mời nhờ cậy “tình trước ngãi sau – có thương xin giúp nhau phen này”. Và Trịnh Hâm cũng đã từng hứa hẹn “Đương thơm hoạn nạn gặp nhau – Người lành nỡ bỏ người sau sao đành”. Vậy mà ngay lập tức Trịnh Hâm đã nuốt lời.
Kẻ gây tội ác không vô tình mà có âm mưu sắp đặt khá kĩ lưỡng, chặt chẽ.Hắn đã nói : “Hại Tiên phải dùng chiêu này mới xong”. Trước hết , hắn lừa tiểu đồng vào rừng hái lá thuốc, rồi trói vào gốc cây để cho hổ ăn thịt. Rồi giả bộ thương xót ,đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ đưa về đến nhà.
Hắn đợi khi thuyền đã ra đến giữa ‘vời” , lại đêm tối mịt mùng (“nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”) mới ‘ra tay’ hành động. Đến lúc biết không có ai có thể cứu vớt Vân Tiên được nữa, hắn mới lên tiếng “kêu trời” để đánh lừa mọi người, che giấu tội ác của mình. Điều đó cho thấy TRịnh Hâm là đứa gian ngoa, xảo quyệt.
Trong cuộc hội ngộ uống rượu, làm thơ trong quán giữa bốn người bạn Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, thấy Vân Tiên tài cao, Trịnh Hâm đã tỏ rõ thái độ ganh ghét, đố kị.
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Đến lúc này điều lo ấy dường như đã không còn có cơ sở, vậy mà Trịnh Hâm vẫn tìm cách hãm hại Vân Tiên, chứng tỏ cái ác tâm như đã trở thành bản chất của hắn, đã ngấm vào máu thịt hắn. Dục vọng thấp hèn đã biến hắn trở thành con người độc ác, nhẫn tâm.
Bên cạnh hành động tội ác của Trịnh Hâm thì còn có việc làm nhân đức và tính cách cao thượng của ông Ngư, ta phân tích hai câu thơ:
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mạ hơ mặt mày.
Câu thơ mộc mạc, hầu như không đẽo gọt trau chuốt, chỉ kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, nhưng lại gợi tả được hết mối chân thành của cả một gia đình đối với người bị nạn: cả nhà hối hả chạy chữa để cứu sống Vân Tiên bằng những phương cách dân dã ‘vầy lửa’, ‘hơ bụng dạ’, ‘hơ mặt mày’. Có thể thấy ở đâu một tình cảm thương xót, chăm chút rất ân cần chu đáo.
Sau khi đã cứu sống Vân Tiên, biết tình cảm của chàng, ông Ngư đã đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng cưu mang chàng, dù cuộc sống của gia đình ông cũng chỉ “hẩm hút” rau cháo qua ngày. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng và Vân Tiên không biết lấy gì báo đáp. Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, không phải chỉ một lần Nguyễn Đình Chiểu nói đến tấm lòng hào hiệp, trọng điều nhân nghĩa, không vụ lợi cá nhân này. Khi Lục Vân Tiên đánh tan lũ cướp, cứu thoát Kiều Nguyệt Nga, đã khẳng khái tuyên bố:
Làm ơn há nghĩa trông người trả ơn. Và ông Tiều, sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang Thương Tòng cũng đáp lời tạ ơn của chàng: Làm ơn mà lại trông người sao hay?
Thấy việc nghĩa thì làm, không tính toán thiệt hơn, không chờ đợi báo đáp, đó cũng là một nét đẹp nhân cách của ông Ngư, một người lao động bình thường. Cuộc sống của ngư ông là một cuộc đời lao động bình thường của dân chài lưới trên sông nước, được cảm nhận bằng con mắt và trái tim của nhà thơ nên có phần thi vị hóa.
Đó là một cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc ; một cuộc sống tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, một cuộc sống lạc quan, ung dung, thanh thản, bởi con người tự mình làm chủ, có thể ứng phó với mọi tình thế tìm thấy niềm vui trong công việc lao động tự do của mình.
Phải nói rằng đây là một đoạn thơ hay của tác phẩm bởi nó chính là tiếng nói của ông – Nguyễn Đình Chiểu. Nhà thơ tô đậm nhân cách cao đẹp của ông Ngư không chỉ muốn nói lên một sự thực ở đời mà còn muốn nhân đó bộc lộ những quan niệm sống, những điều mong ước thiết tha nhất của mình. Ngôn ngữ trong đoạn thơ vẫn giữ được vẻ mộc mạc, bình dị, dân dã nhưng lời thơ thanh thoát, hình ảnh thơ đẹp gợi cảm (“hứng gió”, ‘chơi trăng’, ‘một bầu trời đất’, ‘tắm mưa trải gió’…)
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 9
Lục Vân Tiên là một trong những truyện đặc sắc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Lục Vân Tiên- một người người chính trực, văn võ song toàn với những đức tính tốt bụng và thật thà. Lục Vân tiên là tiêu biểu cho những người con miền Nam luôn giàu lòng nhân ái, do đó, chàng sau này đã có một kết quả hạnh phúc.
Sau đây là đoạn trích miêu tả cảnh Lục Vân tiên gặp nạn do bị Trịnh hâm hãm hại và được những người dân tốt bụng cứu giúp. Mở đầu đoạn trích là phân cảnh Lục Vân Tiên bị Trịnh hâm hãm hại bởi hắn ganh ghét với những gì mà Lục Vân tiên có, hắn sợ chàng sẽ hơn mình rồi nhẫn tâm làm hại chàng mặc dù khi ấy chàng đã không còn khả năng đe dọa những bước tiến công danh của hắn.
Cả đoạn thơ là sự đối nghịch và nối bật của hai kiểu người, đó là thiện và ác. Qua đó, tác giả thể hiện sự khinh thường với những kẻ luôn ganh ghét người khác và nói lên những thiện cảm của mình đối với những con người tốt bụng.
Đoạn đầu tiên là cảnh Lục vân tiên khi ấy đã bị mù sau khi về tang mẹ, lúc này chàng chỉ có một tiểu đồng bên người. Gặp được Trịnh Hâm, chàng tưởng mình gặp được người giúp đỡ, ai ngờ vì kẻ tiểu nhân mà hắn đã trói tiểu đồng ở trong rừng rồi đẩy Vân tiên xuống nước.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân tiên bị gã xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy lấy lời phui pha
Trong thuyền ai nấy kêu là
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng
Nguyên nhân mà Trịnh Hâm hãm hại Lục vân tiên chính là bởi do hắn đố kị và ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên. Dù khi ấy, Vân Tiên đã bị mù nhưng hắn vẫn không thể buông tha cho chàng. Tất cả những hành động của hắn chứng đỏ một điều hắn là một kẻ vô cùng ích kỉ và có lòng dạ cực kì độc ác.
Hành động bất nhân bất nghĩa của hắn đã khiến cho Vân Tiên, một người đang bị mù lúc đó rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vất vả. Nhưng thật may mắn, chàng đã được ông Ngư và gia đình của ông cứu giúp. Tác giả đã gọi là ông Ngư mà không phải là một cái tên riêng nào như thể hiện cho chúng ta rằng, trong cuộc sống này, không phải ai cũng là kẻ gian ác, có những người người vẫn rất tốt bụng mà đó không chỉ là một người mà là rất rất nhiều những con người như vậy.
Cả gia đình ông Ngư tuy có cuộc sống vất vả, cả gia đình chỉ sống chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé nhưng những nghĩa khí của những con người ấy thì hơn hẳn bất kì ai. Họ luôn giàu lòng thương yêu con người và có những làm những việc thiện mà không hề trông chờ vào sự đền đáp của bất kì một ai cả.
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày
Chỉ với hai câu thơ nhưng hình ảnh giản dị mà chan chứa tình cảm thương yêu con người của gia đình ông Ngư đã hiện lên một cách rõ nét trong lòng người đọc. Đó là những con người với những tấm lòng cao cả, không quản ngại khó khăn vất vả chỉ mong cho những người bị nạn có thể cố gắng vượt qua sóng gió.
Nay đà trôi nổi đến đây
Không chỉ báo đáp mình nầy trơ trơ
Thì Ngư ông lại đáp luôn
Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ”
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn
Với những lời lẽ bộ trực, khảng khái, đó chính là cách ứng xả và nói chuyện của những người dân Nam Bộ, luôn thẳng thắn vì biết hi sinh vì người khác. Và cũng nhờ có Ông mà Vân tiên mới có thể thoát khỏi những khó khăn trong lúc bản thân mình yếu ớt nhất.
Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy được hai bộ mặt của hai con người, là sự đối đầu giữa thiện và ác. Những con người ấy luôn sống đan xen giữa cuộc sống này, có những người xấu nhưng xùng không ít những người tốt bụng. Từ đo chúng ta phải có những bài học cho riêng mình. Mặt khác, bài thơ cũng đã thể hiện được cho chúng ta hình ảnh của những người dân Nam Bộ hiền lành, tốt bụng.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 7
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời kì trung đại với những tác phẩm có giá trị nhân văn cao cả. Truyên Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng nhân đạo của nhà thơ. Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” nằm ở phần hai của tác phẩm thể hiện sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn qua đó tác giả bày tỏ tấm lòng ngợi ca đối với những con người nghèo khổ nhưng có nhân cách, tâm hồn thanh cao.
Cái ác trong đoạn trích được tác giả xây dựng thông qua nhân vật Trịnh Hâm với những mưu mô, xảo quyệt, những toan tính thấp hèn, sự bất nhân bất nghĩa. Điều đó thể hiện qua hành động Trịnh Hâm hãm hại chính người bạn của mình là Lục Vân Tiên. Lúc này, Lục Vân Tiên đã rơi vào đường cùng nơi đất khách. Mẹ ở quê nhà thì mất, mắt thì bị mù, tiền lại bị cướp hết. Những tưởng sẽ được bạn giúp đỡ, nhưng không kẻ tiểu nhân ấy không những không giúp Vân Tiên mà còn mưu mô, toan tính hãm hại chàng:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ
…Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Vì sao Trịnh Hâm lại ra tay sát hại bạn mình trong lúc bạn đang cơn hoạn nạn như thế? Tất cả là vì lòng ganh ghét, đó kị với tài năng của Vân Tiên. Hắn đã chọn một thời điểm mà “người không biết, quỷ không hay” để hãm hại Vân Tiên. Đó là vào lúc “đêm khuya lặng lẽ như tờ”, khi mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Không gian hoang vắng lặn im lại còn mờ ảo “mịt mờ sương bay”. Cả thời gian và không gian đều thích hợp để hắn thực hiện âm mưu của mình. Hành động của Trinh Hâm rất dứt khoát “xô ngay xuống vời” khiến Vân Tiên bất ngờ không kịp kêu cứu. Lúc này bản chất bất giả nhân nghĩa của Trịnh Hâm lại được bộc lộ khi hắn “giả tiếng kêu trời” như để hợp thức hóa hành động của mình.
Chỉ với tám dòng thơ ngăn ngủi nhưng tác giả đã bóc trần tâm địa độc ác, bất nhân bất nghĩa, mưu mô xảo quyệt của Trịnh Hâm. Với ngôn ngữ chân thực, tự nhiên, giàu sức biểu cảm đoạn thơ như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, diễn biến và tình huống. Người đọc càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì lại càng thêm căm ghét tên Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu.
Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là cái thiện của ông Ngư và gia đình ông. Cái Thiện được biểu hiện ngời sáng qua việc làm, lời nói và nhân cách cao cả của ông Ngư. Khi thấy Vân Tiên bị nạn ông đã chẳng mảy may suy nghĩ ra tay cứu giúp, sau đó:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Những hành động gấp gáp, khẩn trương. Việc làm của gia đình ông Ngư xuất phát tấm lòng nhân nghĩa dù không biết người gặp nạn là ai. Sau khi nghe Vân Tiên kể về hoàn cảnh của mình, ông Ngư thương chàng và sẵn sàng mời chàng ở lại cùng gia đình dù cuộc sống của gia đình ông cũng chẳng khá giả gì. Trái tim của ông Ngư thật nhân hậu biết bao!
Được gia đình ông Ngư cứu giúp, Vân Tiên cảm động và không biết lấy gì đền đáp thì câu nói của ông Ngư một lần nữa cho thấy nhân cách cao cả của ông:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Câu thơ thể hiện một quan điểm, một triết lí sống đẹp của ông Ngư: làm việc nhân nghĩa ở đời thì không mong được trả ơn. Cái thiện ở đây còn được biểu hiện qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn
…Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”
Một cuộc sống tự do, tự tại, hòa hợp với thiên nhiên, sông, nước, gió, trăng của một người lao động nghèo. Ông Ngư đã từ bỏ mọi danh lợi viển vông để tìm về với cuộc sống an nhàn, để gắn bó với thiên nhiên bao la, đất trời rộng lớn. Cuộc sống của ông Ngư ngoài vòng danh lợi, chính vì thế mà tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao.
Hình ảnh chiếc thuyền nan nhỏ bế, mỏng manh trôi nổi giữa dòng nước bao la mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời của ông Ngư cũng giống như chiếc thuyền nan ấy. Nhân cách thanh cao của ông sẽ chẳng thể nào bị vấy bẩn bởi cái vòng danh lợi cuộc đời.
Qua đoạn trích “ Lục Vân Tiên gặp nạn” tác giả thể hiện sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Tác giả bày tỏ sự căm ghét với con người nham hiểm, độc ác như Trịnh Hâm và ca ngợi tấm lòng cao đẹp, nhân cách thanh cao của những người lao động nghèo như ông Ngư. Đoạn trích cũng cho thấy sự tinh tế trong việc xây dựng cốt truyện, nhân vật, tình huống của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 6
Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:
Kiệm, Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hầm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.
Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.
Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.
Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…
Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dặt lấy Lời phui pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất cua hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.
Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hâm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng họa thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên một tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.
Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngừ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!
Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư.
Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư. Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngay lên bờ rồi:
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ái, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:
Nay đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình nầy tra trơ.
thì Ngư ông đáp luôn:
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư.
Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!
Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…
Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…
Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hòa nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.
Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:
Một mình thong thả làm ăn
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!
Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:
Kính luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền non một chiếc ở đời, .
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn.
Dường như nhà thơ đả nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.
Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).
Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế. Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:
Tiều rằng: vốn lão tình không,
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai
,Lánh nơi danh lợi chông gai mặc lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quý mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.
Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.
Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?
Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một sô tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay: Ở hiền gặp Lành.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 8
Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn một lần nữa cho thấy tư tưởng nhân nghĩa tỏa sáng trong Truyện Lục Vân Tiên và thể hiện niềm tin của nhà thơ mù đất Đồng Nai đối với nhân dân giữa thời loạn lạc.
Nhân vật ông Ngư được nói đến trong đoạn thơ thật đẹp, tiêu biểu cho đạo lí của nhân dân ta: “Thương người như thể thương thân”. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho ông Ngư một tình cảm nồng hậu biết bao!
Trịnh Hâm là một kẻ độc ác, thâm hiểm, đố kị tài năng. Hắn đã lừa Vân Tiên lên thuyền (khi chàng đã mù) rồi đẩy xuống sông cho chết. Giữa “đêm khuya lặng lẽ như tờ”, hắn đã “ra tuy” đẩy Vân Tiên xuống nước, thế nhưng hắn còn xảo quyệt, đạo đức giả cất “tiếng kêu trời” . Đối lập với những con người độc ác ấy, những người cùng đi thuyền đã đau đớn kêu thương:
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.
Thái độ, tình cảm ấy biểu thị tình thương người của nhân dân ta như ca dao đã truyền lại: “Thấy người hoạn nạn thì thương…” Trời đất cũng không thể phụ một con người tốt đẹp như Vân Tiên. Giao long là một loài thủy quái cũng đã đến cứu người bị nạn:
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Sự xuất hiện của giao long trong cảnh Vân Tiên gặp nạn tuy có tạo nên màu sắc huyền thoại của truyện thơ, nhưng đã làm nổi bật một sự thật cay đắng ở đời, đó đây có lúc con người còn ác độc hơn cả loài lang sói. Trong tình huống ấy, ông Ngư đã xuất hiện. Người bị nạn đã gặp được người nhân đức:
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Bốn chữ “vớt ngay lên bờ” thể hiện một tinh thần hối hả, khẩn trương, kịp thời cứu người chết đuối. Cả một gia đình xúm vào cứu chữa, săn sóc người bị nạn. Con thì “vầy lửa”, đốt lửa lên, sưởi ấm người chết đuối. Hai vợ chồng, người thì “hơ bụng dạ” người thì “hơ mặt mày” cho Vân Tiên:
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
“Hối” nghĩa là hối hả, giục giã, cách nói biểu cảm dân dã của người nông dân Nam Bộ. Trong văn cảnh, nó thể hiện sự lo lắng cho tính mệnh người bị nạn, biểu lộ tình thương người bao la của ông Ngư. Vân Tiên hồi tỉnh, ông Ngư đã ân cần “hỏi han”, hết lời an ủi, chia sẻ nỗi đau buồn với người gặp nạn. Mặc dù nhà nghèo, nhưng ông Ngư đã chân tình mời Vân Tiên, một người mù lòa, đau khổ ở lại với gia đình ông, để được chăm sóc nuôi nấng:
Ngư rằng: “Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui”.
Ở đời, có “một lời nói một đọi máu ” (đọi: bát). Có “một câu nói một gói bạc”. Câu nói của ông Ngư là một tấm lòng vàng, chan chứa tình nhân đạo. Cuộc đời ông Ngư là cuộc đời của một con người “lánh đục tìm trong” xa lánh con đường danh lợi, coi trọng tình người, phấn đấu cho lí tưởng nhân nghĩa cao cả:
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn.
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”.
Vân Tiên đánh cướp cứu dân, cứu Kiều Nguyệt Nga với ý thức: “Làm ơn há để trông người trả ơn”. Ông Ngư cũng vậy: “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Những tấm lòng cao cả ấy đã gặp nhau, họ đã nêu cao tình nhân ái. Và đó cũng là cái lẽ đời: “ở hiền thì lại gặp hiền” như một nhà thơ đã nói.
Ông Ngư ngoài tình nhân ái mênh mông còn có một tâm hồn thanh cao. Ông đã chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Sông dài biển rộng, trời cao là môi trường thảnh thơi, vui thú của ông. Suốt đêm ngày, năm tháng, ông đã lấy doi, vịnh, chích, đầm, lấy bầu trời, lấy Hàn Giang làm nơi vẫy vùng, tìm nguồn vui sống.
Ông đã lấy gió và trăng, con thuyền và dòng sông làm bầu bạn. Ông đã lấy công việc chài lưới để sống cuộc đời thanh bạch. Ông Ngư là một con người tự do, thoát vòng danh lợi, thích nhàn. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn đẹp về lẽ sống của một nhà nho, một kẻ sĩ chân chính đang sống giữa thời loạn lạc:
Rày doi, mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.
(…) Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.
Đây là những câu thơ hay nhất, đậm đà nhất trong Truyện Lục Vân Tiên. Giọng thơ nhẹ nhàng, êm ái. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình dào dạt tạo nên sắc điệu thẩm mĩ sáng giá, biểu hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn trong sáng, thanh cao và phong thái ung dung của ông Ngư.
Cũng như ông Quán, ông Tiều, lão bà, tiểu đồng, nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ này vừa là người lao động chất phác, nhân hậu, vừa là hình ảnh một nho sĩ bình dân coi thường danh lợi, giàu lòng nhân nghĩa, yêu tự do và thanh cao. Sống giữa thời loạn lạc, nhân vật ông Ngư cũng là nhân vật lí tưởng phát ngôn lẽ sống và tư tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Đẹp vậy thay một con người:
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế, vui say trong trời.
Bài văn phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” số 4
“Lục Vân Tiên gặp nạn” là một trong những đoạn trích hay và đặc sắc nhất trong tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên” của nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời đầy bất hạnh Nguyễn Đình Chiểu. Qua sự đối lập giữa thiện và ác, Nguyễn Đình Chiểu qua đoạn trích đã ngợi ca vẻ đẹp, lòng nhân hậu, tình thương của con người, đồng thời tố cáo tội ác tàn nhẫn của những kẻ sống giả tạo, hai lòng, sẵn sàng hãm hại người khác vì sự ích kỷ của bản thân.
Mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện hành động mờ ám, xấu xa của kẻ tiểu nhân Trịnh Hâm khi ra tay đẩy Lục Vân Tiên vào chỗ nguy hiểm:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”
Trịnh Hâm sau khi lừa gạt tiểu đồng- người theo hầu Vân Tiên vào rừng trói lại, hắn bèn lợi dụng cảnh khốn khó, mù loà của bạn để hãm hại Vân Tiên. Âm mưu được sắp đặt sẵn, hắn chờ đến “đêm khuya” thời điểm mà mọi người đang chìm vào giấc ngủ để dễ bề thực hiện hành động ác độc của mình.
Lựa chọn không gian “vắng lặng” cùng “mịt mờ sương bay” lại ở giữa sông giúp hắn ra tay của hắn nhanh chóng mà “người không biết, quỷ không hay” cho thấy hắn thâm hiểm, mưu mô đến mức độ nào. Trịnh Hâm ra tay một cách rất tàn nhẫn, không hề do dự mà đẩy ngày Vân Tiên xuống hồ, khiến chàng hoang mang, không kịp trở tay.
Không chỉ vậy, sau khi đẩy Vân Tiên xuống, kẻ bất nhân đó còn giả tạo đến mức diễn cảnh “vừa ăn cắp vừa la làng” khi giả tiếng than khóc, kêu trời, cầu người giúp đỡ, khi mọi người tỉnh dậy, hắn nói những lời lừa dối hòng lấy lòng thương xót từ người khác để che giấu hành động của mình:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
“Giả tiếng kêu trời”- thật đáng khinh biết bao. Một kế hoạch do hắn lập ra thật hoàn hảo. Kẻ hại người lại cầu người thương xót. Hắn la làng khiến mọi người nghĩ rằng Vân Tiên tự ngã, còn hắn vô tình thấy và kêu cứu. Thật gian xảo biết bao mới nghĩ ra một kế hoạch trọn vẹn và có lợi cho hắn như thế. Sau khi nghe tiếng kêu mọi người xôn xao hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Một người hiền lành, tốt bụng như Lục Vân Tiên thì chẳng ai mà không xót xa, thương tiếc khi nghe tin ấy. Trịnh Hâm thật tàn nhẫn, hẹp hòi khi chỉ vì tư thù, ích kỷ mà sẵn sàng hại người huynh đệ giữa lúc hoạn nạn, khó khăn còn là người mà đã đặt hết niềm tin vào mình.
Đã vậy hắn còn sẵn sàng phủi tay, che dấu tội lỗi của mình. Hại người đã là xấu, hại cả người thân cận, bằng hữu của mình lại càng xấu xa biết bao. Qua tám câu thơ đầu ta thấy được bộ mặt gian xảo, xấu xa, mưu mô, độc ác của Trịnh Hâm, một kẻ bất nhân, bất nghĩa đến ghê tởm.
Khác với Trịnh Hâm tàn ác, mưu mô, những dòng tiếp theo ta được thấy hình ảnh một Ngư Ông đầy hiền lành, tốt bụng, một người đại diện cho những người lao động nghèo chân chính, họ thương người, giúp đời, làm việc thiện bởi hai chữ “nghĩa tình” đáng quý. Khi thấy Vân Tiên mình lụy giữa dòng nước, ông nhanh chóng cứu vớt chàng lên rồi khẩn trương hối thúc mọi người trong gia đình giúp đỡ:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”.
Họ không hề tính toán, so đo thiệt hơn về mình, hành sự đầy hào hiệp, trượng nghĩa. Mỗi người một tay nhanh chóng tập trung cứu người không may, những việc làm tận tâm nơi họ thật đáng trân trọng biết bao, không vì thấy người xa lạ mà bỏ mặc, họ dành cho Vân Tiên sự quan tâm và ủi an hết mực.
Ta càng thấy ghê rợn với hành động của Trịnh Hâm bao nhiêu thì ta lại càng cảm động, càng ấm lòng với hành động của gia đình Ngư Ông bấy nhiêu. Khi biết rõ hoàn cảnh trái ngang của Vân Tiên, lão Ngư lại càng không hề khinh khi mà càng cảm thông sâu sắc, rồi mời Vân Tiên ở lại cùng, dẫu gia đình chẳng hề khá giả hay giàu có gì.
Thật ân tình và đầy thương cảm, tấm lòng “lá rách ít đùm lá rách nhiều” của lão Ngư là một thứ ánh sáng mang đến vầng hào quang đầy nhân văn cho đoạn trích. Khi Vân Tiên trăn trở không biết lấy gì báo đáp công ơn cứu giúp mình, lão Ngư ân cần mà bảo:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Còn điều gì đáng trân quý hơn một tấm lòng nhân nghĩa, hành đạo giúp đời chẳng màng báo đáp. Với ông Ngư, đó là điều cần phải làm trong đời sống, là nghĩa vụ và trách nhiệm, tấm lòng mà mỗi người nên có trong đời.
Không chỉ có việc làm, hành động tốt, lão Ngư còn có một tâm hồn, một lối sống, cách nghĩ đầy cao quý. Với lão, chẳng màng vật chất cao sang, chẳng màng phú quý, bạc vàng hay danh lợi to lớn chỉ cần thấy đủ với cuộc sống, tự do, ung dung trước cuộc đời, trước thiên nhiên:
“Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng…
Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”
Cuộc sống thật thanh cao, khỏe khoắn, chẳng toan tính, nghĩ suy quá nhiều. Sớm mai vui vầy làm bạn cùng mây trời, trăng , gió vui cùng thuyền, câu, sóng, nước. Một cuộc sống bình dị mà ấm êm, đong đầy những tình cảm yêu thương dành cho nhau, cuộc sống ấy thật an nhiên, tự tại biết bao.
Hình ảnh ông Ngư và gia đình là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho hình ảnh những người lao động bình thường, dân giã, ở họ ánh lên sức sống, vẻ đẹp của lương thiện, của chính nghĩa trong đời sống, ở họ ánh lên cả vẻ đẹp của những tấm lòng nhân ái, nhân cách cao cả, sống hành nghĩa, giúp đời đầy cao thượng.
Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vẫn luôn luôn như thế, bình dị, nhẹ nhàng mà chạm đến bao trái tim người đọc bởi những ý nghĩa và giá trị đầy đẹp đẽ mà nó mang lại. “Lục Vân Tiên gặp nạn”- một thi phẩm được viết bằng thể thơ dân tộc bằng tất cả sự nhiệt huyết, lòng mong ước về một cuộc sống bình yên, tốt đẹp với những người lương thiện. Và cao hơn thế nữa là sự ca ngợi và khơi dậy lòng trắc ẩn trong trái tim mỗi chúng ta khi sống giữa đời sống hôm nay.
Có thể bạn thích: