Tế Hanh (1921 – 2009), tên thật là Trần Tế Hanh; là một nhà thơ Việt Nam thời kháng chiến. Ông quê ở tỉnh Quảng Ngãi. Ông sáng tác thơ từ rất sớm, năm 17 tuổi … xem thêm…ông viết bài thơ đầu tiên: Những ngày nghỉ học. Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn. Bài thơ Nhớ con sông quê hương là sự ca ngợi về vẻ đẹp của con sông quê vô cùng bình dị và chân thật. Con sông quê hương đối với nhà thơ Tế Hanh là con sông của tâm hồn, của tấm lòng mình. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ.
“Câu thơ dâng hiến cho dòng sông quê hương”: Tác giả dùng bài thơ như một cách để tri ân và tưởng niệm con sông, thể hiện lòng tự hào và tình cảm chân thành đối với quê hương.
Bài thơ “Nhớ con sông quê hương” diễn tả nỗi nhớ quê của tác giả, đặc biệt là nỗi nhớ về con sông quê hương gắn bó với những kỷ niệm trong quá khứ. Con sông không chỉ là một phần của cảnh vật quê hương mà còn là một biểu tượng của những giá trị và kỷ niệm trong tâm hồn tác giả.
Nhịp điệu: Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng và đều đặn, phản ánh sự bình yên và cảm xúc chân thành của tác giả. Nhịp điệu này giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi nhớ và tình yêu của Tế Hanh.
Bố cục: Bài thơ có bố cục rõ ràng, mở đầu bằng nỗi nhớ quê, tiếp theo là những hình ảnh và cảm xúc về con sông, và kết thúc bằng lòng tri ân và tình yêu đối với quê hương.
Bài tham khảo số 6
Văn hào Liên Xô (cũ)- Ilia Ê- ren- bua- đã nói một câu nổi tiếng, đại ý: Yêu Tổ Quốc chính là từ lòng yêu quê hương. Tình yêu đó bắt nguồn từ việc yêu: cái cây, ngọn cỏ, dòng sông, con đường, biển đảo, cánh rừng… Quê hương còn là bài hát, ca dao, mái tranh nghèo, mảnh ruộng, con trâu…Tất cả gộp lại, nhào trộn nhuần nhuyễn thành mảnh đất quê hương mà cha ông ta phải đổ mồ hôi, xương máu, nước mắt để bồi đắp, dựng lên.
Vì thế đối với bất cứ ai khi phải rời xa mảnh đất quê hương yêu dấu của mình đều canh cánh trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi. Nhà thơ Tế Hanh cũng không nằm ngoài qui luật đó. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Tế Hanh sớm ra nhập phong trào Việt Minh (8/1945), rồi tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Làng quê Tế Hanh là một vùng sông nước nằm ven bờ hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã “tắm mát” đời ông. Đây cũng chính là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để thi nhân sáng tác các bài thơ nổi tiếng về sông nước quê hương như: Quê Hương, Trở lại con sông quê hương, Nhớ con sông quê hương…
Thơ Tế Hanh đặc biệt gây ấn tượng mạnh đối với những người con phải sống xa nhà, phiêu bạt xa quê, mỗi khi bắt gặp vần thơ của ông nỗi nhớ thương quê hương càng trỗi dậy mặn mà và da diết. Bởi hơn ai hết Tế Hanh đã viết về quê hương mình bằng những câu thơ chân thật và hồn nhiên nhất.
Ngôn từ không cầu kì tô vẽ, vẫn là những hình ảnh quen thuộc bao đời nay về con sông quê hương: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng”.
Nỗi nhớ của nhà thơ Tế Hanh khi phải sống xa quê hương – thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và con sông Trà Bồng là một nỗi nhớ đã được định danh cụ thể. Vậy mà, khi đọc lên không ai lại không cảm thấy nao lòng khi nghĩ về làng quê của mình. Bởi lẽ đã là người, ai cũng có một làng quê để chào đời, một làng quê để lớn lên và một làng quê để thương để nhớ.
Tế Hanh viết về con sông quê hương mình ở miền Nam, nhưng người đọc miền Bắc lại đồng cảm với thi sĩ và liên tưởng tới con sông quê hương họ với những ký ức của quá khứ xa xăm, để lại trong họ nhiều kỉ niệm thân thương. “Hỡi con sông tắm mát cả đời tôi/ Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ/ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ/ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu”.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân đã không tiếc lời ca ngợi: “Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thấu tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng”…”Mảnh hồn làng” trong thơ Tế Hanh bình dị và trong trẻo đến lạ lùng.
Đó là hình ảnh “Bờ tre ríu rít tiếng chim kêu”, là “Bầy chim non bơi lội trên sông”, là hình ảnh một “Con sông quê hương” cuồn cuộn chảy trong tâm thức thi nhân với bao hồi ức chất đầy nỗi nhớ thương khi nhà thơ phải ly hương “Xa nhà đi kháng chiến”.
Để rồi sau đó phải sống dằn vặt xa quê với tâm trạng “ngày Bắc, đêm Nam” trong hơn hai mươi năm trời khi đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, dù bao năm xa cách, hình ảnh quê hương vẫn đọng lại trong kí ức, kết tinh thành một điệu hồn riêng trong thơ Tế Hanh, tạo nên một phong cách thơ đôn hậu, đằm thắm, ngọt ngào.
Bài thơ “Nhớ con sông quê hương” (1956) đăng trên báo, rồi được ngâm trên Đài Phát thanh, trình bày trong các chương trình văn nghệ, đã làm bao người xúc động. Hơn 60 năm đã trôi qua, thi phẩm vẫn tồn tại. Người đọc, đọc lại, trong lòng vẫn dạt dào cảm xúc!
Bài tham khảo số 4
Quê hương, dòng sông thơ ấu, miền Nam thân yêu… là cảm hứng mãnh liệt, thắm thiết trong hồn thơ Tế Hanh. Năm 18 tuổi, ông có bài thơ “Quê hương” nổi tiếng. Năm 35 tuổi, đất nước bị chia cắt, sống trên miền Bắc, ông viết “Nhớ con sông quê hương”.
Hồi tưởng, hoài niệm dâng trào. Điệu thơ thanh, nhịp thơ dồn dập, cảm xúc lúc thì dồn nén, lúc thì sôi nổi dào dạt với nỗi nhớ thương dòng sông thơ ấu và nơi quê cha đất tổ bao đời.
Phần đầu 22 câu thơ là hình ảnh con sông quê hương trong hồi tưởng và kỉ niệm của nhà thơ. Con sông “xanh biếc”, “với “gương trong”, với đôi bờ tre xanh soi bóng. Hữu tình và thơ mộng:
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”.
Dòng sông quê hương là dòng sông tuổi thơ với những bình minh, những chiều tà đầy ắp kỉ niệm một thời thơ bé. Hình ảnh “bầy chim non…” trong bài thơ là một sáng tạo thi ca đẹp, độc đáo. Các điệp ngữ làm cho âm điệu vần thơ thiết tha, bồi hồi:
“Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu,
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông”.
Sông được nhân hoá ôm ấp bao mến thương. Sông là mảnh hồn người gắn bó:
“Tôi đưa tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ”.
Câu thơ song hành, phép đối và nhân hoá gợi tả đầy xúc động yêu thương dòng sông thơ ấu. Kỉ niệm đẹp tuổi thơ bền chặt mãi với con sông quê hương. Vì thế mọi số phận đều gắn bó với dòng sông “Vẫn trở về lưu luyến bên sông”, bởi lẽ:
“Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi”.
“Tắm” là tắm mát, là gắn bó yêu thương, là thuỷ chung trọn đời. Yêu dòng sông thơ ấu cũng là yêu quê hương, yêu miền Nam thân thiết. Giọng thơ khẳng định, tự hào:
“Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ,
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu”.
Phần thứ hai gồm 10 câu thơ, giọng thơ bồi hồi thương nhớ quê hương miền Nam tha thiết. Nỗi nhớ triền miên “nghe trái tim thầm nhắc – hai tiếng thiêng liêng – hai tiếng miền Nam”. Với nghệ thuật điệp ngữ – trùng điệp, Tế Hanh nói rất hay, rất cảm động nỗi thương nhớ: “Tôi nhớ không nguôi… Tôi quên sao được… Tôi nhớ cả…”. Một sắc trời xanh, một màu vàng của nắng, nhớ gương mặt quê hương. Thơ vừa chi tiết, cụ thể, vừa trừu tượng khái quát… đó là nỗi thương nhớ vơi đầy tâm tưởng:
“Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng,
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết”.
Nhớ dòng sông tuổi thơ là nhớ quê hương. Nhớ quê hương là nhớ bóng hình con sông mang nặng trong tâm hồn thi sĩ, xuất hiện trong nhiều câu thơ, đoạn thơ. Ở trên tác giả viết: “Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi”, xuống phần này, ông lại viết: “Hình ảnh con sông quê mát rượi – Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới”. Rõ ràng con sông quê hương là con sông tâm hồn thi sĩ.
Phần thứ ba gồm 6 câu thơ, giọng thơ cảm thán rung động. Cảm xúc dâng đầy, tràn ra, rồi dồn nén lại như một lời thề đinh ninh khắc sâu. Các điệp ngữ, các vần thơ trùng điệp biểu thị một ý chí sắt đá, một niềm tin mãnh liệt về thống nhất đất nước. Tình yêu con sông quê hương gắn liền với tình yêu đất nước và khát vọng thống nhất nước nhà:
“Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương”.
Nếu thơ là sự tinh luyện của ngôn từ nghệ thuật, là sự thăng hoa của rung động tâm hồn, thì bài “Nhớ con sông quê hương” là một thi phẩm tuyệt tác. Viết theo thể thơ tám tiếng quen thuộc, Tế Hanh thể hiện điêu luyện và biểu cảm tình thương nhớ thủy chung dòng sông thơ ấu và quê hương miền Nam thân yêu với bao da diết, bồi hồi.
Có thể bạn thích: