Vương Xương Linh (698 – 757) là một trong những nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường. Thơ Vương Xương Linh thường đề cập đến cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi li sầu biệt hận của thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành, trong sáng… Trong bài thơ “Khuê oán” (Nỗi oán của người phòng khuê), Vương Xương Linh đã mượn tâm trạng của người thiếu phụ để thông qua đó lên án chiến tranh phi nghĩa gây biết bao đau thương, mất mát cho nhân dân. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau để hiểu rõ hơn nội dung trên.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 10
Vương Xương Linh, tự là Thiếu Bá; là nhà thơ Trung Quốc thời Thịnh Đường. Ông làm nhiều thơ hay, được người đời gọi là Thi thiên tử, là Thi gia phu tử Vương Giang Ninh. Ông có nhiều tác phẩm kiệt xuất trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm “Khuê Oán”.
Phiên âm chữ Hán:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tố mịch phong hầu.
Dịch thơ tiếng Việt:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để Chàng đi kiếm tước hầu.
(Nguyễn Khắc Phi dịch)
Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu cho người đọc thấy được hình ảnh của một người phụ nữ rất xinh đẹp thuộc dòng dõi quý tộc. Hiện người phụ nữ này có một người chồng đang chiến đấu nơi phương xa. Vì lẽ sinh ra trong nhung gấm lụa là nên người phụ nữ này không hiểu được những đau thương của chiến tranh. Chính điều đó mà tác giả viết người phụ nữ này rất là hồn nhiên và vô lo vô nghĩ vẫn còn trau chuốt làm đẹp cho bản thân của mình.
“Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.”
Phòng khuê là tổ ấm hạnh phúc gia đình. Suốt một thời son trẻ, mỗi lần trang điểm xong, nàng bước lên lầu đẹp để ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên và cũng như để mong chờ nhìn ra phía xa xăm mong người chồng phương xa trở về với mình. Ở đây tác giả tả đồng thời cả cảnh lẫn người trong mùa xuân xanh non tươi mát ấy là hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp trẻ trung lại càng thêm lộng lẫy trang hoàng hơn.
Vậy mà ông trời như đang trêu đùa với lòng người, mùa xuân là sự tươi đẹp của hạnh phúc lứa đôi còn người phụ nữ này lại phòng khuê chiếc bóng một mình. Mặc dù vô tư hồn nhiên đến vậy nhưng ắt hẳn tâm trạng của người phụ nữ có chồng ở phương xa cũng buồn và nhớ thương như những người phụ nữ khác.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.
Màu dương liễu xanh mơn mởn biểu trưng cho tuổi trẻ đầy tình yêu và sức sống. Theo tục lệ thì lúc chia tay tiễn người yêu ra chiến trường người phụ nữ phải tặng người đàn ông một nhành dương liễu để mong đến ngày đoàn tụ. Người phụ nữ ngồi thẫn thờ nhìn về phía xa xăm mà tự nhủ với bản thân không biết chồng mình đang ở chốn nào? Sống chết ra sao rồi? Cảnh ấy mà gợi tình, tâm trạng của người phụ nữ pha lẫn những nhớ thương và nuối tiếc. Người phụ nữ tiếc rằng mình sao lúc đó không giữ chồng ở lại mà cứ để chồng đi như vậy.
Rồi sau đó người phụ nữ chợt nhận ra tuổi xuân đã trôi đi thật nhanh đến mức người chẳng hay, giờ đây nhan sắc xinh tươi đã bị phai nhạt dần theo thời gian sau những năm tháng mong mỏi đợi chờ chồng đầy cô đơn và hưu quạnh. Thực tế đầy phũ phàng ấy người phụ nữ tự trách mình, trách duyên phận của mình là khuê oán.
Đồng thời qua đây tác giả muốn nói lên hạnh phúc mỏng manh của đôi lứa khi đất nước gặp chiến tranh loạn lạc. Thương yêu đến mấy cũng phải cách xa. Mà khi đi ra chiến trường nào ai biết ngày trở về. Cuộc sống thật trớ trêu cứ ngỡ tưởng được hạnh phúc bên nhau vậy mà giờ đây chỉ còn mình người phụ nữ cô đơn lẻ loi suốt ngày ngóng trông chồng trở về.
Tác giả thật độc đáo và tinh tế chỉ với bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt mà đã bao hàm hết nội dung súc tích, ngôn ngữ giàu sức gợi. thể hiện tình yêu hòa quyện giữa cảnh và người để người đọc dễ cảm nhận được ý thơ sâu sắc.
Qua bài thơ này ta thấy rõ được nỗi buồn, cô đơn của người người phụ nữ có chồng đi tòng quân. Ngày ngày người phụ nữ chỉ mong ước chồng trở về để gia đình đoàn tụ. Đồng thời tác giả cũng nên án tố cáo chiến tranh khiến gia đình, hạnh phúc lứa đôi bị chia xa.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 7
Vương Xương Linh (698 – 757), nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường, tự Thiếu Bá, người Kinh Triệu – Tràng An (nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Năm 727, đỗ Tiến sĩ rồi lần lượt làm một số chức quan nhỏ, nhiều lần bị cách chức. Sự biến An Lộc Sơn bùng nổ, ông trở về quê. Sau ông bị Thứ sử Hào Châu là Lư Khâu Hiểu giết chết. Ông để lại cho đời 186 bài thơ và một số tập văn, trong đó có một số bài bàn về quy cách làm thơ.
Khuê oán là tác phẩm thuộc mảng đề tài về chiến tranh và phụ nữ – đó là đề tài rất thành công của Vương Xương Linh. Bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của một người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến để lập công danh, chức tước. Người thiếu phụ vô tư, yêu đời chợt nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình khi ngắm sắc xuân của cành dương liễu và hối hận. Và đương nhiên, qua tâm trạng của người thiếu phụ, nhà thơ thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng và sự thay đổi trong nhận thức của mình.
Trong thời kì phong kiến, chiến tranh gây ra những cảnh li tán, lầm than cho nhân dân. Chúng ta đã gặp những cảnh tượng thương tâm trong chùm thơ Tam biệt của Đỗ Phủ. Nỗi đau chiến tranh cũng đã khắc sâu trong tâm hồn dân tộc Việt với câu ca dao:
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng.
Vẫn với chủ đề chống chiến tranh nhưng với tố chất của một thi sĩ đời Đường, Vương Xương Linh có một cách thể hiện riêng, rất Đường thi, sang trọng, nhẹ nhàng, tinh tế và rất sâu sắc. Tác giả không đi sâu khai thác những biểu hiện của nỗi oán mà chú ý đến sự chuyển biến tư tưởng.
Bài thơ có bốn câu, chia làm hai phần. Đúng luật Đường thi, câu thứ ba là câu bản lề của sự chuyển đổi tâm trạng và hé mở nội dung tư tưởng của bài thơ.
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu.
(Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.)
Con người và cảnh vật đều thật tươi mới và tràn đầy sức sống. Thiếu phụ vô tư, không vương nỗi buồn sầu, không cô đơn não nề như người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,
…
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Thiếu phụ say sưa, vui vẻ trong cảnh ngày xuân tươi đẹp, nàng trang điểm và “thướng thuý lâu”, bước lên ngôi lầu sơn màu xanh biếc mà ngắm cảnh. Bức tranh ngày xuân thật viên mãn và tươi đẹp như tuổi xuân đang độ rực rỡ của người thiếu phụ. Gương mặt trang điểm lộng lẫy hoà trong sắc màu xanh biếc của cỏ cây, cảnh vật tạo nên một bức tranh xuân không vương chút âu sầu. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhan đề Khuê oán. Đó là sự độc đáo của tứ thơ. Mở đầu như thế rồi tạo một sự chuyển đổi đột ngột ở câu thứ ba:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
(Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.)
Sự chuyển biến tâm lí của thiếu phụ được thể hiện một cách rất tự nhiên. Khi ngắm cảnh ngày xuân, mọi người vẫn thường ngắm mai ngắm liễu. Trong văn học truyền thống của Trung Quốc, mai và liễu là biểu tượng của mùa xuân, sắc xuân và tuổi xuân. Mai liễu còn là hình ảnh thường được dùng để chỉ người con gái đẹp đang ở tuổi xuân ngời. Và liễu còn mang ý nghĩa tượng trưng chỉ sự li biệt. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà ánh mắt của người thiếu phụ lại đột nhiên dừng ở cây dương liễu.
Các nhà thơ Đường vốn rất quan tâm đến việc lựa chọn những từ ngữ, những hình ảnh có khả năng biểu hiện nhiều nhất, điều đó đã tạo nên tính chất hàm súc, đa nghĩa cho Đường thi. Một “sắc xuân của nhành dương liễu” mà nói được bao điều : là hình ảnh người thiếu phụ đẹp đang tuổi xuân ngời, là mùa xuân – mùa của hạnh phúc, tình yêu, của tình phu thê quấn quýt. Nhưng dương liễu còn gợi nỗi niềm li biệt.
Vì thế, khi “chợt nhìn sắc liễu”, tâm trạng của người thiếu phụ hoàn toàn thay đổi. Lúc đầu, cảnh sắc ngày xuân tươi đẹp đã cộng hưởng tâm hồn đang tràn đầy sức sống của nàng mà khiến cho nàng “bất tri sầu”. Thế nhưng ngược lại, nhìn cây dương liễu đang khoe sắc khiến nàng chợt nhận ra cảnh ngộ thực của mình. Cây dương liễu gợi nhớ giây phút chia tay, gợi những suy nghĩ về tuổi xuân đang tràn trề sức sống và sẽ qua đi, gợi đến cảnh cô đơn.
Nếu hai câu đầu là hình ảnh một thiếu phụ trong sáng, hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống đủ đầy, thanh lịch, thì ở câu thơ thứ tư là một thiếu phụ đầy tâm trạng. Một con người với hai trạng thái tâm lí khác nhau xuất hiện trong bốn câu thất ngôn, đó là cái độc đáo của thơ Đường. Từ “hốt kiến” chuyển sang “hối giao” một cách hợp lí. Một từ “hối giao” (Tản Đà dịch là “nghĩ dại”, Trần Trọng San dịch là “tiếc”) nói lên bao nhiêu tâm tư, bao nhiêu trăn trở của người thiếu phụ có chồng đang mải mê đi kiếm tước hầu. Hai cách dịch của hai dịch giả thể hiện hai suy nghĩ trong tâm tư của người thiếu phụ.
“Tiếc” đã khuyên chồng đi tòng quân mong lập công danh để tuổi xuân trôi đi trong cô đơn. “Nghĩ dại” lại gợi đến suy nghĩ bi quan, hốt hoảng của người thiếu phụ về số phận chông chênh của người chồng nơi chiến trận xa xôi. Ở nơi chiến trường xa xôi đầy nguy hiểm ấy, cơ hội lập được công danh thì ít mà hiểm nguy đến tính mạng thì nhiều.
Tâm trạng bộn bề, nỗi lòng đau đớn của người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến nơi xa mà Đặng Trần Côn diễn tả trong Chinh phụ ngâm đã được Vương Xương Linh dồn cả vào hai từ “hối giao”. Vì thế câu thơ mang sức nặng tư tưởng của cả bài thơ, thể hiện một chủ đề lớn và gợi ra bao nhiêu suy ngẫm.
Vương Xương Linh viết bài thơ này trước cuộc binh biến An Lộc Sơn, khi nhà Đường còn đang hùng mạnh và tiến hành những cuộc chiến tranh để mở rộng biên cương. Việc này đã khiến rất nhiều người bất bình, Đỗ Phủ đã từng băn khoăn:
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ hoàng khai biên ý vị dĩ!
(Ngoài biên cương máu đã chảy thành biển mà ý định mở rộng biên cương của nhà vua vẫn chưa nguôi!) (Binh xa hành). Trong hoàn cảnh ấy, giá trị nổi bật của bài thơ là tiếng nói chống chiến tranh. Giá trị nhân văn của thi phẩm thể hiện ở sự trân trọng khát vọng hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, ở tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi của con người không chỉ tuổi xuân, hạnh phúc mà còn là cả cuộc đời.
Với việc thể hiện sự chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ, nhà thơ đã thể hiện quá trình chuyển biến nhận thức của chính mình: từ con người có tinh thần chủ chiến, khao khát lập công danh bằng đao kiếm trên lưng ngựa đến con người có tư tưởng phản chiến khi nhận ra được sự tàn khốc của chiến tranh.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 3
Vương Xương Linh là một trong những nhà thơ thời Thịnh Đường. Thơ ông hiện còn 186 bài, trong đó đặc sắc nhất là thơ thất ngôn tuyệt cú. Vương Xương Linh với phong cách tinh tế, trong trẻo, thường đề cập đến cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi li sầu biệt, hận của người thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành trong sáng.
“Khuê oán” của Vương Xương Linh là một bài thơ hay viết về đề tài chiến tranh, về công danh, tình yêu và tuổi trẻ, những vấn đề luôn luôn day dứt trong tâm hồn con người mọi thời đại trước Vương Xương Linh, cùng thời với Vương Xương Linh và cả sau Vương Xương Linh. ‘‘Khuê oán” là một đề tài thường gặp trong thơ nhưng cấu tứ đặc biệt của bài thơ này đã thể hiện được quá trình tâm lí, bộc lộ được cả phần “tiềm ý thức” của người khuê phụ, khiến bài thơ 28 chữ này rất tinh tế, đầy gợi cảm và đầy tính thuyết phục. Vì vậy nó đã trở nên một bài thơ tiêu biểu cho tiếng nói phản đối chiến tranh”.
Cái độc đáo của bài thơ này là ở cấu tứ của nó thể hiện qua quá trình chuyển biến tâm trạng của người khuê nhu từ vô tư (bất tri sầu) sang hối hận. Nhan đề là Khuê oán mà câu thơ mở đầu lại là: Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu. Đây là một phản đề. Chồng ra trận mà người thiếu phụ lại “không buồn” vì thời Thịnh Đường, Trung Quốc là một nước giàu mạnh và có lãnh thổ rộng lớn nhà Đường đã phái quân đội ra trấn thủ biên cương và nếu thuận lợi thì “mở mang bờ cõi”.
Nhiều người ra biên cương và nếu thuận lợi thì “mở mang bờ cõi”. Nhiều người ra biên cương với hi vọng lập công để được phong hầu. Bởi vậy, người thiếu phụ có chồng ra trận mà vẫn thanh thản và vẫn làm công việc “muôn thuở” của người phụ nữ khuê các: trang điểm. Trang điểm rồi lên lầu ngắm cảnh cũng là chuyện bình thường. Lên lầu rồi, “chợt thấy màu dương liễu đầu đường”; “Màu dương liễu” trong thơ Đường (và thơ cổ Trung Quốc) là hình ảnh tượng trưng cho nỗi biệt li.
Mùa đang xuân, người đang trẻ tuổi mà phải biệt li, nàng chợt cảm thấy hối tiếc tuổi xuân, hối hận vì đã để chồng đi tìm kiếm ấn phong hầu. Ấn phong hầu chẳng biết có tìm được không nhưng sự thực thì chồng vợ phải sinh li. Mà sinh li này cũng có thể là tử biệt, vì “Xưa nay chinh chiến mấy ai về” (Vương Hàn, Lương Châu từ). Chính niềm hối hận ấy cho nàng nhận thấy cái “ấn phong hầu” thật vô nghĩa so với hạnh phúc bình dị trong sự sum vầy. Cũng chính niềm hối hận ấy khiến nàng “oán” cái ấn phong hầu, oán chiến tranh phi nghĩa đã gây nên bao cảnh sinh li tử biệt.
Muốn giải thích vì sao khi thấy “màu dương liễu” người khuê phụ lại hối hận đã để chồng đi tìm kiếm “ấn phong hầu”, cần phải biết ý nghĩa tượng trưng của “màu dương liễu”. Ở Trung Quốc người ta trồng rất nhiều cây liễu. Mùa xuân màu liễu xanh biếc khắp nơi. Bởi vậy màu dương liễu thường tượng trưng cho mùa xuân và tuổi trẻ. Trong tiếng Trung Quốc, từ liễu và từ lưu phát âm gần giống nhau.
Do đó mỗi khi chia tay nhau, người ở lại thường bẻ một cành dương liễu tặng cho người ra đi với ngụ ý tặng nhau niềm tin lưu luyến. “Chiết liễu tặng biệt” từ lâu đã thành một phong tục. Bởi vậy trong thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là trong thơ Đường, “cành liễu”, “màu dương liễu” hay động tác “bẻ liễu” đã trở thành một hình ảnh ước lệ, tượng trưng cho sự li biệt.
Khi thấy “màu dương liễu”, người khuê phụ bỗng nghĩ đến tuổi trẻ của mình đang trôi qua mà vợ chồng thì xa cách mãi vì chồng đang đi ra trận lập công để kiếm “ấn phong hầu”. Bởi vậy người thiếu phụ “Hối hận đã để chồng đi tòng quân để tìm kiếm ấn phong hầu”.
Trong 28 chữ của bài thơ, động từ hối (hối tiếc và hối hận) là quan trọng nhất, thể hiện thái độ oán ghét chiến tranh. Nhưng phó từ hốt (bỗng, chợt) cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trước cái khoảnh khắc “chợt (hốt) thấy màu dương liễu” là sự vô tư (bất tri sầu), sau khoảnh khắc “chợt thấy màu dương liễu” là nỗi hối hận và hờn oán. “Màu dương liễu” như một giọt chất xúc tác nhỏ vào tâm lí của người khuê phụ khiến phản ứng tâm lí lập tức xảy ra, từ vô tư đột biến thành “hối hận”. Phó từ “hốt” chính là chiếc bản lề của sự đột biến ấy.
Với 28 chữ, bài “Khuê oán” tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của nhân dân thời Đường, cũng là của toàn nhân loại. Bởi bài thơ đề cập đến một vấn đề mang tính quy luật: chiến tranh phi nghĩa chỉ đem những điều sinh li tử biệt đến con người. Đó cũng là giá trị nhân đạo và ý nghĩa hiện đại của bài thơ Khuê oán. Nó nói lên ước vọng hòa bình, ước vọng hạnh phúc muôn thuở của con người trong mọi thời đại.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 1
Vương Xương Linh là một trong những nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường. Thi phẩm của ông đểlại hiện còn 186 bài, phần lớn là thơ thất ngôn tuyệt cú. Bài “Khuê oán” là một kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh: thâm trầm, trang nhã, tinh tế.
Khuê oán
“Khuê tru nụ thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuỷ lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu”.
Bài thơ thể hiện tâm trạng người thiếu phụ nơi phòng khuê trong những năm tháng mà người chồng thân yêu đang xông pha, đang gối đất nằm sương trên miền chiến địa. Người thiếu phụ được nói đến trong “Khuê oán ” không phải thuộc lớp bình dân, mà là một mệnh phụ phu nhân sống trong chốn lầu son gác tía, trong những lầu đẹp (thuý lâu).
Đó là điều cần biết đểcảm hiểu bài thơ “Khuê oán Hai câu thơ đầu nói lên cuộc sống nhàn nhã, đài các của thiếu phụ thời son trẻ, khi sống hạnh phúc đoàn tụ với người chồng yêu thương. Khi ấy, nàng chưa hề biết đến nỗi buồn (bất tri sầu). Phòng khuê là tổ ấm hạnh phúc. Suốt một thời son trẻ, mỗi lần trang điểm xong, nàng bước lên lầu đẹp (để dạo bước, để ngắm hoa, nhìn cảnh, nhìn trời…):
“Khuê trụng thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
(Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương).
Trong câu thơ dịch, hai chữ “ngắm gương” là Tản Đà suy luận ra, chứ trong nguyên tác không hề có. Hai chữ “Xuân nhật” nghĩa đen là ngày xuân; trong văn cảnh còn mang hàm nghĩa chỉ thời trẻ trung, đầy xuân sắc, xuân tình, đó là những ngày êm đẹp, hạnh phúc nhất của nàng. Nhưng những ngày ấy đã trôi qua lâu rồi, nay chỉ còn là kỉ niệm đẹp.
Hai câu thơ đầu vừa tả tâm hồn vô tư, yêu đời (chẳng biết sầu là gì) vừa tả cử chỉ động tác (soi gương, nhẹ bước lên lầu) đúng là nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Hai chữ “xuân nhật” là thời gian nghệ thuật, ba chữ “bất tri sầu” là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện, gợi tả sự trẻ trung, yêu kiều, đài các, nhàn nhã, quý phái, phong lưu…
Nàng đã sống trong giàu sang phú quý, trong êm ấm hạnh phúc gia đình thời son trẻ. Nhưng ấn phong hầu cho chồng là niềm khao khát và mơ ước của nàng. Người chồng cũng vậy, “chí làm trai dặm nghìn da ngựa”… Có thể nói, giấc mộng phong hầu ấy rất đẹp và chính đáng. Nàng khuê phụ và chồng nàng được nói đến trong bài thơ là những con người thuộc tầng lớp trên thời Thịnh Đường cách chúng ta hơn 13 thế kỉ. Họ gắn bó với nhà vua theo lí tưởng trung quân. Hai câu 3, 4, các chữ “hốt kiến ” và “hối giao ” là nhãn tự của bài thơ:
“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu ” nghĩ dại, xui chàngkiếm chi).
“Dương liễu sắc ” là sắc màu dương liễu, là hình ảnh hiện tại. Sau những năm dài sống cô đơn, nàng khuê phụ lên lầu cao chọt nhìn thấy. Như có sự giật mình trước sự đổi thay của sắc màu dương liễu. “Xuân nhật” là quá khứ, “dương liễu sắc ” là hiện tại. Và đó là mùa thu, sắc thu. Hình ảnh ấy mang hàm nghĩa: tuổi xuân đẹp đã trôi qua, nhan sắc xinh tươi đã dần phai sau năm tháng đợi chờ và cô đơn. “Dương liễu sắc ” là một ẩn dụ, một hình ảnh ước lệ, lấy cảnh để tả tình.
Khuê phụ chợt nhìn thấy sắc màu dương liễu mà hối hận (hối giao) vì mình đã đểchồng đi tòng chinh mong kiếm ấn phong hầu. Hối hận vì phải trả giá cho giấc mộng công hầu. Người chồng có thể giãi thây trên chiến địa. Người chồng cũng có thể trở thành “ChàngSiêu tốc đã điểm sương mới về” (Chinh phụ ngâm). Thực tế phũ phàng: cô đơn, sầu muộn, tuổi xuân mỏi mòn, mong chờ rồi tuyệt vọng. Khuê phụ thở dài, than khóc, hối hận. Nàng tự trách mình, nàng oán trách duyên phận mình. Đó là “khuê oán”.
Ở đây, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật một lần nữa lại đồng hiện. “Hốt kiến ”, “hối giao ” là tâm trạng khuê phụ, là nỗi đau, nỗi buồn của người vợ trẻ có chồng đi lính ngày xưa: hối hận, u sầu, đau khổ, nàng chỉ còn biết tự trách mình. Có người cho rằng “Khuê oán ” tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của con người thời Đường. Chúng tôi không nghĩ như thế.
“Khuê oán ” chỉ là tiếng thở dài, giọt nước mắt, sự hối hận của người khuê phụ về mộng công hầu mà nàng phải nếm trải với bao cay đắng cô đơn. Cách viết của Vương Xương Linh nhẹ nhàng và thấm thìa. Cái ấn phong hầu thời nào cũng có giá: máu và nước mắt.
Qua bài “Khuê oán ”, ta thấy phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh chứa chan tình đời và tình người. Càng đọc càng suy nghĩ mới thấy hay, thấy rung động.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 8
Nhà thơ Vương Xương Linh là một nhà thơ xuất sắc thời Đường. Ông để lại nhiều bài thơ hay nổi tiếng cho nền thi ca Việt Nam. Phần lớn thơ của ông đều được viết bởi thế thất ngôn tuyệt cú. Bài thơ “Khuê oán” là một tác phẩm xuất sắc nhất của Vương Xương Linh thể hiện cho phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đó chính là sự thanh nhã, tinh tế.
“Khuê tru nụ thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu”.
Bài thơ “Khuê oán” viết về tâm trạng của người thiếu nữ sau khi lấy chồng suốt ngày bị nhốt trong phòng khuê một mình vò võ đợi chồng nơi biên ải. Không có tin tức gì, không biết người chồng thân thương của mình còn sống hay đã chết. Bài thơ thể hiện sự khắc khoải đợi mong, tới thất thần, quên ăn quên ngủ.
Người thiếu phụ trẻ trong bài thơ Khuê oán là một người phụ nữ thuộc con nhà danh giá, có quyền lực, hoặc giàu có. Nên cô được sống trong lầu son gác tía, thể hiện sự sung túc về vật chất. Thừa thãi về mặt tinh thần. Nhưng sự đối lập giữa vật chất và tinh thần càng làm cho bài thơ thêm thương cảm, xúc động lòng người.
Người thiếu phụ nữ sau khi người chồng lên đường đã sống cảnh an nhàn sung sướng ở nhà chồng. Nhưng bị nhốt tuổi xuân trong lầu son gác tía. Nàng khi lại những lúc hạnh phúc bên chồng nàng đâu có biết tới nỗi buồn của việc chờ đợi, ngóng trông là như thế nào.
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
(Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương).
Trong hai câu thơ này thể hiện sự vô tư hồn nhiên, yêu đời của người con gái trẻ trung, xuân sắc. Nàng còn trẻ tâm hồn còn yêu đời nhiều lắm, gia cảnh lại khá giả không phải lo cái ăn cái mặc, thì chẳng có chuyện gì làm cho nàng buồn cả. Mỗi ngày nàng đều trang điểm soi gương, ăn mặc đẹp như một thiên thần đi qua đi lại trong nhà.
Nàng được sống trong hoàn cảnh giàu sang phú quý, trong một gia đình êm ấm hạnh phúc. Có những người hầu kẻ hạ phục vụ mình, nên những ngày xuân với nàng là một điều vô cùng tuyệt vời. Nàng có nhan sắc, có tuổi trẻ, có tiền bạc làm sao phải buồn khổ.
“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu ” nghĩ dại, xui chàng kiếm chi).
Trong hai câu thơ này hình ảnh hiện tại được tác giả Vương Xương Linh tái hiện là một cuộc sống hoàn toàn trái ngược với hai câu trên. Sau những năm tháng chờ chồng sống cô đơn, vò võ một mình nhìn nhan sắc tuổi xuân ngày một trôi qua tầm tay. Người con gái không còn vui vẻ được nữa, mà tâm trạng đã nhuốm sự u sầu, chán chường.
Nàng giật mình nhận ra sự thay đổi của thiên nhiên, sự thanh xuân trên cành liễu ngày nào chỉ còn trong quá khứ, còn hiện tại những cành dương liễu đã nhuốm màu buồn bã của sắc thu. Mùa thu vàng gợi cho người ta cảnh thê lương, buồn chán, ảm đạm. Tuổi thanh xuân của người thiếu phụ cũng đã trôi đi như vậy, nàng không còn ở độ tuổi đẹp nhất tươi thắm nhất nữa, mà đang chuyển sang một thời kỳ mới thời kỳ mùa thu của cuộc đời mình.
Vương Xương Linh đã thật tinh tế khi sử dụng cành liễu bên đường để gợi tả vẻ thanh xuân của người thiếu phụ. Một hình ảnh ẩn dụ tài tình nhưng giàu sức gợi cảm trong lòng người đọc. Người thiếu phụ nhìn cành liễu dương chợt cảm thấy hối hận khi để cho người chồng của mình đi tòng quân, tìm công danh sự nghiệp mong hướng ấn phong hầu. Nhưng nay người đi đã lâu công danh sự nghiệp không biết có thành không, chỉ biết người thiếu phụ phải mòn mỏi chờ trông.
Người đi không biết khi nào trở lại, hay đã bỏ mạng nơi chiến trường để cho người vợ trẻ là nàng chờ ngóng không một tin tức hồi âm. Nàng ngồi nhìn tuổi xuân trôi qua tay cảm thấy hối tiếc về quyết định sai lầm của mình. Công danh vương hầu chỉ là vật ngoài thân còn tình nghĩa vợ chồng keo sơn, sắc son gắn bó bên nhau, sinh con đẻ cái, sống cuộc sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long mới là điều quan trọng với tình cảm con người.
Thông qua bài thơ Khuê oán tác giả muốn phản đối chiến tranh phi nghĩa, những cuộc chiến tranh nhằm tìm kiếm công danh thực hiện giấc mộng bá chủ thiên hạ chỉ làm cho những gia đình phải ly tán, nhà tan cửa nát, biết bao người vợ phải xa chồng, con phải xa cha…
Thông qua bài thơ “Khuê oán” người đọc cảm nhận được phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh chứa chan tình cảm thể hiện tinh thần nhân văn của mình với những số phận người phụ nữ trẻ vì chiến tranh mà đánh mất tuổi xuân của mình. Nhìn tuổi xuân trôi qua trong vô vọng .
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 9
Tôi chưa đọc nhiều thơ Đường cũng như chưa thực sự có một vốn kiến thức sâu rộng về Đường thi. Tuy vậy nhưng trong số ít ỏi nhưng bài thơ Đường tôi đã được đọc và cảm nhận, tôi đặc biệt thích bài “Khuê oán” của Vương Xương Linh – một thi phẩm thực sự làm tôi ngưỡng mộ. Bài thơ gồm bốn câu thơ như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Dịch nghĩa:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết buồn
Ngày xuân, trang điểm rồi trèo lên lầu đẹp
Chợt nhìn thấy sắc xuân cây dương liễu ở bên đường
Bỗng hối hận đã xui chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu
Dịch thơ:
(Dịch thơ của Ngô Tất Tố)
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Nội dung chính của bài thơ nói về nỗi oán hận của người con gái nơi phòng khuê, thể hiện ngay ở nhan đề – “khuê oán”. Tại sao lại có nỗi oán hận ấy thì ta có thể tìm hiểu cụ thể qua bốn câu thơ. Hai câu thơ đầu:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu
dịch là:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết buồn
Ngày xuân, trang điểm rồi trèo lên lầu đẹp
“thiếu phụ” – tức là người phụ nữ đã có chồng nhưng còn trẻ.Có thể thấy ở đây người thiếu phụ không biết buồn – vẫn rất hồn nhiên vui vẻ. Thể hiện sinh động ở hành động trang điểm “ngưng trang” trong “xuân nhật”(ngày xuân). Có nhiều ý kiến khác nhau về cách dịch từ “ngưng” , nhưng dịch là đẹp, lộng lẫy đi liền với động từ “trang” là trang điểm lộng lẫy, đẹp thì xem ra hợp nghĩa hơn cả, và có ý nghĩa hơn cả trong việc thể hiện nỗi oán ở hai câu sau. Cũng phải nói thêm về hành động “thướng thúy lâu” tức trèo lên lầu đẹp. Một hành động cũng góp phần nói lên sự hồn nhiên, vô tư của người thiếu phụ trẻ khi lên lầu ngắm cảnh đẹp ngày xuân.
Tóm lại hai câu thơ đầu là bức tranh đầy hài hòa giữa không gian mùa xuân tươi mát, vẻ đẹp lộng lẫy của thiếu phụ trẻ với cái hồn nhiên vô tư của tâm hồn nàng. Hai câu thơ sau là sự chuyển đổi cảm xúc một cách kì diệu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
dịch là:
Chợt nhìn thấy sắc xuân cây dương liễu ở bên đường
Bỗng hối hận đã xui chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu
Từ “hốt” là đánh dấu sự biến đổi hoàn toàn trong cấu tứ bài thơ. Nó tạo nên sự chuyển đổi đầy tinh vi trong cảm xúc. Ở đây ta chú ý đến hình ảnh “cây dương liễu” – một hình ảnh ước lệ trông thơ ca truyền thống. “Liễu”tượng trưng cho sự chia lìa, li biệt, khi hai người chia xa họ thường bẻ cành liễu trao tay nhau.
Vậy là đã rõ. Người thiếu phụ trẻ bất chợt nhìn thấy sắc dương liễu -một hình ảnh đầy vô tình trong cái sự trang điểm lộng lấy, ngắm cảnh xuân của một trái tim vốn vô tư. Không nói ra nhưng người đọc cũng tự cảm thấy nỗi sầu oán, xót xa đang từng giây ngập đầy trái tim người phụ nữ trẻ.
Lẽ thường: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai”. Nhưng người thiếu phụ trẻ ở đây điểm trang rất lộng lấy, càng lộng lẫy càng đẹp thì càng làm nỗi xót xa, cay đắng tâng lên gấp bội. Bởi lẽ đẹp lắm cũng để làm gì đâu, có ai nhìn ai ngắm, ai yêu. Và càng đau xót khi nhận thấy nếu như chàng mãi không về thì thì cái tuổi trẻ, sắc đẹp của nàng sẽ phôi phai. Nàng đang đứng trong mùa xuân nên hơn ai hết nàng hiểu rõ cái sự tuần hoàn ấy của đất trời.
Nàng thực sự hối hận:
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Ngày xưa người phụ nữ xem việc chồng đi chinh chiến tìm kiếm công danh là lẽ thường tình. Nhưng người phụ nữ trẻ này thì khác, nàng nhận ra cái vô nghĩa của con đường tìm kiếm công danh ấy. Trong hàng triệu người ra đi thì có bao người đem được danh tước trở về, hay đa số mất xác nơi cồn cỏ, hoang mạc gió bụi trong những cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi phi nghĩa. Để lại nỗi nhọc nhằn cô đơn mỏi mòn cho những người thân nơi làng quê từng giây mong ngóng. Nàng ý thức rõ chiến tranh là nguyên nhân gieo đau khổ, chết chóc và giết chết tuổi xuân của nàng trong thầm lặng.
Bài thơ với thể thất ngôn tứ tuyệt hàm xúc, nhà thơ đã làm được những điều kì diệu trong cấu tứ, trong thể hiện cảm xúc tinh vi khéo léo bằng nghệ thuật tương phản. Thực sự đã rất thành công để nói lên nỗi sầu oán của người thiếu phụ, đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa gieo đau thương cho dân chúng. Quả là một thi phẩm danh bất hư truyền.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 4
Có những bài thơ Trung Quốc mà đã để lại cho chúng ta những bạn đọc Việt Nam biết bao nhiêu cảm xúc và suy nghĩ về cuộc đời của những người xưa. Thơ Đường có nhiều kiệt tác về đề tài chiến tranh. Tuy không nói trực tiếp đến sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng từ nỗi sầu biệt hận của người thiếu phụ phòng khuê.
Nếu như Việt Nam ta có bài thơ Chinh Phụ Ngâm thể hiện được nỗi lòng chinh phụ có chồng đi đánh giặc thì văn học Trung Quốc có Nỗi oán của người phòng khuê. Bài thơ đã cất lên tiếng nói căm ghét oán hờn đối với chiến tranh. Với một bài thơ như Khuê oán thì hàng trăm mũi tên phản chiến ắt còn phải chịu thua xa.
Bài thơ vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ nhưng Vương Xương Linh vẫn thể hiện được quá trình chuyển biến tâm trạng của người khuê phụ. Bài thơ đã thể hiện rõ được tâm trạng của người thiếu phụ ấy vì sự trôi chảy của thời gian khiến cho cô phải suy nghĩ trăn trở. Đồng thời qua bài thơ thể hiện sự phản đối chiến tranh ngay giữa đời Thịnh Đường.
Về tri thức văn hóa thì ta thấy được quá trình phát triển của thơ Đường người ta chia ra làm bốn giai đoạn lớn. Thứ nhất là sơ Đường: Đây là thời kì chuẩn bị, bao gồm cả việc tiếp nhận truyền thống thơ của các thời đại khác với phong vị “phong, tuyết, nguyệt, hoa” kết hợp với việc đổi mới thơ ca với tên tuổi của Trần Tử Ngang. Thơ Sơ Đường có tứ kiệt là Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lô Chiếu Lân, Dương Quýnh.
Thứ hai là thời Thịnh Đường: đây là thời đại phát triển rực rỡ gắn liền với những cái tên nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ hay Vương Xương Linh… Thứ ba là thời Trung Đường: Đặc điểm của thời kì này là nhà Đường đi vào suy thoái cho dù loạn An – Sử đã được dẹp tan. Tiêu biểu cho thơ ca thời Trung Đường là Bạch Cư Dị, Liễu Tông Nguyên. Thứ tư là từ thời Thái Hòa trở đi, nhà Đường suy sụp không cứu vãn được. Các nhà thơ tiêu biểu là Lí Thương Ẩn, Đỗ Mục.
Về thể loại thì đây là thể loại phái thơ biên tái ra đời trong thời kì này với nhiều cách thức phản ánh và nhìn nhận khác nhau về cuộc chiến đó. Vương Xương Linh qua các bài thơ của mình không ủng hộ cuộc chiến đó. Thơ ông là tiếng lòng sầu bi ai oán, là nỗi đau đòi hạnh phúc bình yên, là tiếng nói phản đối chiến tranh. Về nội dung thì mở đầu bài thơ với hai câu thơ mang đến cho chúng ta một tâm trạng của người thiếu phụ ấy. Đó là một tâm trạng vui vẻ ngay cả khi chồng đi chinh chiến phương xa:
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thương thúy lâu”
(Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu)
Cô gái ấy chưa biết sầu buồn là gì bởi vì cô vẫn còn vô tư hồn nhiên lắm. người chồng của cô đang đi chinh chiến nhưng cô không lấy làm buồn. Cô vẫn ngày đêm vui vẻ vô tư như thế. Hai từ “khuê các” thể hiện sự giàu sang phú quý của những bậc tiểu thư. Cô gái ấy vẫn thức dậy và trang điểm một cách tỉ mỉ dạo lên lầu. Tâm trạng cô vui vẻ như bao giờ hết, thế nhưng đến hai câu thơ sau tâm trạng cô bỗng nhiên thay đổi.
Không cần nói thêm một điều gì, không cần một câu thơ để chuyển ý tâm trạng nhà thơ cứ thế thể hiện theo trình tự mà vẫn làm cho người đọc thấy được sự chuyển biến tâm trạng ấy:
“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”
(Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.)
Cây liễu ở đây thể hiện cho tuổi thanh xuân của một đời người hay cụ thể hơn là một người con gái. Tâm trạng của cô đang vui bỗng nhiên chuyển thành buồn. Cô nghĩ đến tuổi trẻ của mình và không cần ai nói gì không cần nghe gì mà bản thân cô tự nhận ra và từ tâm trạng vui cô thấy buồn. Và từ sự nhận thức ấy khiến cô không thể vô tư được nữa. Cô nhớ thương đến chồng mình và đã hối hận khi để chồng lâm vào cảnh chiến tranh để phong hầu phong tước. qua đây nhà thơ thể hiến sự phản đối chiến tranh vì chính nó đã làm cho những người vợ chồng phải xa nhau cách trở.
Về nghệ thuật, bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cách đặt vấn đề có vẻ khác lạ với tiêu đề bài thơ, tạo ra một kiểu phản đề. Người thiếu phụ chẳng biết sầu vì cho rằng chồng ra trận là hợp với thời đại, là đúng tư cách nam nhi và cũng có thể coi là lí tưởng đối với các gia đình quyền quý.
Cách suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề của người thiếu phụ có vẻ thụ động, đơn giản một chiều. Qua đây ta thấy những nhà văn Trung Quốc cũng thật tài giỏi và hiểu được tâm trạng của người phụ nữ khi có chồng đi xa. Không những đồng cảm với tình yêu đôi lứa bị cách trở mà nhà thơ còn thể hiện sự phản đối chiến tranh của mình.
Bài văn phân tích tác phẩm “Khuê oán” số 5
Tác giả Vương Xương Linh – một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời Thịnh Đường, nổi tiếng với những bài thơ nói về cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi sầu của người thiếu phụ khuê các… ở chủ đề nào cũng có những kiệt tác. Đặc biệt trong chủ đề về nỗi sầu li biệt của người chinh phụ có bài thơ “Khuê oán”, bài thơ không chỉ nói lên nỗi sầu muộn, nhớ thương của người vợ nhớ chồng mà còn thể hiện khao khát hạnh phúc lứa đôi và gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa.
Những năm diễn ra cuộc chiến tranh phi nghĩa, biết bao người chồng, người cha đã phải rời xa mái ấm, xa rời vợ con và đành dang dở hạnh phúc để làm theo nghĩa vụ. Người chồng của chinh phụ trong bài thơ cũng nằm trong số đó, tuy nhiên những ngày đầu khi chồng mới đi tòng quân, người chinh phụ vẫn chưa cảm nhận được sự đau thương, mất mát, ngược lại vẫn hồn nhiên và vô tư sống rất bình thản:
“Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt bước lên lầu.”
Sự vô tư hồn nhiên thể hiện rất rõ qua từng hành động của người khuê phụ, đó là trang điểm, chải chuốt và lên lầu ngắm cảnh mùa xuân. Trong khi chồng đang chinh chiến nơi chiến trường biên ải xa xôi, đối mặt với hiểm nguy và cái chết, nàng vẫn chưa nhận thức được mối nguy đó. Mới thiếu vắng bóng dáng người chồng chưa lâu có lẽ nàng chinh phụ vẫn chưa biết sầu mặc, vẫn bình thản với cuộc sống hàng ngày, làm việc bình thường và vui vẻ.
Nhà thơ tuy tả rất ít nhưng lại gợi lên rất rõ tâm trạng của người khuê phụ, nàng hiện lên với vẻ yêu kiều, tiểu thư đài các phong lưu, bởi đã quen cảnh sống trong êm ấm, trướng rủ màn che. Khi chồng đi tòng quân, nàng chưa nghĩ đến được những cái mất mát mà chỉ nghĩ đến khao khát ấn phong hầu cho chồng khi lập được công trên chiến trường. Nàng đâu biết rằng trên chiến trường đao kiếm kẻ thù vô tình, giữ được mạng sống và bình an trở về đã là điều may mắn, chưa nghĩ đến chức tước công hầu. Để rồi khi ngồi trên lầu, nhìn thấy cành dương liễu nàng mới chợt tỉnh ngộ, bừng tỉnh về hoàn cảnh của mình:
“Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.”
“Màu dương liễu” là màu đại diện cho mùa xuân và tuổi trẻ, màu sắc xanh tươi mơn mởn của dương liễu gợi lên những khát vọng hạnh phúc, không chỉ vậy, cành dương liễu còn là biểu tượng của sự chia li, lưu luyến. “Cành liễu” hay “bẻ liễu” là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho sự li biệt. Chính vì những ý nghĩa này của “màu dương liễu” mà khi người khuê phụ nhìn thấy lại ngộ ra nhiều điều, nàng nhìn dương liễu mà nhớ đến giây phút tiễn biệt chồng ra trận, cảm xúc và tâm trạng của nàng đã hoàn toàn thay đổi.
Đến lúc này nàng đã thấu nỗi buồn li biệt, chồng đi rồi chẳng biết đến khi nào mới trở về và liệu có thể bình an trở về hay không. Nàng nhìn cành dương liễu cũng như đang nhìn hạnh phúc từng ngày dần héo mòn, tuổi xuân của người phụ nữ đâu thể tồn tại mãi mãi, rồi cũng phải phai dần theo năm tháng. Nàng chợt nhận ra hạnh phúc và tuổi xuân đang từ từ tuột khỏi tầm tay mà không thể níu giữ lấy, để rồi nàng ân hận, trách cứ chính bản thân mình khi đã để chồng đi tòng quân.
Khao khát hạnh phúc và mái ấm gia đình giờ đây rất xa vời và ngoài tầm tay của nàng, giờ đây dù nhớ thương chồng da diết cũng chẳng cách nào xoa dịu nỗi nhớ mong ấy, càng không thể gọi chồng trở về, chỉ còn cách chờ đợi trong mỏi mòn, lo lắng. Tương lai tước hầu mà nàng nghĩ đến khi chồng ra trận giờ đây hóa hiện thành khó khăn, hiểm nguy, và cái chết, nàng không dám nghĩ nhiều chỉ biết oán hận cho cái tước hầu ấy, căm ghét chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người chồng phải ra trận.
Có thể nói, bài thơ “Khuê oán” của Vương Xương Linh trải qua hàng ngàn năm vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị, sống mãi trong lòng người đọc và được truyền bá rộng rãi. Người đời hâm mộ thơ ông không chỉ vì nội dung gắn liền với cuộc sống, phản ánh hiện thực xã hội mà còn vì sự trong trẻo, tinh tế, thanh tân trong từng câu chữ của phong cách thơ.
Có thể bạn thích: