G.đơ Mô-pa-xăng (1850-1893) là nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng, là bậc thầy về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông có cấu trúc chặt chẽ, văn phong trong sáng, tinh luyện, giản dị đạt tới một trình độ nghệ thuật điêu luyện “không sao bắt chước nổi”, như M. Go-rơ-ki dã đánh giá. “Bố của Xi-mông” là văn bản trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ca ngợi tình yêu thương, lòng nhân hậu của con người. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 10
Guydo Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của nước Pháp ở thế kỷ 19. Ông có một tuổi thơ nhiều nỗi buồn, cay đắng với những bất hạnh trong gia đình và nhà trường. Chính bởi cuộc đời nhiều sóng gió đã làm nên một tác giả có tấm lòng nhân hậu, vị tha trong từng trang viết. Sự nghiệp văn chương của ông vô cùng đồ sộ với khoảng trên 300 truyện ngắn, vở kịch và tiểu thuyết.
Một trong những tác phẩm đặc sắc và để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí bạn đọc là “Bố của Xi-mông”. Nhân vật chính của tác phẩm là cậu bé Xi-mông, một em bé “không có bố” nhưng sau cùng, trải qua những tủi nhục trong cuộc sống, em đã có một người bố ấm áp và chan chứa tình yêu thương như một sự bù đắp cho cuộc đời bất hạnh của em.
Câu chuyện kể về cuộc đời của cậu bé Xi-mông. Đó là hoàn cảnh đáng thương của một em bé sinh ra đã không biết cha mình là ai. Cậu bé có một tuổi thơ bất hạnh với những ánh nhìn dè bỉu, chê bai, lạnh nhạt của mọi người. Mẹ cậu bé là Blăng-sốt. Cô từng là một cô gái xinh đẹp nhất vùng. Tuy vậy, cô phải nhận sự tệ bạc của một gã đàn ông và đánh mất tuổi trẻ của mình. Một mình cô sinh ra Xi-mông. Hai mẹ con sống với nhau trong một ngôi nhà nhỏ. Mặc dù đã hết lòng chăm sóc Xi-mông với trách nhiệm của một người mẹ, một người cha nhưng cũng không thể bù đắp được sự thiếu thốn trong tâm hồn trẻ thơ như cậu bé Xi-mông.
Tưởng chừng như cậu bé bất hạnh ấy có thể sẽ không phải chịu thêm khổ đau gì nữa. Vậy nhưng bất hạnh vẫn đeo bám cậu khi ở trường. Ngày đầu tiên đi học cậu đã bị bạn bè đưa ra trêu chọc, nhục mạ và đánh đập vì sinh ra là một đứa trẻ không có cha. Với sự lạnh nhạt và phân biệt đối xử từ bạn bè, cậu luôn sống trong bóng tối với sự mặc cảm, tự ti. Chi tiết giọt nước mắt đã thể hiện rất rõ sự đau đớn, nỗi tủi hờn của Xi-mông.
Điều này đã được tác giả khắc họa rất chi tiết: “cảm giác uể oải thường thấy sau khi khóc”, “và thấy buồn vô cùng, em lại khóc. Người em rung lên”, “chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa và em chỉ khóc hoài”…Chính điều này đã thể hiện sự bi kịch trong tâm hồn cậu bé bất hạnh và từ những suy nghĩ tiêu cực đã khiến cậu có những hành động và việc làm tiêu cực. Cậu đã có ý nghĩ bỏ ra bờ sông và tự tử để giải thoát sư đau đớn, dày vò. Nhưng nhờ vẻ đẹp đặc biệt của thiên nhiên đã khiến cậu vơi bớt đi phần nào sự tủi hờn. Suy nghĩ vẩn vơ và bế tắc, Xi-mông loay hoay với những ý nghĩ về gia đình, ở đó có mẹ, có nhà…
Thế rồi nỗi tuyệt vọng của em ngày một lớn dần. “Em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện…nhưng em không đọc hết được, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang choán lấy em”. Dường như Xi-mông đã được đền đáp. Em đã gặp được bác Phi-lip, một bác thợ rèn “cao lớn, râu tóc đen quăn…nhân hậu”. Như một phép màu giữa đời thường, chú Phi-lip nhẹ nhàng nói: “Thôi nào, đừng buồn nữa, về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu…một ông bố”. Câu nói ấy có sức nặng vô cùng lớn, nó khiến tâm hồn của một đứa trẻ bất hạnh, đau đớn tột cùng trở nên vui vẻ và háo hứng đến kì lạ. Nó xoa dịu mọi nỗi đau trong tâm hồn cậu bé non nớt ấy.
Cuộc gặp gỡ định mệnh ấy là sợi dây nối kết tình phụ tử, nối kết hạnh phúc gia đình. Cảnh tượng Xi-mông nhận bác Phi-lip làm cha thật khiến con người ta chứa chan nhiều xúc cảm. Em ngây thơ hỏi: “Bác có muốn làm bố cháu không?” đã thể hiện hết được nỗi khát khao cháy bỏng của cậu bé ấy. Và khi được bác Phi-lip trả lời “Có chứ, bác có muốn” thì tâm hồn của cậu bé như được vui tươi trở lại. Em nói với một giọng điệu chắc chắn: “Thế nhé! Bác Phi-lip, bác là bố cháu”. Chính sự việc này đã khiến cho em tự tin, hãnh diện và có niềm tin hơn vào cuộc sống. Đó là sự tin tưởng, lạc quan về hạnh phúc trọn vẹn của một gia đình. Và ai cũng có quyền được hưởng điều ấy.
Lê Nguyễn Cẩn đã nhận định “Bố của Xi-mông là câu chuyện về một mảnh đời đặc biệt của trẻ thơ, mảnh đời ấy nhắc nhở mọi người về quyền của trẻ em được sống trong tổ ấm gia đình. Nó còn cho thấy khát vọng trong sáng của tuổi thơ có thể đánh thức dậy ở người khác tình yêu thương, lòng nhân hậu và thái độ không định kiến với những người ở xung quanh mình”. Qua nhân vật Xi-mông, ta cũng hiểu thêm được nhiều điều về cuộc sống, về những ước mơ một mái ấm gia đình tràn đầy yêu thương của những cô bé, cậu bé bất hạnh.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 3
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế? Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em – chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm.
Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”, phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời.Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.
Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ “‘xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”.
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “dương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi”. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố”.
Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, râu tóc đều quăn… nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: “ Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em – chị Blăng-sốt.
Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố”. Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.
Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “ Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:“Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!
Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sống, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ” “Có bố thì hạnh phúc”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu!
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 5
Mông-pa-xăng là một nhà văn nổi tiếng của nước Pháp. Ông để lại số lượng tác phẩm khá đồ sộ khoảng hơn 300 truyện ngắn. Trong đó, mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những con người bất hạnh, thiếu hụt tình cảm vật chất trong cuộc sống.
Tác phẩm “Bố của Xi- mông” kể về câu chuyện bất hạnh, tủi nhục của một em bé thiếu thốn tình cảm của một người cha, sinh ra không có bố, bị bạn bè trêu chọc, mọi người xa lánh mẹ con em. Mẹ của bé Xi- mông chính là nhân vật Blang là một người phụ nữ đáng thương. Chị có một tình yêu với một người đàn ông đã có vợ, nhưng khi chị mang thai và sinh Xi-mông thì người đàn ông đó hoàn toàn bỏ mặc hai mẹ con, khiến cho chị phải mang sự nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ mà sống. Chị phải làm rất nhiều việc nặng nhọc, làm nhiều nghề khác nhau để nuôi Xi-mông khôn lớn, lo cho con tới trường, khiến cho người đọc vô cùng thương cảm.
Tuổi thơ của cậu bé Xi-mông là chuỗi những ngày tháng vô cùng đơn độc, cô đơn lạnh lẽo trong ngôi nhà nhỏ thiếu tình thương của người đời, chỉ có hai mẹ con em nương tựa vào nhau mà sống. Đáng ra trường học chính là nơi Xi-mông được hưởng trọn niềm vui của tuổi thơ, bởi nơi đó có bạn bè thầy cô yêu thương em. Nhưng chính trường học của Xi- mông lại chính là địa ngục của câu bé, là nơi mà Xi-mông chịu sự xỉ nhục, trêu chọc đánh đập của bạn bè. Là nơi độc ác nhất bởi em thường xuyên phải nghe những lời chửi bới, những lời chế giễu của những cậu bé ngỗ ngược, về việc Xi-mông không có bố.
Bọn trẻ độc ác đó, cũng như xã hội lúc đó đã thể hiện một cái nhìn thiếu đồng cảm, thiếu nhân văn với những thân phận như Xi-mông và mẹ của em. Chúng thường hành hạ em, xé áo em, rồi hất nước bẩn vào người em. Một lần Xi-mông tới trường, em lại bị bọn trẻ độc ác đó trêu chọc, xé rách áo của em, rồi xỉ nhục em bằng những lời nói vô cùng tàn nhẫn độc ác, khiến Xi- mông cảm thấy cuộc đời của mình thật bế tắc. Em tìm ra bờ cỏ ven sông, một nơi ít người qua lại định tìm tới cái chết, để thoát khỏi cuộc sống này.
Cậu bé Xi-mông đã khóc rất nhiều, một chú bé chỉ mới tám tuổi nhưng em đã phải chịu đựng nhiều sự đau khổ, tủi nhục trong cuộc sống này, khiến cho em không còn lối thoát em muốn tìm tới cái chết đã giải thoát chính mình. Suy nghĩ của cậu bé Xi-mông khiến người đọc vô cùng lo lắng, và cảm thương cho số phận của em. Cậu bé Xi-mông đến với bãi cỏ xanh mượt bên cạnh một bờ sông, một bãi cỏ lãng mạn, thơ mộng, nhưng với cậu bé Xi-mông lúc này chẳng có gì làm em thấy tươi đẹp. Trong tâm trạng u ám đen tối của em thì chỉ có cái chết mới giúp em thoát khỏi sự cô đơn đang đeo bám mình.
Trong lúc cậu bé Xi-mông khốn khổ đang khóc định tìm tới cái chết, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra, đó chính là sự xuất hiện của một vị thần. Dù đó không phải là vị thần, mà chỉ là một người thợ rèn tên là Phi-lip nhưng với cậu bé Xi-mông thì chú Phi-líp chính là vị thần cứu vớt đời em ra khỏi sự cô đơn đen tối. Chú Phi-líp nhìn thấy em khóc đã lại gần lau nước mắt cho em, rồi lắng nghe tâm sự của em. Cậu bé Xi-mông đã kể hết cho Phi- lip nghe về việc ở trường, về mẹ của em cô Blang khốn khổ đang bị ốm, về việc em không có bố nên mọi người không yêu thương em.
Chú Phi-lip đã nói rằng anh muốn làm bố của chú bé. Chú bé Xi- mông ngây thơ vô cùng mừng rỡ. Đoạn đối thoại giữa Xi-mông và chú thợ rèn Phi-lip khiến người đọc vô cùng xúc động. Rồi sau đó, Xi-mông hãnh diện dắt tay chú Phi-lip về nhà với mẹ. Rồi hôm sau, Xi-mông cùng người bố của mình cùng nhau tới trường học. Em hãnh diện nói với bạn bè, những kẻ hay trêu chọc bắt nạt em rằng “Đây là bố của tao, tao có bố rồi nhé.
Cuối cùng tác giả Mô-pa-xăng đã vô cùng nhân đạo khi cho cậu bé Xi-mông một người bé giúp em cảm thấy mình trưởng thành hơn, em hạnh phúc với tuổi thơ của mình. Việc Xi-mông có một người bố khiến cuộc sống của em sang một trang mới, em có thể được sống đúng như một con người không bị bạn bè dè bỉu, chọc ghẹo, em có thể hòa nhập với cuộc sống bình thường, không còn sự cô đơn, ghẻ lạnh.
Tác phẩm “Bố của Xi-mông” người đọc vô cùng xúc động, nghẹn ngào bởi những cay đắng mà hai mẹ con của Xi-mông đã phải gánh chịu, nếm trải trong cuộc sống. Những tủi nhục mà xã hội cũ đã gieo xuống tâm hồn trẻ thơ của một đứa trẻ thật là tàn nhẫn. Trong từng trang viết của mình tác giả đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của mình. Thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những mảnh đời bất hạnh thiếu thốn tình cảm trong cuộc sống.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 4
Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 – 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm lớn gồm 1 số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883). Ông bạn đẹp (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi- mông đi học, em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi- mông buồn tủi, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp. Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời. Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời.
Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.
Bài văn chia làm 4 phần: Phần một: Từ đầu đến …mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông. Phần hai: Từ Bỗng 1 bàn tay… đến… một ông bố: Xi-mông gặp bác Phi-líp. Phần ba: Từ Hai bác cháu… đến …đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà. Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường. Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội dung bài văn theo từng nhân vật chính.
Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé. Trong bài này không có chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết : Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc.
Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho trái tim nhỏ bé của em rớm máu.Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ . Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choáng ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài. Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.
Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình, khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là một trong các những cô gái đẹp nhất vùng. Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp.
Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Nghe con kể là bị các bạn đánh vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi Phi-lip: Bác có muốn làm bố cháu không ? thì chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.
Bác Phi-lip là một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đã rất thương em. Bác đã đem đến cho cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-lip đã đem lại cho em niềm hi vọng bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông rất nhiều. Bác Phi-lip tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho em đau khổ vì “bố Phi-lip của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn với chị Blăng-sốt.Bác Phi-lip đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi hổ đem lại niềm vui sựớng và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một việc làm nhân đạo cao cả.
Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-lip còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện thái độ trân trọng đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-lip đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà không đáng trách, vì bản tính chị không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.
Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi-lip đã phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác Phi-lip nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-lip đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt.
Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 8
Nhà văn Mô-pa-xăng là một nhà văn đại tài của nền văn học nước Pháp. Ông đã để lại một khối lượng sản phẩm khổng lồ tạo nên tên tuổi của mình. Với mỗi tác phẩm ông đều thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo, sự đồng cảm của mình với nhân vật có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
Truyện ngắn “Bố của Xi-mông” làm một truyện ngắn hay vô cùng sâu sắc nói về em bé do hoàn cảnh nên không có bố. Em chỉ là đứa con ngoài giá thú của một người đàn ông đã có vợ và một cô gái nhẹ dạ cả tin, để rồi lỡ làng cả một đời.
Nhân vật cậu bé Xi-mông được ra đời trong hoàn cảnh nước pháp phong kiến cổ đại, nên những cái nhìn của người dân về người phụ nữ không có chồng mà chửa, những đứa con hoang, không có cha là một điều gì đó vô cùng xấu xa. Những con người đó thường bị khinh rẻ miệt thị, sống cuộc đời côi cút, cô đơn, lạc loài.
Cậu bé Xi-mông và mẹ của em một cô gái có tuổi xuân nhan sắc những trót yêu lầm người đàn ông có vợ, nên hoàn cảnh lỡ làng, vô cùng đáng thương. Chị Blăng mẹ của Xi-mông thường phải làm rất nhiều nghề khác nhau để có thể nuôi nấng cậu bé Xi-mông lớn khôn, và để cho em được tới trường đi học bằng chúng bằng bạn. Bởi mẹ em cứ nghĩ trường học là nơi sẽ cho em niềm vui, sẽ cho em những người bạn, em được sống đúng lứa tuổi ngây thơ của mình, không phải chịu những lời miệt thị của người đời.
Bởi tuổi thơ của cậu bé Xi-mông đã phải chịu những chuỗi ngày cô đơn, lạnh lẽo trong ngôi nhà nhỏ bé chỉ có hai mẹ con nương tựa lẫn nhau. Xi-mông không có bố và không được nhận sự chăm sóc của người cha bao giờ, cậu bé vô cùng thèm khát được có cha, dù chỉ một lần.
Năm Tám tuổi, Xi-mông tới trường những mong nơi này cho em hạnh phúc, chấp cánh cho cậu bé đáng thương những ước mơ. Nhưng chính trường học lại là địa ngục của cuộc đời em. Ở trường học em thường xuyên bị một nhóm bạn thô lỗ, cục cằn, không hiểu chuyện đánh đập, sỉ nhục, và nói em là đồ không cha.
Những câu nói của mấy cậu bạn cùng trường như là mũi dao đâm vào trái tim cô độc của cậu bé Xi-mông tội nghiệp. Bọn chúng còn xé rách áo của em, dồn đuổi đánh em. Rồi có lần Xi-mông chống cự lại bọn chúng đã hành hạ em suốt ngày này qua ngày khác vì thái độ dám chống cự đó.
Cậu bé tội nghiệp của chúng ta, Xi- mông thật đáng thương biết bao, xã hội rất thiếu công bằng thiếu tình thương khi cho Xi-mông 1 cuộc sống qua đau đớn cả về thể xác lẫn âm hồn. Bị các bạn độc ác xua đuổi đánh đập, khiến cho Xi-mông cảm thấy cuộc đời mình hoàn toàn bế tắc. Em muốn tìm tới cái chết, em đã khóc rất nhiều, nước mắt rớt xuống cổ, xuống áo của em ướt đẫm.
Suy nghĩ mình phải chết cứ ám ảnh trong tâm trí của cậu bé Xi-mông tội nghiệp, bởi em cảm thấy chết đi có lẽ sung sướng hơn là sống đau khổ bị ghẻ lạnh, xa lánh, xua đuổi vì không có bố như thế này. Xi- mông đã tới một bãi cỏ xanh rất đẹp bên cạnh đó là một dòng sông, dù cảnh vật thiên nhiên vô cùng tươi đẹp nhưng nỗi đau trong lòng Xi-mông quá lớn nên em không muốn quan tâm tới những điều xung quanh. Mà em chỉ muốn chết mà thôi.
Khi Xi-mông tìm tới bãi cỏ xanh cạnh một dòng sông nhỏ nên thơ trữ tình, em nhìn thấy những chú ếch xanh dương mắt nhìn em, ánh nắng vàng sưởi lên những đám cỏ vô cùng tươi đẹp. Cảnh vật rất nên thơ xoa dịu nỗi cô đơn của em ít nhiều nhưng em vẫn vô cùng buồn vì mình không có bố. Chính trong lúc tuyệt vọng nhất của cuộc đời, Xi-mông đã cầu nguyện em ước rằng trời cao sẽ cho em một người bố. Chính trong giây phút Xi-mông định tìm tới cái chết thì em lại gặp được một việc vô cùng kỳ diệu.
Một tình huống truyện độc đáo bất ngờ đã xảy ra. Một người thợ rèn cao lớn nhân hậu tên là Phi líp đã tới an ủi, vỗ về nỗi đau của Xi-mông. Khi nhìn thấy Xi-mông khuôn mặt giàn dụa nước mắt người đàn ông đã hỏi chuyện em. Rồi biết em định đi tìm cái chết vì em không có bố. Chú thợ rèn Phi-lip đó đã nhận làm bố Xi- mông, cảnh tượng hai người gặp nhau thật bất ngờ, Xi-mông nhỏ bé nắm tay người cha của mình về nhà gặp mẹ.
Xi-mông ngây thơ hỏi chú thợ rèn “Chú có muốn làm bố cháu không?”Chú thợ rèn nhấc bổng Xi-mông lên trời và thơm và má em một cái thật hiền hậu ấm áp tình yêu thương rồi trả lời “Có chứ, chú có muốn” Trong giây phút ấy tâm hồn của cậu bé Xi-mông bất hạnh đã tràn ngập hạnh phúc, em cảm thấy được tình cảm ấm áp của một người cha, sự tự hào của việc có bố. Ngày hôm sau, Xi-mông dẫn tay chú Phi-lip tới trường và em tự hào nói với đám bạn hay chọc ghẹo, đuổi đánh em rằng “Đây là bố tao, bố tao tên là Phi-lip”. Một câu nói chứa đựng sự tự hào hãnh diện của một cậu bé luôn khao khát tình thương của một người cha.
Đọc truyện “Bố của Xi-mông” cho chúng ta những cảm xúc vô cùng xúc động, Mô-pa-xăng thật sự là nhà văn có tâm hồn vô cùng nhạy cảm tinh tế thì mới có thể viết được một truyện ngắn hay và đặc sắc đi sâu vào lòng người đọc tới như vậy.
Thông qua truyện ngắn cho chúng ta thấy một chân lý có bố là điều vô cùng hạnh phúc. Một gia đình thì nên có đầy đủ cả cha lẫn mẹ có như vậy trẻ con mới được trưởng thành một cách vững chắc, hạnh phúc trọn vẹn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 6
“Khó tìm thấy một nhà văn nào tinh tế, sâu sắc, đôn hậu với nhiêu nỗi day dứt vê con người như Guy đơ Mô-pa-xãng”. Nhà văn ấy, dù chỉ sống cuộc đời ngắn ngủi hơn bốn mươi năm nhưng đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ với nhiều thể loại, đặc biệt hơn cả là đóng góp về lĩnh vực truyện ngắn cho nền văn học Pháp và thế giới. Bố của Xi-mông với vẻ đẹp và sự ấm áp tình người, là một trong các những truyện ngắn xuất sắc nhất.
Chính tình người, một tình cảm nhân đạo, tình yêu thương và lòng nhân ái giữa người với người đã tạo nên thành công cho tác phẩm. Được trích từ truyện ngắn cùng tên, Bố của Xi-mông có cốt truyện đơn giản, tất cả chỉ xoay quanh nỗi buổn và niềm vui của cậu bé Xi-mông, nhưng qua đó, biết bao nhân vật, bao tấm lòng đôn hậu đã vút lên sáng ngời, chị Blăng-sốt trong truyện này bị một người đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi- mông trở thành đứa trẻ không có bố trong mắt mọi người. Truyện bắt đấu khi Xi-mông khoảng bảy, tám tuổi, lẩn đẩu tiên đến trường bị đám học trò chế giễu là không có bố. Em buồn bực, lang thang đến bên bờ sông và chỉ muốn “nhảy xuống cho chết đuối”.
Đoạn trích kể về những sự việc tiếp theo. Qua đó thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người. Đó là vẻ đẹp của lòng nhân hậu, sự hổn nhiên, lối sống nhân văn cao đẹp. Là tình người ấm áp trong khát khao tình cảm và sự che chở của bố ở Xi-mông; ấm áp trong lòng nghĩa hiệp và nhân hậu, thương người cùa bác Phi-líp; ấm áp trong tình thương con và nghị lực sống của chị Blăng-sốt.
Vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trước hết được thể hiện trong khao khát tình cảm và sự che chở của cậu bé Xi-mông. Cậu đã rất buồn khi bị bạn bè trêu chọc, đánh cậu chỉ vì cậu không có bố. Trong tâm trạng ấy, dù cảnh vật bên bờ sông rất đẹp: “Trời ấm áp vô cùng. Ánh mặt trời êm đểm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương” nhưng cũng chỉ giúp Xi-mông quên đi nỗi buồn một lát. Khi em nghĩ đến nhà, rổi em nghĩ đến mẹ, em “thấy buôn vô cùng” và em lại khóc. “Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hếtđược, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài”. Một đứa trẻ như Xi-mông, sau khi bị bạn bè trêu chọc đã rất buồn tủi và tuyệt vọng. Hành động quỳ xuống và đọc kinh là sự cầu nguyện có được cảm giác bình an từ chúa.
Nhưng em chẳng thể đọc hết được bởi nỗi cô đơn xâm chiếm. Trong khi các bạn khác may mắn có được sự yêu thương, săc sóc của cả bỗ lẫn mẹ thì em lại quá thiệt thòi, em chỉ có mẹ mà thôi. Chính trong hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp, thiếu đi tình thương của cha, lại bị bạn bè trêu chọc Xi-mông chạy đến bờ sông với suy nghĩ “muốn nhảy xuống sông cho chết đuối”. Chính lúc này, Xi-mông gặp được bác Phi-líp. Câu trả lời của em với bác như một sự khẳng định nỗi tuyệt vọng và bất lực của em. Câu trả lời ấy ngắt quãng với giọng nghẹn ngào trong tiếng nấc: “Chúng nó đánh cháu vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.” Câu nói “cháu không có bố” mãi mới thốt ra được nhưng Xi-mông lại nhắc hai lần như tiếng nấc, như tiếng gào thét trước số phận bất hạnh của mình. Nỗi lòng cậu bé khi chưa được nói ra thì ngại ngẩn, chần chừ, nhưng khi nói ra rồi thi trào dâng trong khắc khoải, không thể dừng lại.
Khi bác Phi-líp đưa Xi-mông trở về nhà, em không mừng rỡ mà đau đớn, buồn tủi hơn. Nỗi đau ấy bùng lên và vỡ ra cùng cử chỉ ôm lấy cổ mẹ, nhắc lại ý định tự tử của mình. Em khao khát có được tình yêu của bố, em ao ước được giống như những đứa trẻ khác, chúng đều có bố. Lòng khát khao có một người bố yêu thương và che chở đã thúc đẩy Xi-mông đưa ra lời đê’ nghị với bác Phi-líp. Em hỏi bác: “Bác có muốn làm bố cháu không?”. Chưa để bác trả lời, em đã nhắc lại ý định tự tử lúc ở bờ sông. Rất nhiều người cho rằng nó giống như muốn ép buôn bác Phi-líp nhưng với tâm hổn non nớt, trong sáng, Xi-mông đâu có nghĩ vậy, những gì em nói ra là cảm xúc rất chân thành. Dường như lúc đó, em đã đưa ra quyết định vô cùng nghiêm túc, nếu không có bố, em sẽ nhảy ngay xuống sông để thoát khỏi nỗi buồn bã, cô đơn, tuyệt vọng. Xuất phát từ khao khát ấy, khi được bác Phi-líp nhận lời, em rất vui vẻ: “Thế nhé, bác Phi-líp bác là bố cháu”. Lời khẳng định chắc nịch trong tâm trạng sung sướng, hạnh phúc ấy cho thấy lối tư duy rất trẻ con nhưng cũng vô cùng nghiêm túc và trịnh trọng.
Đối với Xi-mông có lẽ không gì tuyệt vời hơn là có một người bố. Và giây phút này chính là giây phút trọng đại nhất trong đời em, khi em cũng có bố như bao đứa trẻ khác, có 1 điểm tựa cho em niềm tin sắt đá để “đưa con mắt thách thức chúng”, và em “sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn bỏ chạy”. So với ngày thường hay chỉ mới hôm qua thôi, khi bị bạn bè trêu chọc, đùa cợt em chỉ biết khóc, cam chịu, chạy ra bờ sông với ý định tự tử thì hôm nay, thái độ và hành động của em đã khác hẳn. Em đã chủ động trả lời, “quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá: “Bố tao ấy à, bố tao tèn là Phi-líp”. Trong câu trả lời niềm tự hào và hãnh diện không giấu giếm. Niềm tự hào và hãnh diện ấy xuất phát từ niềm tin về việc có một người bố. Chính điều đó cho em sức mạnh để sẵn sàng thách thức và chịu hành hạ chứ nhất định không chịu bỏ chạy, không chịu đầu hàng lũ bạn. Cũng chính điểu đó cho cậu bé Xi-mông sự kiên cường và lòng dũng cảm trước những lời trêu chọc. Là người đáng thương, đáng yêu, sinh ra trong hoàn cảnh gia đình bất hạnh nhưng sự tình cờ của cuộc sống đã đem lại cho Xi-mông hạnh phúc, tiếp thêm sức mạnh cho em. Qua nỗi buồn và niềm vui của em, vẻ đẹp ấm áp tình người trong khao khát có một người bố, có một chỗ dựa tinh thần đã được bộc lộ và ngời sáng.
Ngoài ra, qua nỗi buồn và niềm vui của Xi-mông, tấm lòng đôn hậu, nghĩa hiệp và thương người của bác thợ rèn Phi-líp cũng ngời sáng. Bác là người có “bàn tay chắc nịch” và “giọng nói Ồm Ồm”. Bác là “một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn”, chính bác đã hỏi thăm em lúc em đứng ở bờ sông và “nhìn em với vẻ nhân hậu”. Chỉ những chi tiết đầu tiên ấy thôi đã cho thấy bác Phi-líp là một người lao động chân chính, biết chia sẻ và cảm thông với những người bất hạnh. Không chỉ với Xi-mông, bác còn cảm thông với cả chị Blăng-sốt. Khi dắt tay đứa bé về nhà, bác đã mỉm cười, vì “bác chẳng khó chịu được đến gặp chị”. Đến khi đứng trước chị, “bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình”. Bác “e dè, ấp úng” và nể trọng chị. Chính vì thế, lời lẽ của bác khi nói chuyện với chị trở nên trang trọng hơn.
Tấm lòng đôn hậu của bác đã vượt lên những định kiến vô lí, tàn nhẫn, thô bạo. Xuất phát từ tấm lòng ấy, bác đã nhận lời làm bố của Xi-mông. Ban đầu đó cũng chỉ là sự đồng ý làm yên lòng một đứa trẻ: “Bác công nhân cười đáp coi như chuyện đùa” nhưng sau đó, bằng tình yêu thương với Xi-mông và vẻ đẹp ấm áp tình người luôn cháy sáng trong trái tim mình, bác thực sự trở thành bố của em, bù đắp cho em những mất mát, từ hành động “nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má” cho đến niềm tin sắt đá của Xi-mông trong ngày hôm sau ở trường. Hơn thế nữa, về sau bác đã cẩu hôn chị Blăng-sốt vì bác muốn trở thành người bố thực sự của Xi-mông, bao bọc và che chở em. Cũng chính từ đó, em được yên ổn học hành và không còn bị ai trêu chọc, bắt nạt nữa. Lời cầu hôn của bác Phi-líp là một sự khẳng định nhân cách của chị Blăng-sốt. Vượt lên rào cản của những định kiến hẹp hòi, bác là hiện thân của công lí và lòng nhân ái, của người lao động thiện lương, chân chính, biết chia sẻ, cảm thông với người bất hạnh và dành tình yêu thương ấm áp cho cậu bé Xi-mông.
Cùng với những vẻ đẹp ấm áp về tình người ấy, trái tim người đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp từ chị Blăng-sốt, người trót lấm lỡ nhưng là một người mẹ rất mực thương con, một người phụ nữ nền nếp, trung hậu. “Chị là một trong các những cô gái đẹp nhất vùng” nhưng bị lừa dối nên sinh ra bé Xi-mông và khiến cho Xi-mông trở thành đứa trẻ không có bố. Chị là người phụ nữ có hoàn cảnh thật đáng thương, vì “tuổi xuân đã lầm lỡ” mà giờ đầy chị phải sống trong áp lực của định kiến xã hội và những lời đồn đại.
Thế nhưng, vượt lên hoàn cảnh ấy, chị Blăng-sốt có một nghị lực sống phi thường. Chị có một “ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Ngôi nhà ngăn nắp, gọn gàng như chính con người chị đã khiến cho không ai có thể bỡn cợt được. Chị là một người mẹ yêu thương con bằng cả trái tim. Khi ôm bé Xi-mông vào lòng, đôi má chị “đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con, hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Đó là tình thương con của một người mẹ lầm lỡ, chị hổ thẹn, lặng ngắt, quằn quại trước nỗi tuyệt vọng của con trong khi chính chị, cũng là nạn nhân. Trước câu hỏi ngây thơ của con, chị dường như không thể đứng vững được nữa, chị “dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Chính đức hạnh, tình mẫu tử thiêng liêng trong con người chị đã khiến bác thợ rèn Phi-líp hiểu bản tính chị không phải là người lẳng lơ, phóng túng. Trong lần lẩm lỡ của tuổi trẻ, chị đáng thương hơn là đáng trách. Với vẻ nền nếp, trung hậu và tấm lòng yêu thương con hết mực chị là hiện thân của một người phụ nữ mẫu mực và là một người mẹ hiền lương.
Những vẻ đẹp ấm áp tình người ấy được nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng thể hiện bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Nhà văn đã tinh tế nhận ra và thể hiện sắc nét tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp, qua đó đê’ cập đến vấn đề tâm lí gia đình của con người, vai trò của bố trong cuộc đời con người. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy cũng được khắc họa trong Số phận con người, một truyện ngắn viết vê’ chiến tranh của nhà văn Nga M. Gorki. Truyện không kết thúc ở nỗi trầm buồn khi An-drầy đêm nào cũng “chiêm bao thấy người thân quá cố’ mà tái hiện cảnh mùa xuân, dòng sông, con đường,… khi An-drây nhận nuôi em bé mồ côi, khi hai con người xa lạ trở nên thân thiết. Dường như mỗi đứa trẻ khi “sống bên cạnh bố” để có được sức mạnh diệu kì để “khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường”. Hơn tất cả, tình cảm thể hiện ở cả hai tác phẩm không chỉ là tình phụ tử, mà còn là sự kết nối giữa những con người với con người trong tình yêu thương. Đổng thời, qua đó nhắc nhở chúng ta yêu thương bạn bè, mở rộng là tình yêu thương con người, sự đồng cảm và sẻ chia với những người bất hạnh, với những khổ đau và lỗi lầm của người khác.
Truyện ngắn Bố của Xi-mông đã khép lại trong câu hỏi đầy day dứt: “Ai có lỗi trong những đau khổ của Xi-mông?” Đó là câu hỏi mà có lẽ, nhiều năm sau nữa chúng ta cũng không thể trả lời cho đẩy đủ, toàn vẹn. Nhưng vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trong tác phẩm sẽ luôn nhắc nhở mỗi chúng ta về tấm lòng nhân ái, yêu thương, cảm thông và chia sẻ để có thể giúp đỡ những người bất hạnh xung quanh và không vô tình gây ra khổ đau cho người khác.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 2
rong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến với Xi-Mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn trích;” Bố của Xi – mông”, truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng?
Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người bố thực thụ. Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người mẹ của em. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ giúp mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này.
Xi-mông là con trai của chị Blang-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu cợt , đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết. Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn cảnh của Xi-mông và chị Blang-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và chú bé diễn ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử một cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời chế nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy. em đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy không phải là 1 ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp, ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như gương, đã xóa đi phần nào nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên trẻ con của mình.
Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người cha, nhưng em vẫn là một đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay chính vào lúc em bắt được con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy giụa thoát thân.Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô cùng nhạy cảm nên ngay lúc ấy “em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và cảm thấy buồn bà vô cùng em lại khóc”. Tiếng khóc ấy khiến bất cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng. Trong lúc ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt bụng. Bác được giới thiệu là “một người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu”. Dáng vẻ ấy có lẽ đã tạo được niềm tin và chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình.
Em đã không ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông “cháu không có bố” được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định được nguyên nhân sau tiếng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thẩn bác đã biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi giáp mặt với mẹ Xi-mông , chính thái độ của mẹ em đã phải khiến bác thay đổi hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị kẻ khác lừa dối. Điều đó chứng tỏ bác là một con người đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa con không có bố, bác đã thể hiện sự trân trọng trước nhân cách một người mẹ và một đứa con đang được bao bọc.
Chính vì vậy em đã nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời – một chỗ dựa đáng tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác không thể từ chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động trước tâm hồn trong trắng của em: “Người thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh.” Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiêu hãnh trước đám bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng xử với người xung quanh, cần có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng trước những đau khổ bất hạnh của người khác.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bố của Xi-mông” số 1
Những trang viết tuy chỉ là phần đẩu của một truyện ngắn đã vô cùng sinh động và cảm động. Ở đó có sự sinh động của cuộc sống – cuộc sống diễn ra y như thật, tươi tắn, hồn nhiên. Còn cảm động vì nó thấm thía tình người, những đau khổ và ước mơ, những yêu thương và sẻ chia, đùm bọc. Tuy nhiên, đấy chỉ là một cái nhìn bao trùm tổng thể. Muốn phân tích nó, không có một cách nào khác hơn, với một tác phẩm tự sự là đi vào nhân vật và nhất là mối quan hệ giữa các nhân vật ấy với nhau. Đây là yếu tố tạo nên tính cách và hình thành mạch văn, cốt truyện.
1. Xi-mông, đứa trẻ không cha là nhân vật trung tâm không chỉ xuất hiện thường trực với tần số cao mà có tác dụng gắn kết các nhân vật còn lại như đám học trò nghịch ngợm, bác công nhân Phi-líp, người thiếu phụ rơi vào cảnh ngộ đáng thương. Xi-mông là đứa trẻ tự trọng, nhạy cảm, thông minh. Vì tự trọng em thấy việc không có cha của mình là nỗi bất hạnh lớn. Còn vì nhạy cảm và thông minh, Xi-mông bế tắc, không biết chia sẻ cùng ai ngoài việc tìm đến dòng sông để kết thúc cuộc đời bằng cái chết. Tất nhiên, những đặc điểm trên đây chỉ là một tính cách mới được hình thành.
Bởi vậy những ý nghĩ đến với em, nhiều khi chỉ như cơn gió. Vừa khóc lóc xong, rất thèm được ngủ, nhưng bất chợt nhìn thấy một chú nhái màu xanh, Xi-mông đã quên hết mọi chuyện vừa qua, cả cơn thèm ngủ lúc này. Nhu cầu nghịch ngợm trỗi dậy ở em mạnh hơn bao giờ hết. “Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền”. Ở đó có cả sự xuýt xoa và sung sướng đến bật cười khi tóm được con vật và nhìn nó “cố giãy giụa thoát thân”. Nỗi bất hạnh, cơn thèm ngủ bỗng chốc qua đi không để lại dấu vết. Thậm chí, em còn nhớ rộng ra, liên tưởng miên man đến những thứ đồ chơi “làm bằng những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi”. Và kết thúc, không hiểu vì sao em lại nghĩ tiếp đến nhà mình, đến mẹ.
Nhận được 1 bàn tay tin cậy của một người đàn ông tin cậy, bác Phi-líp (lúc đầu Xi-mông chưa biết đó là ai), em thấy cần phải giãi bày nỗi niềm cay đắng xót xa với giọng điệu hờn tủi vì oan ức của mình để “người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn” thấu hiểu. Sự tin cậy ấy thật hồn nhiên khi hai bác cháu trở về như 1 cuộc dạo chơi vui vẻ “người lớn dắt tay đứa bé”, như cha và con chẳng còn một chút gì là ưu tư phiền muộn nữa. Nhu cầu cần có một người cha ở Xi-mông mạnh mẽ đến mức chỉ cần một cái gì đó na ná như thế, hoặc tưởng tượng ra như thế, em đã hạnh phúc lắm rồi. Ảo tưởng của Xi-mông chỉ hoàn toàn biến mất khi em trở về với thực tại, một thực tại tàn nhẫn, phũ phàng qua câu nói và giọng nói của người thợ mới quen với mẹ Xi-mông: “Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông” (Trong trí óc tuy còn non nớt của mình : Xi-mông cảm thấy mình đâu có bị lạc vì quên đường, mà em đang đứng trước một ngã ba không biết rõ con đường tiến thoái).
Nhưng hi vọng ở em không tắt. Để giải thoát cho cảnh ngộ của mình, cũng là của mẹ (vừa hôn con vừa khẽ tuôn rơi nước mắt), một câu hỏi vụt hiện lên như một chiếc phao cứu người chết đuối lúc này là : “Bác có muốn làm bố cháu không ?” với bao tha thiết, hồi hộp, lo âu. Thời gian như ngừng lại, như nín thở. Phải đến lúc, bác Phi-líp đồng ý, đồng ý như một giao kèo, một cam đoan đồng thuận, Xi-mông mới thật yên tâm. “Thế nhé ! Bác Phi-líp, bác là bố cháu”. Lần đến trường sau đó, Xi-mông đã trở thành một con người khác hẳn, đầy tự tin. Lời em nói với “thằng kia” không phải là câu nói thường tình. Đó là bao nhiêu căm hờn, uất ức bật ra. Xi-mông “quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá”, những câu trả lời về bố mình là ai (dù em vì vội quên không hỏi họ của người ấy) : “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp”.
Trong ca dao Việt Nam, có một câu hài hước nhằm đả kích những ông thầy bói nói dựa ngày xưa “Số cô có mẹ có cha – Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông”. Nhưng, thực tình, nó đâu phải là vô nghĩa. Bởi trong cuộc đời này còn có bao nhiêu kẻ mồ côi cha hoặc mẹ (thậm chí cả hai). Câu nói hãnh diện của Xi-mông có sức sâu xoáy vào lòng người chính là những khát khao thật giản dị, thật bình thường là được “có mẹ”, “có cha” như mọi người trong thiên hạ mà thôi. Tính nhân văn ở cách nghĩ trên đây còn là ước mơ của loài người mãi mãi.
2. Bác thợ Phi-líp là điểm tựa cho câu chuyện thương tâm mà thật ấm áp tình người. Hình như, trên một phương diện nào đó, con người bình thường, vô danh này là lương tâm của nhân loại. Cuộc gặp gỡ giữa bác với Xi-mông vừa ngẫu nhiên vừa là tất nhiên, quy luật thương người như thương mình. Câu hỏi đầu tiên với đứa bé đầy tâm sự (ngồi bên dòng sông, ngồi bên cái chết) âu yếm biết bao : “Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi ?”. Nhu cầu được chia sẻ, được gánh chịu, được bảo vệ đối với bác Phi-líp gần giống với một bản năng. Đó là một con người – đúng nghĩa – ở thái độ không thể thờ ơ, lạnh nhạt, quay lưng với nỗi khổ của con người, dù con người ấy chỉ là một sinh linh bé nhỏ, và cũng vô danh như bác.
Cái cách hành động của bác lúc đầu là một cách nghĩ rất đỗi ngây thơ, cốt chỉ là để an ủi và khích lộ đứa trẻ đứng lên: “Thôi nào… đừng buồn nữa, cháu ơi”, “Người ta sẽ cho cháu…. một ông bố”. Nhưng khi đến nhà của mẹ con Xi-mông rồi, nụ cười hồn nhiên và bao dung vì sao vụt tắt ? Làm sao có thể bỡn cợt được với một “cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình”. Đó là một giới hạn mà con người giàu tướng tượng nhất cũng không thể vượt qua. Bác Phi-líp cảm thấy mình không được phép bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà ấy. Người đàn ông từng trải đã phải bối rối như một đứa trẻ thơ, dại dột một cách thật thà trước một vấn đề quá phức tạp mà anh ta đang gặp phải và không biết xử lí ra sao. Chỉ tới khi có được một cơ hội, ấy là câu nói thơ ngây (không hàm ý sâu xa nào) của đứa trẻ, bác mới vừa trả lời được Xi-mông vừa giải thoát được chính mình. “Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh”. Sau này, con người có tấm lòng nhân hậu ấy còn chia sẻ với Xi-mông, đùm bọc và che chở cho Xi-mông đúng như một người cha tốt.
3. Về nghệ thuật của đoạn văn, nên dựa vào tiêu chí nào để đánh giá ? Có thể xem nó là một tác phẩm tự sự thông thường, nhưng có lẽ, đúng hơn cần xác định : đây là truyện thiếu nhi. Viết về trẻ em và nói bằng giọng điệu trẻ em – cách nhìn và nghĩ ngây thơ nhất của loài người, ấy là đặc điểm bao trùm của nó. Về phương diện này, ta nên nghĩ đến thời thơ ấu của Goóc-ki, những tác phẩm tự truyện của Nguyên Hồng,…
Bố của Xi-mông dựa trên một cái mặt bằng như thế. Theo định hướng này, Xi-mông đúng là một nhân vật trung tâm. Người mẹ đáng thương Blăng-sốt là ngôi nhà của em, còn bác Phi-líp là bầu trời của em, ngôi nhà thì quen thuộc, thân yêu, còn bầu trời là cả một không gian mênh mông hi vọng. Tâm tình – nghĩa là bao nhiêu cay đắng, buồn vui, mơ ước, cả một thế giới tâm trạng về số phận con người – quy tụ vào những cảm nghĩ trẻ thơ. Những cảm nghĩ ấy trong sáng như bầu trời mà bất hạnh chỉ giống như một thứ mưa bóng mây. Đứa con không có cha không phải là một định mệnh nghiệt ngã suốt đời, rồi một lúc nào đó, nó không là một ám ảnh. Nhưng hình tượng nhân vật bé bỏng mà ta vừa nói trên đây là từ con mắt của người lớn nhìn vào.
Do vậy, mà có sự tiết chế và chọn lọc để vừa khắc hoạ một tính cách trẻ thơ vừa phát hiện được ở chiều sâu những quy luật khách quan của cuộc sống. Lời văn dung dị, hồn nhiên như không được đẽo gọt đi thẳng vào khả năng cảm nhận trực tiếp của người đọc, để với người đọc sẽ hình thành một loại văn bản thứ hai từ những liên tưởng, rung động về cuộc sống mà chính bản thân Iĩnh trải nghiệm. Một tác phẩm hay cũng như cuộc chạy tiếp sức : người viết và người đọc cứ nối tiếp nhau đi trên một con đường không biết đâu là điểm giới hạn cuối cùng.
Có thể bạn thích: