Sô-lô-khốp (1905-1984) tên khai sinh là Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp, là nhà văn Nga lỗi lạc, đã vinh dự nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965. Truyện ngắn “Số phận con người” được sáng tác năm 1957, là cột mốc quan trọng, mở ra chân trời mưới cho văn học Nga. Dung lượng tu tưởng lớn của truyện khiến có người liệt tác phẩm vào thể loại tiểu anh hùng ca. “Số phận con người” chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ: sức mạnh tinh thần, tình yêu thương có thể cứu vớt con người và nhờ nó, con người có thể vượt qua sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 6
Nhà văn Sô-lô-khốp tên họ đầy đủ là Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp. Ông sinh năm 1905 tại thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a, tỉnh Rô-xtốp thuộc vùng Sông Đông, Liên Xô (cũ). Thời trẻ, ông đã phải trải qua rất nhiều nghề lao động vất vả để kiếm sống. Vượt lên khó khăn, thử thách, Sô-lô-khốp tự học, tự đọc rất chuyên cần và bắt tay vào sáng tác với ước nguyện sẽ đưa hình ảnh quê hương, đất nước và con người thân yêu vào trong tác phẩm của mình.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Sô-lô-khốp gắn liền với các sự kiện lịch sử lớn lao, trọng đại trong cuộc chiến tranh vệ quốc đau thương và oanh liệt của nước Nga Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Với những tác phẩm nổi tiếng như tiểu thuyết Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, truyện ngắn Số phận con người…, năm 1965, Sô-lô-khốp vinh dự được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học và được đánh giá là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỉ XX của nước Nga và thế giới.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc bằng chiến thắng vẻ vang của Hồng quân Liên Xô trong trận tiến công vào tận sào huyệt phát xít Đức ở Béc-lin. Sự mất mát, hi sinh to lớn của nước Nga Xô viết đã giúp nhân loại thoát khỏi hiểm họa phát xít đáng ghê tởm. Hòa bình lập lại, nhân dân Nga hối hả bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các chiến sĩ Hồng quân giải ngũ trở về với cuộc sống lao động bình thường. Nhưng mọi điều đều không dễ dàng. Bao gian khổ, khó khăn trên con đường đi tới tiếp tục thử thách lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực của họ.
Nhà văn Sô-lô-khốp cảm phục trước sức mạnh tinh thần của nhân dân Nga trong thời hậu chiến, trăn trở trước số phận và tương lai của con người nên đã sáng tác truyện ngắn Số phận con người. Có thể nói đây là tác phẩm hiện thực xuất sắc đầu tiên xuất hiện sau chiến tranh mà tác giả dám nhìn thẳng vào những vấn đề gai góc, nan giải của cuộc sống, của những số phận bất hạnh, để từ đó ca ngợi và tôn vinh phẩm chất kiên cường, nhân hậu của nhân dân Nga mà ông hết lòng yêu mến và trân trọng.
Nhân vật chính của truyện là Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân trực tiếp tham gia chiến đấu chống phát xít Đức và đã trải qua hai năm khủng khiếp trong trại tù binh của quân thù. Nhờ dũng cảm, mưu trí, anh đã bắt sống tên thiếu tá Đức, cướp xe vận tải rồi tìm cách chạy về phía quân ta. Đến lúc này anh mới biết tin vợ và hai đứa con gái nhỏ đã bị chết trong một trận máy bay Đức ném bom quê anh năm 1942. Con trai lớn của anh cũng tham gia trận tấn công vào Béc-lin và đã bị kẻ thù sát hại đúng vào ngày chiến thắng. Số phận Xô-cô-lốp thật bất hạnh. Hòa bình rồi nhưng anh không thể trở về quê hương vì không còn ai là người thân. Anh sống phiêu bạt nay đây mai đó với cuộc sống bấp bênh và những cơn ác mộng kinh hoàng khiến trái tim anh luôn rỉ máu.
Đoan trích nằm ở cuối tác phẩm, kể về chuyện Xô-cô-lốp nhận chú bé mồ côi Va-ni-a làm con nuôi. Tình yêu thương con người đã sưởi ấm trái tim anh, khiến cho anh có thêm sức mạnh vượt qua những bất hạnh của số phận và tiếp tục tin yêu cuộc sống. Đúng như tên gọi của tác phẩm là Số phận con người, nhà văn Sô-lô-khốp dường như bám sát những diễn biến trong cuộc sống của nhân vật Xô-cô-lốp và luôn đặt anh vào những tình huống bất thường để bộc lộ tính cách. Điều bất hạnh lớn nhất mà Xô-cô-lốp phải đối đầu trong cuộc sống hòa bình là anh đã mất tất cả những người thân yêu, mất niềm hi vọng sum họp gia đình sau bao ngày chiến tranh ác liệt, luôn cận kề với cái chết.
Anh không muốn trở về quê hương vì sợ không chịu nổi sự nhức nhối, day dứt do bao nhiêu kỉ niệm êm đẹp gợi lên trong tâm trí. Lang thang nơi đất khách quê người, anh chỉ còn nguồn an ủi duy nhất là vợ chồng người bạn chiến đấu cũ, nay cũng phải lăn lộn vất vả mưu sinh. Xô-cô-lốp ở nhờ nhà họ và được bạn xin cho một chân lái xe chở hàng trong đội vận tải. Công việc hằng ngày của anh là chở hàng hóa từ thành phố về các huyện.
Sự thiếu thốn về vật chất cộng với nỗi đau tinh thần không thể nguôi ngoai khiến sức khỏe của anh ngày một yếu đi. Anh chẳng có thú vui gì ngoài thói quen uống rượu : Thường cứ chạy xe xong trở về thành phố, việc đầu tiên cũng dễ hiểu thôi, là tôi vào hiệu giải khát, nhấm nháp chút gì đó và tất nhiên có uống một li rượu lừ người… Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy… Xô-cô-lốp cố dùng rượu để giải sầu nhưng nỗi sầu chẳng hề vơi mà cứ kết lại thành hình thành khối nặng trĩu trong lòng. Điều đó thể hiện tâm trạng đau đớn, bế tắc và tuyệt vọng của anh.
Ngẫu nhiên, cũng chính ở cái hiệu giải khát ấy, anh đã để ý tới chú bé mồ côi Va-ni-a : Thế rồi một hôm, tôi thấy chú bé ấy ở gần cửa hàng giải khát, hôm sau vẫn lại thấy… Cái dáng vẻ bên ngoài khốn khổ của chú bé đập vào mắt anh, khơi dậy tình cảm xót thương: …thằng bé rách bươm xơ mướp. Mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó vô tình khiến anh nhớ lại đứa con trai kháu khỉnh, thông minh mà anh hết lòng yêu thương và kì vọng. Anh thú nhận: Tôi thích nó, và lạ thật, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe cho nhanh để được về gặp nó.
Có lẽ sự thiếu thốn tình cảm gia đình và khao khát có được người thân bên cạnh là nguyên nhân của cảm giác ấy. Xô-cô-lốp cảm thấy ấm lòng khi nhìn thấy chú bé, nghĩ về chú bé. Lòng nhân hậu đã làm sống lại tình phụ từ thiêng liêng trong anh. Trái tim anh tưởng chừng đã bị nỗi đau đớn ghê gớm làm cho chai đá thì giờ đây lại ấm nóng và đập những nhịp rộn ràng. Nghe bé Va-ni-a thở dài, trong lòng anh trào lên nỗi xót thương vô hạn : Một con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư ? Đấy đâu phải việc của nó.
Anh chủ động làm quen với chú bé tội nghiệp và qua trò chuyện, anh biết chủ bé cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc: Tôi hỏi: “Bố cháu đâu hả Va-ni-a ?” Nó rỉ tai: “Chết ở mặt trận.” – “Thế mẹ cháu ?” – “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu.” – “Thế cháu từ đâu đến ?” – *Cháu không biết, không nhớ,..” – “ Thế ở đây cháu không có ai là bà con thân thuộc à ?”. – “Không có ai cả.” – “Thế đêm cháu ngủ ở đâu” – “Bạ đâu ngủ đó”. Nghe cái giọng non nớt, tội nghiệp của cậu bé, Xô-cô-lốp xúc động không sao cầm được nước mắt: Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, và lập tức tôi quyết định : “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con.” Những giọt nước mắt của Xô-cô-lốp, người chiến binh dạn dày trận mạc, vào sống ra chết trong chiến tranh có ý nghĩa nhân văn sâu xa. Nó thể hiện nỗi đau tột cùng không thể thốt nên lời; đồng thời tố cáo chiến tranh phi nghĩa và tội ác của kẻ thù gieo rắc đau thương, tang tóc cho con người và đất nước Nga thân yêu của anh.
Quyết định bất ngờ của Xô-cô-lốp bắt nguồn từ lòng nhân hậu vốn có của người Nga. Riêng đối với anh, đây là quyết định hoàn toàn đúng đắn bởi trái tim nhạy cảm của anh thấu hiểu nỗi cô độc của kẻ không gia đình, không nhà cửa, không quê hương, sống trơ trọi giữa cuộc đời gian nan và đầy bất trắc. Đoạn văn tả cảnh Xô-cô-lốp đưa chú bé lên xe và chuyện trò với nó trong buồng lái thật tự nhiên và cảm động: Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên. Tôi cúi xuống bên nó khẽ hỏi: ” Va-niu-ska, có biết ta là ai không nào ?”. Nó hỏi lại nghẹn ngào : “ Thế chú là ai ?” Tôi nói lại cũng khẽ như thế : ” Ta là bố của con !”. Trời ơi ! Thật không thể tưởng tượng được. Nó nhảy chồm lên cổ tôi rồi hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái: “Bố yêu của con ơi ! Con biết mà ! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà ! Thế nào cũng tìm thấy mà ! Con chờ mãi mong được gặp bố”. Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió. Còn mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy… Lòng yêu thương quả là có sức mạnh diệu kì làm tái sinh, thay đổi hẳn con người, đem lại niềm vui sống.
Tâm hồn Xô-cô-lốp và Va-ni-a đều đang khao khát được sưởi ấm, được yêu thương, chia sẻ. Dường như có một sự sắp đặt kì diệu nào đó đưa đẩy hai con người bất hạnh đến với nhau. Va-ni-a tin rằng người đàn ông với thái độ cử chỉ đầy bao dung, che chở này chính là bố đẻ của mình. Còn Xô-cô-lốp thực lòng yêu thương và chăm sóc chú bé Va-ni-a như con đẻ. Anh thương xót, lo lắng cho chú bé với tất cả sự quan tâm và trách nhiệm của một người cha. Anh tắm rửa cho chú bé sạch sẽ, đặt lên giường ngủ rồi chạy vội ra cửa hàng tạp hóa mua quần áo, mũ và dép cho con trai mới. Xô-cô-lốp làm tất cà những việc đó với niềm vui khó tả. Những dòng nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật Xô-cô-lốp trong đêm đầu tiên ngủ cùng chú bé Va-ni-a thật tinh tế và làm thổn thức trái tim người đọc : Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sao bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Nhưng trong đêm cũng phải dậy đến vài bốn bận. Tôi thức giấc, thấy nó rúc vào nách tôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết ! Tôi không dám trở mình để nó khỏi thức giấc, nhưng rồi không nén được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ…
Xô-cô-lốp không giấu sự vất vả, khó khăn trong những ngày đầu nhận nuôi chú bé Va-ni-a. Nó đòi hỏi ở anh lòng kiên nhẫn, đức vị tha, tình yêu thương cùng trách nhiệm của người cha, người mẹ : Thời gian đầu, nó còn theo tôi trong các chuyến xe, nhưng rồi tôi hiểu ra rằng như thế không có lợi. Chỉ một mình tôi thì có cần gì đâu ? Một mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm nó thì khác : Khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức ăn nóng cho nó là không xong… Tuy nhiên, chú bé Va-ni-a dễ thương gợi cho Xô-cô-lốp nhớ tới đứa con trai mà anh yêu quý và điều đó đã bù đắp cho anh tất cả.
Điều quan trọng hơn là Xô-cô-lốp luôn cố gắng tạo ra cho chú bé mồ côi một niềm vui, một nguồn an ủi và tin tưởng vào anh – người mà nó tưởng là bố. Cho nên mỗi khi bất ngờ chú bẻ hỏi anh về một thứ gì đó như cái áo bành tô bằng da mà trước đây bố nó hay mặc thì anh phải tìm cách trả lời sao cho êm xuôi để Va-ni-a không nghi ngờ. Anh không muốn làm tổn thương trái tim non nớt của chú bé tội nghiệp. Đó cũng là biểu hiện rất tự nhiên của tấm lòng nhân hậu.
Cuộc đời của hai bố con Xô-cô-lốp tưởng chừng cứ thế trôi qua trong yên bình, nhưng số phận bất hạnh chưa buông tha anh. Đến tháng mười một thì Xô-cô-lốp gặp chuyện rủi ro : Xe anh đụng phải chân một con bò đi ngang đường. Con bò chẳng làm sao nhưng người chủ của nó vẫn làm ầm ĩ nên Xô-cô-lốp bị nhân viên kiểm soát giao thông thu hồi bằng lái. Anh mất việc, phải đi làm thợ mộc kiếm sống qua ngày. Một người bạn cũ ở Ka-ra-sư hứa sẽ xin việc cho anh trong thời gian chờ cấp bằng lái xe mới. Thế là bố con anh lại lên đường.
Hành trình của Xô-cô-lốp thật gian nan: anh phải đi bộ rất xa, từ vùng này sang vùng khác. Song anh không nản chí. Chú bé Va-ni-a lúc khỏe thì chạy tung tăng bên bố, lúc mỏi chân thì được bố cõng trên lưng hoặc cho ngồi lên vai, cứ như thế suốt hàng trăm dặm đường. Những lời tâm sự chân thành của Xô-cô-lốp khiến chúng ta hiểu sâu hơn về tính cách đáng quý và càng thêm cảm phục anh : …tất cả những điều ấy cũng chẳng sao, miễn là bố con chúng tôi sống được ; nhưng mà quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… Có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi. Tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn làm cho con trai tôi phải khiếp sợ. Lại còn thêm một nỗi khổ này nữa: hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân đã quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia… Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra thì vợ con lại rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất… Và đây là một điều rất kì lạ : ban ngày bao giờ tôi cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt. Những giọt nước mắt nóng hổi và mặn chát đau thương của Xô-cô-lốp quả đã làm rung động, thổn thức trái tim người đọc.
Kết thúc truyện ngắn Số phận con người là hình ảnh : Chú bẻ chạy tới, đứng bên phải bố, túm lấy vạt áo bông của bố, chạy lon ton cho kịp bước sải dài của người lớn. Hình ảnh ấy khơi dậy trong lòng tác giả một cảm xúc khó tả, một suy ngẫm sâu xa : Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước ? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chủ bé kia một khi lởn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.
Tình cảm chân thành và sự thấu hiểu đến mức hóa thân vào nhân vật của nhà vốn Sô-lô-khốp đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Vì thế nên tuy hình thức là một truyện ngắn nhưng nội dung ý nghĩa của nó lại mang tầm cỡ của một sử thi. Với truyện ngắn nổi tiếng này, Sô-lô-khốp một lần nữa khám phá và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người Nga : dũng cảm, hào hiệp và nhân hậu, vị tha. Đồng thời khẳng định: Sức mạnh của lòng nhân ái giúp con người vượt lên số phận bất hạnh để sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 10
Đề tài về sự đau thương, mất mát của chiến tranh được nhiều độc tác giả lựa chọn để sáng tạo, nhưng chưa mấy ai quan tâm đến cuộc sống của những con người ấy sau chiến tranh như thế nào. Nắm bắt được sự cần thiết phải có những tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội của sau chiến tranh nhà văn Sô Lô Khốp viết nên truyện ngắn “số phận con người” với nhân vật chính là Xô-cô-lốp, một người có những đức tính khiến ai cũng phải tôn trọng.
Sô Lô Khốp đã khắc họa tính cách và phẩm chất của một con người anh hùng, kiên cường, một phẩm chất tốt đẹp của người dân Nga, có thể nói cuộc đời của Xô-cô-lốp gắn liền với những thăng trầm, biến cố của lịch sử nước Nga. Nhắc tới chiến tranh là nhắc tới những nỗi đau, những mất mát về cả vật chất và tinh thần, Sô Lô Khốp không hề né tránh sự đau thương đó mà ông khắc họa nó trên chính cơ thể của những người lính sau ngày trở về. Tuy nhiên ông viết một cách đầy chân thật chứ không dùng những lời lẽ hay giọng điệu chua chát, cay đắng để nói về cái thực tế sau chiến tranh. Nhà văn không hề sử dụng những thủ pháp nghệ thuật phô trương, phóng đại hay là bi hài mà vẫn vạch trần được tội ác của chiến tranh và những đau thương mà những người ra đi và ở lại đều phải gánh chịu.
Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh chính quyền của nước Nga còn quá non trẻ, chưa đủ nhiều kinh nghiệm để gánh vác những sự kiện hệ trọng của quốc gia, mà còn phải đối mặt với rất nhiều kẻ thù. Nhưng đổi lại họ lại có những con người như Xô-cô-lốp, một con người đại diện cho ý chí quật cường của người dân Xô viết, anh từng làm rất nhiều nghề khác nhau để sinh sống, ngay cả đi làm thuê, chứng kiến quá nhiều hoàn cảnh khác nhau và số phận đau thương đã phải bỏ mạng vì chết đói. Chính vì điều này anh đã đầu quân tham gia vào hồng quân Liên Xô.
Khi phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô thì đứng trước tình hình đó, hàng triệu người dân Xô Viết yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Chứng tỏ rằng chỉ cần đất nước bị kẻ thù xâm lược và tìm cách chiếm đoạt thì lúc đó tinh thần yêu nước mới được phát huy một cách triệt để nhất. Và Xô-cô-lốp, cũng tham gia trong cuộc chiến đó và dĩ nhiên anh đã không tránh khỏi thương tích: hai lần anh bị thương ở vào chân và tay mà những vết thương ấy đâu chỉ ngày một ngày hai là hết mà nó theo anh đến hết cả cuộc đời. Nó không chỉ là vết thương về thể xác mà còn động tới tâm hồn, nỗi nhục, sự căm thù khi bị chúng tra tấn. Không những thế anh còn bị bắt đi đày khổ sai và tra tấn hành hạ một cách dã man diễn ra trong thời gian dài, chúng cho anh ăn những đồ tồi tệ nhất mà đó không phải là thức ăn dành cho con người: súp thì lõng bõng còn bánh mì thì lẫn cả mạt cưa. Cảnh thiếu thốn về vật chất cũng như nỗi đau thể xác đang hành hạ anh cũng chính là hoàn cảnh chung của những người con dân Xô Viết khi bị phát xít tra tấn và đày đọa.
Sau khi chiến tranh kết thúc, thiệt hại về người và của là không thể tưởng tượng được. Hàng triệu thành phố làng mạc của đất nước Xô Viết bị phá đổ, con người chết hàng triệu, chưa thống kê được hết mà trong số đó có vợ và con của xocolop và cha mẹ của bé vania. Những con người đấy, sau chính tranh, họ không còn nhà để ở, gia đình để nương tựa chính vì thế họ đã sát cánh bên nhau, che chở cho nhau, cùng nhau sưởi ấm qua cái mùa đông giá rét bằng tình yêu và hơi ấm của cơ thể. Dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng nỗi đau trong tâm hồn của Xô Cô Lốp vẫn vẹn nguyên, mỗi khi nhớ về vợ và con lòng anh lại nhói đau nhưng anh vẫn cố gắng để sống giống như cha Vania vậy.
Điều tuyệt vời nhất mà anh có được sau cuộc chiến là anh sống với những giấc mơ của những người lính hồng quân Liên Xô. Phải thật dũng cảm và có lòng quyết tâm lắm người ta mới có thể vượt lên nỗi đau, nỗi đau mất đi gia đình, nhưng cũng giống như bao nhiêu người đàn ông khác, nỗi đau ấy của anh bị trỗi dậy khi men rượu làm anh lại phải nhớ, nó cứ hiện diện trước mắt anh, làm anh không sao có thể quên đi được. Chiến tranh không có mắt, chỉ có những người gây nên chiến tranh mới là người có lỗi, hậu quả ấy để lại không thể nào nguôi ngoai, nhưng tác giả dường như không để cho khán giả phải trải qua hết bi thảm này đến bi kịch kia để con người thấy cuộc sống vô nghĩa, mà ông đặt nhân vật và bé Vania gặp nhau như một định mệnh, định mệnh của người cùng cảnh ngộ, họ hiểu và thông cảm, thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau.
Nhưng thật sự điều đó không thể nào Xô Cô Lốp quên đi mất máy, đau thương, nỗi đau ấy vẫn hiện diện, làm cho con người mà chúng ta thấy hãnh diện kia vẫn cứ bị tình cảm gia đình lấn át, ai cũng thế mà thôi, điều đó không ai trách ông, chỉ có ông dễ dàng quên đi thì ta mới thấy giận chứ ông còn nhớ nghĩa là ông vẫn luôn nhớ thương da diết và gia đình của mình, về quê hương, về đất nước mà ông đang sống, hai con người ấy đến với nhau thật hợp tình hợp lý, đã đến lúc họ phải tiếp tục hành trình mới cho mình, những khó khăn và thách thức mới đang ở phía trước chờ đợi họ.
Như vậy, ta có thể thấy rằng qua “số phận con người” của nhà văn Xô lô khốp nhân vật Xô Cô lốp hiện lên tiêu biểu cho số phận của người lính Nga nói riêng và số phận của người nhân dân Nga nói chung sau chiến tranh. Sau những ngày kinh hoàng ấy họ sống với nỗi đau mất mát gia đình và trở thành ám ảnh. Và những con người ấy định mệnh đã đưa họ đến với nhau để lấp đầy những khoảng trống trong con người họ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 2
Nhà văn Sô-lô-khốp tên họ đầy đủ là Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp. Ông sinh năm 1905 tại thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a, tỉnh Rô-xtốp thuộc vùng Sông Đông, Liên Xô (cũ). Thời trẻ, ông đã phải trải qua rất nhiều nghề lao động vất vả để kiếm sống. Vượt lên khó khăn, thử thách, Sô-lô-khốp tự học, tự đọc rất chuyên cần và bắt tay vào sáng tác với ước nguyện sẽ đưa hình ảnh quê hương, đất nước và con người thân yêu vào trong tác phẩm của mình.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Sô-lô-khốp gắn liền với các sự kiện lịch sử lớn lao, trọng đại trong cuộc chiến tranh vệ quốc đau thương và oanh liệt của nước Nga Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Với những tác phẩm nổi tiếng như tiểu thuyết Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, truyện ngắn Số phận con người…, năm 1965, Sô-lô-khốp vinh dự được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học và được đánh giá là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỉ XX của nước Nga và thế giới.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc bằng chiến thắng vẻ vang của Hồng quân Liên Xô trong trận tiến công vào tận sào huyệt phát xít Đức ở Béc-lin. Sự mất mát, hi sinh to lớn của nước Nga Xô viết đã giúp nhân loại thoát khỏi hiểm họa phát xít đáng ghê tởm. Hòa bình lập lại, nhân dân Nga hối hả bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các chiến sĩ Hồng quân giải ngũ trở về với cuộc sống lao động bình thường. Nhưng mọi điều đều không dễ dàng.
Bao gian khổ, khó khăn trên con đường đi tới tiếp tục thử thách lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực của họ. Nhà văn Sô-lô-khốp cảm phục trước sức mạnh tinh thần của nhân dân Nga trong thời hậu chiến, trăn trở trước số phận và tương lai của con người nên đã sáng tác truyện ngắn Số phận con người. Có thể nói đây là tác phẩm hiện thực xuất sắc đầu tiên xuất hiện sau chiến tranh mà tác giả dám nhìn thẳng vào những vấn đề gai góc, nan giải của cuộc sống, của những số phận bất hạnh, để từ đó ca ngợi và tôn vinh phẩm chất kiên cường, nhân hậu của nhân dân Nga mà ông hết lòng yêu mến và trân trọng.
Nhân vật chính của truyện là Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân trực tiếp tham gia chiến đấu chống phát xít Đức và đã trải qua hai năm khủng khiếp trong trại tù binh của quân thù. Nhờ dũng cảm, mưu trí, anh đã bắt sống tên thiếu tá Đức, cướp xe vận tải rồi tìm cách chạy về phía quân ta. Đến lúc này anh mới biết tin vợ và hai đứa con gái nhỏ đã bị chết trong một trận máy bay Đức ném bom quê anh năm 1942. Con trai lớn của anh cũng tham gia trận tấn công vào Béc-lin và đã bị kẻ thù sát hại đúng vào ngày chiến thắng.
Số phận Xô-cô-lốp thật bất hạnh. Hòa bình rồi nhưng anh không thể trở về quê hương vì không còn ai là người thân. Anh sống phiêu bạt nay đây mai đó với cuộc sống bấp bênh và những cơn ác mộng kinh hoàng khiến trái tim anh luôn rỉ máu. Đoan trích nằm ở cuối tác phẩm, kể về chuyện Xô-cô-lốp nhận chú bé mồ côi Va-ni-a làm con nuôi. Tình yêu thương con người đã sưởi ấm trái tim anh, khiến cho anh có thêm sức mạnh vượt qua những bất hạnh của số phận và tiếp tục tin yêu cuộc sống.
Đúng như tên gọi của tác phẩm là Số phận con người, nhà văn Sô-lô-khốp dường như bám sát những diễn biến trong cuộc sống của nhân vật Xô-cô-lốp và luôn đặt anh vào những tình huống bất thường để bộc lộ tính cách. Điều bất hạnh lớn nhất mà Xô-cô-lốp phải đối đầu trong cuộc sống hòa bình là anh đã mất tất cả những người thân yêu, mất niềm hi vọng sum họp gia đình sau bao ngày chiến tranh ác liệt, luôn cận kề với cái chết. Anh không muốn trở về quê hương vì sợ không chịu nổi sự nhức nhối, day dứt do bao nhiêu kỉ niệm êm đẹp gợi lên trong tâm trí. Lang thang nơi đất khách quê người, anh chỉ còn nguồn an ủi duy nhất là vợ chồng người bạn chiến đấu cũ, nay cũng phải lăn lộn vất vả mưu sinh. Xô-cô-lốp ở nhờ nhà họ và được bạn xin cho một chân lái xe chở hàng trong đội vận tải. Công việc hằng ngày của anh là chở hàng hóa từ thành phố về các huyện.
Sự thiếu thốn về vật chất cộng với nỗi đau tinh thần không thể nguôi ngoai khiến sức khỏe của anh ngày một yếu đi. Anh chẳng có thú vui gì ngoài thói quen uống rượu : Thường cứ chạy xe xong trở về thành phố, việc đầu tiên cũng dễ hiểu thôi, là tôi vào hiệu giải khát, nhấm nháp chút gì đó và tất nhiên có uống một li rượu lừ người… Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy… Xô-cô-lốp cố dùng rượu để giải sầu nhưng nỗi sầu chẳng hề vơi mà cứ kết lại thành hình thành khối nặng trĩu trong lòng. Điều đó thể hiện tâm trạng đau đớn, bế tắc và tuyệt vọng của anh.
Ngẫu nhiên, cũng chính ở cái hiệu giải khát ấy, anh đã để ý tới chú bé mồ côi Va-ni-a : Thế rồi một hôm, tôi thấy chú bé ấy ở gần cửa hàng giải khát, hôm sau vẫn lại thấy… Cái dáng vẻ bên ngoài khốn khổ của chú bé đập vào mắt anh, khơi dậy tình cảm xót thương: …thằng bé rách bươm xơ mướp. Mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mắt – cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó vô tình khiến anh nhớ lại đứa con trai kháu khỉnh, thông minh mà anh hết lòng yêu thương và kì vọng. Anh thú nhận: Tôi thích nó, và lạ thật, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe cho nhanh để được về gặp nó.
Có lẽ sự thiếu thốn tình cảm gia đình và khao khát có được người thân bên cạnh là nguyên nhân của cảm giác ấy. Xô-cô-lốp cảm thấy ấm lòng khi nhìn thấy chú bé, nghĩ về chú bé. Lòng nhân hậu đã làm sống lại tình phụ từ thiêng liêng trong anh. Trái tim anh tưởng chừng đã bị nỗi đau đớn ghê gớm làm cho chai đá thì giờ đây lại ấm nóng và đập những nhịp rộn ràng. Nghe bé Va-ni-a thở dài, trong lòng anh trào lên nỗi xót thương vô hạn : Một con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư ? Đấy đâu phải việc của nó.
Anh chủ động làm quen với chú bé tội nghiệp và qua trò chuyện, anh biết chủ bé cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc: Tôi hỏi: “Bố cháu đâu hả Va-ni-a ?” Nó rỉ tai: “Chết ở mặt trận.” – “Thế mẹ cháu ?” – “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu.” – “Thế cháu từ đâu đến ?” – *Cháu không biết, không nhớ,..” – “ Thế ở đây cháu không có ai là bà con thân thuộc à ?”. – “Không có ai cả.” – “Thế đêm cháu ngủ ở đâu” – “Bạ đâu ngủ đó”. Nghe cái giọng non nớt, tội nghiệp của cậu bé, Xô-cô-lốp xúc động không sao cầm được nước mắt: Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, và lập tức tôi quyết định : “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con.” Những giọt nước mắt của Xô-cô-lốp, người chiến binh dạn dày trận mạc, vào sống ra chết trong chiến tranh có ý nghĩa nhân văn sâu xa. Nó thể hiện nỗi đau tột cùng không thể thốt nên lời; đồng thời tố cáo chiến tranh phi nghĩa và tội ác của kẻ thù gieo rắc đau thương, tang tóc cho con người và đất nước Nga thân yêu của anh.
Quyết định bất ngờ của Xô-cô-lốp bắt nguồn từ lòng nhân hậu vốn có của người Nga. Riêng đối với anh, đây là quyết định hoàn toàn đúng đắn bởi trái tim nhạy cảm của anh thấu hiểu nỗi cô độc của kẻ không gia đình, không nhà cửa, không quê hương, sống trơ trọi giữa cuộc đời gian nan và đầy bất trắc. Đoạn văn tả cảnh Xô-cô-lốp đưa chú bé lên xe và chuyện trò với nó trong buồng lái thật tự nhiên và cảm động: Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên. Tôi cúi xuống bên nó khẽ hỏi: ” Va-niu-ska, có biết ta là ai không nào ?”. Nó hỏi lại nghẹn ngào : “ Thế chú là ai ?” Tôi nói lại cũng khẽ như thế : ” Ta là bố của con !”. Trời ơi ! Thật không thể tưởng tượng được. Nó nhảy chồm lên cổ tôi rồi hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái: “Bố yêu của con ơi ! Con biết mà ! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà ! Thế nào cũng tìm thấy mà ! Con chờ mãi mong được gặp bố”. Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió. Còn mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy… Lòng yêu thương quả là có sức mạnh diệu kì làm tái sinh, thay đổi hẳn con người, đem lại niềm vui sống.
Tâm hồn Xô-cô-lốp và Va-ni-a đều đang khao khát được sưởi ấm, được yêu thương, chia sẻ. Dường như có một sự sắp đặt kì diệu nào đó đưa đẩy hai con người bất hạnh đến với nhau. Va-ni-a tin rằng người đàn ông với thái độ cử chỉ đầy bao dung, che chở này chính là bố đẻ của mình. Còn Xô-cô-lốp thực lòng yêu thương và chăm sóc chú bé Va-ni-a như con đẻ. Anh thương xót, lo lắng cho chú bé với tất cả sự quan tâm và trách nhiệm của một người cha. Anh tắm rửa cho chú bé sạch sẽ, đặt lên giường ngủ rồi chạy vội ra cửa hàng tạp hóa mua quần áo, mũ và dép cho con trai mới. Xô-cô-lốp làm tất cà những việc đó với niềm vui khó tả. Những dòng nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật Xô-cô-lốp trong đêm đầu tiên ngủ cùng chú bé Va-ni-a thật tinh tế và làm thổn thức trái tim người đọc : Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sao bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Nhưng trong đêm cũng phải dậy đến vài bốn bận. Tôi thức giấc, thấy nó rúc vào nách tôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết ! Tôi không dám trở mình để nó khỏi thức giấc, nhưng rồi không nén được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ…
Xô-cô-lốp không giấu sự vất vả, khó khăn trong những ngày đầu nhận nuôi chú bé Va-ni-a. Nó đòi hỏi ở anh lòng kiên nhẫn, đức vị tha, tình yêu thương cùng trách nhiệm của người cha, người mẹ : Thời gian đầu, nó còn theo tôi trong các chuyến xe, nhưng rồi tôi hiểu ra rằng như thế không có lợi. Chỉ một mình tôi thì có cần gì đâu ? Một mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm nó thì khác : Khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức ăn nóng cho nó là không xong… Tuy nhiên, chú bé Va-ni-a dễ thương gợi cho Xô-cô-lốp nhớ tới đứa con trai mà anh yêu quý và điều đó đã bù đắp cho anh tất cả.
Điều quan trọng hơn là Xô-cô-lốp luôn cố gắng tạo ra cho chú bé mồ côi một niềm vui, một nguồn an ủi và tin tưởng vào anh – người mà nó tưởng là bố. Cho nên mỗi khi bất ngờ chú bẻ hỏi anh về một thứ gì đó như cái áo bành tô bằng da mà trước đây bố nó hay mặc thì anh phải tìm cách trả lời sao cho êm xuôi để Va-ni-a không nghi ngờ. Anh không muốn làm tổn thương trái tim non nớt của chú bé tội nghiệp. Đó cũng là biểu hiện rất tự nhiên của tấm lòng nhân hậu.
Cuộc đời của hai bố con Xô-cô-lốp tưởng chừng cứ thế trôi qua trong yên bình, nhưng số phận bất hạnh chưa buông tha anh. Đến tháng mười một thì Xô-cô-lốp gặp chuyện rủi ro : Xe anh đụng phải chân một con bò đi ngang đường. Con bò chẳng làm sao nhưng người chủ của nó vẫn làm ầm ĩ nên Xô-cô-lốp bị nhân viên kiểm soát giao thông thu hồi bằng lái. Anh mất việc, phải đi làm thợ mộc kiếm sống qua ngày. Một người bạn cũ ở Ka-ra-sư hứa sẽ xin việc cho anh trong thời gian chờ cấp bằng lái xe mới. Thế là bố con anh lại lên đường.
Hành trình của Xô-cô-lốp thật gian nan: anh phải đi bộ rất xa, từ vùng này sang vùng khác. Song anh không nản chí. Chú bé Va-ni-a lúc khỏe thì chạy tung tăng bên bố, lúc mỏi chân thì được bố cõng trên lưng hoặc cho ngồi lên vai, cứ như thế suốt hàng trăm dặm đường. Những lời tâm sự chân thành của Xô-cô-lốp khiến chúng ta hiểu sâu hơn về tính cách đáng quý và càng thêm cảm phục anh : …tất cả những điều ấy cũng chẳng sao, miễn là bố con chúng tôi sống được ; nhưng mà quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi… Có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi. Tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn làm cho con trai tôi phải khiếp sợ.
Lại còn thêm một nỗi khổ này nữa: hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân đã quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia… Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra thì vợ con lại rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất… Và đây là một điều rất kì lạ : ban ngày bao giờ tôi cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt. Những giọt nước mắt nóng hổi và mặn chát đau thương của Xô-cô-lốp quả đã làm rung động, thổn thức trái tim người đọc.
Kết thúc truyện ngắn Số phận con người là hình ảnh : Chú bẻ chạy tới, đứng bên phải bố, túm lấy vạt áo bông của bố, chạy lon ton cho kịp bước sải dài của người lớn. Hình ảnh ấy khơi dậy trong lòng tác giả một cảm xúc khó tả, một suy ngẫm sâu xa : Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước ? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chủ bé kia một khi lởn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.
Tình cảm chân thành và sự thấu hiểu đến mức hóa thân vào nhân vật của nhà vốn Sô-lô-khốp đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Vì thế nên tuy hình thức là một truyện ngắn nhưng nội dung ý nghĩa của nó lại mang tầm cỡ của một sử thi. Với truyện ngắn nổi tiếng này, Sô-lô-khốp một lần nữa khám phá và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người Nga : dũng cảm, hào hiệp và nhân hậu, vị tha. Đồng thời khẳng định: Sức mạnh của lòng nhân ái giúp con người vượt lên số phận bất hạnh để sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 7
Trong truyện “Số phận con người” của nhà văn Sôlôkhốp để cho thấy, nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô Viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái” – được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Hêminguây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại tôi thích Sôlôkhốp”. Là nhà văn Xô Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sôlôkhốp được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”.
“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhà văn Xôcôlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.
Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của nhân vật Xôcôlốp. Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xôcôlốp ra trận. Anh nếm trải những gian truận, thất bại buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều trại tập trung. Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xôcôlốp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không muốn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…
Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2 phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xôcôlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlốp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”
Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bõng. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xôcôlốp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”. Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xôcôlốp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món nguy hại ấy!”
Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cảm người cha, – tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xôcôlốp: “Là bố của con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”
Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xôcôlốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương lòng đâu dễ nguôi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xôcôlốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”. Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến.
Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xôcôlốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục. Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng quân Xôcôlôp, người đàn ông đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường.
M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xô viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại hào hùng của đất nước Liên Xô cũ. Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – không khoa trương hào nhoáng, không bi kịch hoá mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao người Nga: Xôcôlôp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua các thời kỳ khốc liệt nhất. Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây bút Nga – xô viết mà M. Sôlôkhôp chính là một tấm gương. Sự thật đó không phải được kể bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía, trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xô viết – chính là phản chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xô viết non trẻ phải đối mặt với lũ bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm. Nạn đói, cuộc sống cùng cực không quật ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xôcôlôp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy diệt của nó khiến cho Xôcôlôp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xôcôlôp mỗi lần tỉnh giấc lại đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt không thể rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản bội. Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh. Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alêcxây Tônxtôi với “Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”…
Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai. Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lòng căm thù sục sôi với kẻ đã hủy hoại hạnh phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lòng cũng có thể quị ngã. Có lẽ đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát. Bởi thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xô viết trở về sau chiến trận. Nỗi đau lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xôcôlôp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã. Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania.
Chú bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xôcôlôp với bé Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khô héo vì đau khổ. Nước mắt – hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu cợt để cho bố con Xôcôlôp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ phía trước.
Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lòng cảm phục vô hạn trước nhân cách một Con Người chân chính.
Bức thông điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao bi kịch bất hạnh. Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào con người, nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 9
Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng quân Xôcôlôp, người đàn ông đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường. M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xô viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.
Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – không khoa trương hào nhoáng, không bi kịch hoá mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao người Nga: Xôcôlôp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua các thời kỳ khốc liệt nhất. Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây bút Nga – xô viết mà M. Sôlôkhôp chính là một tấm gương. Sự thật đó không phải được kể bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía, trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xô viết – chính là phản chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xô viết non trẻ phải đối mặt với lũ bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm. Nạn đói, cuộc sống cùng cực không quật ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xôcôlôp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy diệt của nó khiến cho Xôcôlôp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xôcôlôp mỗi lần tỉnh giấc lại đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt không thể rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản bội. Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh.
Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alêcxây Tônxtôi với “Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai. Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lòng căm thù sục sôi với kẻ đã hủy hoại hạnh phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lòng cũng có thể quị ngã. Có lẽ đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát. Bởi thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xô viết trở về sau chiến trận. Nỗi đau lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xôcôlôp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã. Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania.
Chú bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xôcôlôp với bé Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khô héo vì đau khổ. Nước mắt – hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu cợt để cho bố con Xôcôlôp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ phía trước.
Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lòng cảm phục vô hạn trước nhân cách một Con Người chân chính. Bức thông điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao bi kịch bất hạnh.
Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào Con người Nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 3
Sô-lô-khốp nhà văn Nga lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1965. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, những bộ tiểu thuyết lớn và những truyện ngắn hay với cái nhìn chân thực về cuộc sống và chiến tranh. Số phận con người được sáng tác dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Liên Xô, khôi phục tinh thần dân chủ, chống sùng bái cá nhân và trong xu thế quan tâm đến số phận con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Sô – lô – khốp mang tinh thần thời đại rất rõ nét.
Xô-cô-lốp bị thương, anh bị bắt làm tù binh trong trại tập trung của phát xít Đức với những cực hình vô nhân đạo. Không chỉ vậy anh còn mất đi tất cả người thân, gia đình vì bom đạn phát xít: vợ và hai con gái. Đây có lẽ là nỗi đau đớn lớn nhất cuộc đời anh, những vết thương về thể xác có thể lành theo năm tháng, còn những mất mát, đau thương về tinh thần thì năm tháng cũng không thể chữa lành. Và niềm an ủi duy nhất, cuối cùng cho tầm hồn đầy đau thương ấy là đứa con trai xuất sắc, là đại úy pháo binh, là học sinh học giỏi toán lại bị tên thiện xạ Đức bắn trúng ngay trong khoảnh khắc chiến thắng. Anh phải chôn niềm hi vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Bước ra khỏi cuộc chiến, anh không còn lấy một người thân ở bên cạnh, nỗi cô đơn, trống trải, hụt hẫng bủa vây lấy người đàn ông này.
Bởi vì quá đau thương, anh không dám trở về quê hương. Mảnh đất quê hương gắn với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của anh và gia đình, nếu anh trở về đó, từng mảnh kí ức ùa về, có lẽ anh sẽ không thể sống nổi. Chính vì vậy Xô-cô-lốp lựa chọn cách đến ở nhờ nhà bạn, để vợi bớt nỗi đau đớn và u buồn. Tại đây anh làm nghề lái xe để mưu sinh và trong những ngày đó anh bắt đầu nghiện rượu, anh tìm đến rượu để quên đi quá khứ, chạy trốn những kí ức đeo bám anh. Nhưng anh càng chạy trốn, càng tìm đến rượu thì quá khứ càng ám ảnh anh bấy nhiêu. Sau đó Xô-cô-lốp bị mất bằng lái, anh thất nghiệp nên đã di chuyển đến một vùng đất khác để sinh sống. Những vết tích mà chiến tranh để lại đã hằn in trên đôi mắt màu tro đượm buồn của anh.
Bé Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh khác, bố mẹ em chết vì bom đạn phát-xít. Va-ni-a trở thành một đứa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, em sống lang thang trên đường phố, cuộc sống hết sức cơ cực “bạ đâu ngủ đấy, ai cho gì thì ăn nấy”. Cả Va-ni-a và Xô-cô-lốp đều là những nạn nhân của chiến tranh phát-xít, họ bị mất gia đình, người thân, sống cuộc đời cô đơn, trơ trọi, nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực họ sẽ bị cuộc đời vùi dập.
Số phận đau thương, bất hạnh đã khiến cho hai con người người ấy gặp nhau, bằng tình yêu thương Xô-cô-lốp đã quyết định nhận bé Va-ni-a làm con. Xô-cô-lốp mang hạnh phúc vô bờ bến cho bé Va-ni-a. Em “nhảy chồm lên cổ, hôn vào má vào môi vào trán, như con chim chích hót ríu rít líu lo vang rội cả buồng lái…”. Quyết định ấy không chỉ mang lại niềm vui cho bé Va-ni-a mà còn đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho Xô-cô-lốp, sau biết bao nhiêu năm lấy rượu để quên đi, để chìm vào giấc ngủ, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm anh được ngủ một cách ngon lành… Bằng tình yêu thương, hai con người bị khuyết thiếu tình yêu thương ấy đã bù đắp, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Anh luôn quan tâm, dành tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc cho Va-ni-a: lấy xà phòng rửa tay trước khi đặt ngồi vào bàn ăn, đưa tới hiệu cắt tóc tắm rửa, chạy ra cửa hàng tạp hóa mua một chiếc quần dạ vào lúc trời đang rất nóng… Bởi khi mang hạnh phúc đến cho Va-ni-a cũng chính là mang lại hạnh phúc cho chính anh.
Không chỉ tình yêu thương, mà cả nghị lực kiên cường đã giúp Xô-cô-lốp vượt lên số phận đầy đau thương của mình. Gia đình anh đều bị bom đạn phát xít cướp mất tính mạng, chỉ con một mình anh cô độc trong cuộc đời, trái tim đã dần trở nên yếu đuối, chán nản, có những lúc tưởng như bỏ cuộc. Sức khỏe của anh ngày một đi xuống, con tim bỗng nhiên nhói lên, thắt lại giữa ban ngày, khiến anh tối sầm mặt lại. Anh lo lắng rồi một ngày không xa cái chết sẽ đến và anh còn lo hơn cho bé Va-ni-a, anh chết, bé sẽ rơi vào cảnh cô đơn, lang thang, điều này còn làm anh lo lắng gấp bội. Không chỉ vậy, những ám ảnh quá khứ vẫn đeo bám anh, dù đã cố gắng nhưng nó vẫn lẩn khuất hiện về.
Hầu như đêm nào anh cũng gặp lại những giấc chiêm bao về vợ con. Tuy nhiên luôn phải giấu diếm, che đậy nỗi đau, không muốn để Va-ni-a nhìn thấy mình khóc, để giữ niềm vui trọn vẹn cho Va-ni-a. Ý chí nghị lực của anh còn thể hiện trong lần anh mất bằng lái, thay vì chán nản, bi quan, than vãn, đổ lỗi cho số phận, anh lại mang đứa con trai của anh đến những vùng đất mới để giải quyết việc trước mắt là mưu sinh bằng nghề nghiệp khác, và cũng là để quên đi nỗi đau quá khứ. Ý chí nghị lực đã giúp anh vượt qua nỗi đau, những trớ trêu của số phận để tiếp tục sống, nuôi dưỡng bé Va-ni-a trưởng thành. Ý chí nghị lực của anh cũng chính là bản tính tiêu biểu của con người Nga.
Tác phẩm dùng lối kể truyện, truyện lồng trong truyện vô cùng đặc sắc. Giúp cho câu chuyện vừa chân thật, vừa dạt dào tình cảm. Đặc biệt với mỗi lối kể sẽ đem đến những hiểu quả khác nhau. Khi Xô-cô-lốp kể chuyện giọng điệu, ngôn ngữ sẽ nương theo đặc điểm của người lính, người lái xe, giúp cho nhân vật hiện lên sinh động, tự nhiên hơn. Khi chọn ngôi kể là tác giả câu chuyện sẽ được thuật lại khách quan, chân thực hơn.
Dù chỉ là trích đoạn nằm ở cuối tác phẩm nhưng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả. Sô-lô-cốp kêu gọi, nhắc nhở sự quan tâm cả toàn xã hội đối với những cá nhân, những số phận con người như Xô-cô-lốp đã hi sinh tất cả để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Đồng thời lên án bão tố chiến tranh phi nghĩa với sức mạnh phũ phàng của nó và nó vẫn có ý nghĩa thời sự tới tận ngày nay.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 8
Mi-khai-in Sô-lô-khốp (1905 – 1984), nhà văn Nga được Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965 và được coi là một trong số các nhà văn lớn nhất thế giới thế kỉ XX. Sức mạnh nghệ thuật của tác phẩm Sô-lô-khốp tập trung ở chỗ: ông đã trình bày những sự thật vĩ đại, hoành tráng mà cũng đầy khắc nghiệt và cay đắng của cuộc cách mạng vô sản, của cuộc chiến tranh giữ nước, của cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết. Chính sự thật đó đã chinh phục hàng triệu độc giả vì nó được viết ra với mục đích cao cả : “Nói với con người sự thật, đôi khi khắc nghiệt, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người niềm tin ở tương lai… Tôi mong muốn tác phẩm của mình giúp cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tính tình yêu đối với con người, khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người” (Lời phát biểu trong lễ trao Giải Nô-ben, năm 1965).
Truyện ngắn Số phận con người (1957) chứa dựng tầm khái quát sử thi với dung lượng hiện thực và tư tưởng sâu rộng, lớn lao, kết tinh những dồn nén, suy tư của nhà văn về chiến tranh, về số phận và sức mạnh tinh thần của con người, về tính cách Nga. Tác phẩm là câu chuyện về một con người bị số phận khắc nghiệt nhấn xuống chìm nghỉm đã kiên cường đứng vững bằng tình yêu thương và lòng dũng cảm, đã gieo vào lòng người đọc niềm tin, hi vọng vào con người, vào cuộc sống sau bao đau thương, mất mát trong chiến tranh. Với nghệ thuật kể chuyện giản dị, ngắn gọn mà chứa đựng một chiều sâu hiện thực và tâm lí nhân vật, truyện ngắn đã tác động mạnh mẽ, sâu xa, đầy cảm động tới trí tuệ và trái tim người đọc.
Cuộc đời nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp phản chiếu một trang sử hào hùng, bất khuất mà cũng thấm đẫm nước mắt của đất nước và con người Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống phát xít Đức. Số phận bình thường của anh không tách rời số phận lịch sử của đất nước và nhân dân với tất cả hào quang chiến thắng và gánh nặng của thương đau. Đoạn trích kể về đoạn đời sau chiến tranh của Xô-cô-lốp. Hoàn toàn trơ trọi trên cõi đời, tại một thành phố xa lạ, Xô-cô-lốp gặp bé Va-ni-a cũng lang thang, cô độc như chính mình. Tình thương trỗi dậy, Xô-cô-lốp nhận cậu bé làm con nuôi và dồn sức lo lắng trông nom em.
Số phận, là từ chỉ phần hoạ phúc, sướng khổ, thường là hoạ nhiều hơn phúc, dành riêng cho cuộc đời mỗi người ngoài ý muốn của họ. Chiến tranh đã tạo nên bao số phận bất hạnh, khổ đau. Chiến tranh nổ ra, Xô-cô-lốp từ biệt vợ con ra trận. Sau một năm chiến đấu và bị thương, anh bị bắt làm tù binh. Trải bao khổ cực trong tù, Xô-cô-lốp vẫn giữ vững khí phách anh hùng của người lính Xô viết. Gặp dịp may được lái xe cho bọn Đức, anh trốn thoát, về hậu phương, anh mới biết tin vợ và hai con đã chết vì bom từ hai năm trước. Con trai lớn của anh cũng là một chiến sĩ Hồng quân, nhưng đã hi sinh đúng ngày chiến thắng trên đất Đức. Chắc chắn số phận buồn đau không chi lựa chọn một mình Xô-cô-lốp mà còn vùi dập bao người. Chiến tranh đã tước đoạt tất cả những gì quý giá nhất của họ : quê hương, gia đình, tình thương yêu, niềm hi vọng. Hết chiến tranh, trước mặt họ là khoảng không trống rỗng, khủng khiếp : không nhà cửa, không vợ con, không niềm hi vọng. Từng bị hành hạ vô cùng dã man trong lao tù của phát xít Đức, Xô-cô-lốp vẫn kiên cường đứng vững.
Nhưng giờ đây, chạm mặt với sự thật tàn nhẫn nhất : chôn trên đất người, đất Đức niềm vui sướng và hi vọng cuối cùng, tinh thần và thể chất dường như đổ sụp, anh trở nên như người mất hồn, trong anh như có cái gì vỡ tung ra. Dường như anh đã phải uống trọn nỗi đau cùng cực của kiếp người. Xô-cô-lốp không dám về thành phố quê hương, Vô-rô-nhe-giơ. Có lẽ nơi ấy giữ quá nhiều kỉ niệm êm đềm về gia đình, vợ con, mà bây giờ anh không dám đối mặt. Anh gần trở thành kẻ lang thang, ăn nhờ ở đậu, chìm vào rượu để trốn chạy quá khứ, tiêu sầu trong hiện tại. Nỗi buồn đau, mất mát in đậm trên gương mặt anh (cặp mắt nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm khiến người khác không dám nhìn thẳng vào), vò xé trái tim anh (trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ), tàn phá sức khoẻ anh (quả tim tôi đã rệu rã lắm rồi… có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn…).
Chiến tranh không chỉ nhấn chìm con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp mà ngay cả bé Va-ni-a thơ ngây mới bốn, năm tuổi, cũng vì chiến tranh (bố chết ở mặt trận, mẹ chết bom) mà trơ trọi, đói khát, lang thang (ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đấy, quần áo rách bươm như xơ mướp, bẩn như ma lem). Dù đang tuổi thơ dại nhưng chú bé cũng ý thức được nỗi bất hạnh của mình qua thái độ, đôi lúc lặng thinh, tư lự và những tiếng thở dài như khỉa vào tim Xô-cô-lốp.
Chiến tranh đã qua đi nhưng số phận vẫn tàn nhẫn với Xô-cô-lốp. Tâm hồn anh vẫn luôn bị giày vò bởi những kí ức ngày hôm qua. Cứ tưởng những gì yêu quý nhất đã mãi mãi mất đi là nỗi khổ đau nhất, vậy mà kí ức về nó lại là những vết thương nhức nhối, không ngừng rỉ máu trong hiện tại. Xô-cô-lốp nhiều đêm không ngủ : hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố. Trong giấc chiêm bao của hiện tại, cũng như ngày xưa trong nhà tù phát xít, anh luôn mơ thấy mình trò chuyện với vợ con qua hàng rào dây thép gai. Cái hàng rào như ranh giới vĩnh viễn ngãn cách hai cõi đời tự do và tù đày, sống và chết, tồn tại và hư vô, mà trước đây cũng như bây giờ anh khống bao giờ vượt qua được.
Và điều rất kì lạ này, chính Xô-cô-lôp cùng phải thú nhận là kì lạ : ban ngày bao giờ anh cũng trăn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt dẫm nước mắt. Ta bàng hoàng vì những lời thú nhận đau đớn, về những giọt nước mắt cứa con người từng trải và dày dặn như Xô-cô-lôp. Thời gian không thể chữa lành vết thương trong trái tim anh. Ban ngày, nhờ nghị lực và lòng dũng cảm, Xô-cô-lôp vẫn giữ được bình tĩnh. Còn những giọt nước mắt âm thầm, vô thức chảy trong đêm diễn tả nỗi dau lẩn sâu vào từng nếp gấp của trái tim anh, trái tim mang những buổn thương mà ý chí cũng không sao xoá mờ, không tài nào kiểm soát nổi. Có nghĩa là, quá khứ không hé mất đi mà trở thành nỗi dớn dau mãi mãi làm nhức nhối tâm hồn Xô-cô-lốp.
Đâu chỉ mình Xô-cô-lốp đã từng khắc khoải chờ mong ngày hội ngộ với gia đình. Va-ni-a bé bỏng cũng thổ lộ với bố Xô-cô-lốp : Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà ! Thế nào cũng tim thấy mà ! Con chờ mãi mong được gặp bố ! Dù biết bố đã hi sinh ở mặt trận, nhưng Va-ni-a vẫn mãi mãi trông ngày gặp bố. Và đâu chỉ mình Xô-cô-lốp bị quá khứ ám ảnh, giày vò, kí ức thơ dại của Va-ni-a cũng đôi lúc trở về, thỉnh thoáng lại vụt sáng như quầng sáng mùa hạ, soi sáng tất cá trong chốc lát rồi vụt tát. Điều đó bộc lộ bằng những câu hỏi bất ngờ của Va-ni-a : Bố ơi, cái áo bành tô bằng da của bố đâu rồi ?… Thế tại sao bố lại tìm con lâu thế ?,… Điều đó khiến Xô-cô-lốp lo ngại, bới những kí ức ấy rất có thể sẽ lại là những vết thương, một ám ảnh buồn đau sống mãi trong tám hồn Va-ni-a nếu em nhớ lại sự thực và ý thức được chính xác thân phận mình.
Những niềm đau kí ức như thế mãi mãi còn loé sáng, làm đau đớn đời sống tinh thần hiện tại. Những hi sinh, mất mát do chiến tranh đem tới rõ ràng không thể chỉ tính trên phương diện vật chất mà phải đo bằng những vết thương mãi nhức nhối trong tâm hồn những người đi qua chiến tranh, kể cả trẻ thơ ! Nỗi buồn đau buộc hai bố con Xô-cô-lốp cuốc bộ khắp nước Nga : Nổi đau buồn không cho tôi ở lâu mãi một chỗ được. Họ lại trở thành kẻ lang thang ngay trên chính quê hương mình ! Xô-cô-lốp vẫn hi vọng một lúc nào đó, lòng anh nguôi bớt nỗi buồn. Nhưng có lẽ điều ấy mãi mãi vẫn chỉ là hi vọng.
Cỏ thể nói, đây là cái giá đăt nhất của chiến thắng : những đau khổ tột cùng do chiến tranh đem lại. Lên án chiến tranh, nhìn thẳng vào hi sinh, mất mát bên cạnh việc ngợi ca khí phách anh hùng của nhân dân xô viết là một cách nhìn mới về chiến tranh của Sô-lô-khôp. Đất nước Xô viết đã mất hai mươi triệu người trong cuộc chiến tranh này mà nỗi đau mênh mông ấy ở đây mới chỉ được tỏ bày qua hai số phận!
Trước nỗi đau số phận ấy, Xô-cô-lốp tìm đến lãng quên bằng rượu. Anh bắt đầu có thói quen vào quán làm một li rượu sau một ngày lao động cật lực : Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy. Lời tâm sự bộc lộ sự bế tắc và tuyệt vọng. Biết là nguy hại mà Xô-cô-lốp vẫn cứ lao vào. Dường như anh đã không thê tránh được lối mòn tự huỷ hoại được báo trước ấy. Nhưng khi gặp Va-ni-a, một số phận còn đáng thương hơn (bởi mới có bốn, năm tuổi mà em đã thành kẻ bơ vơ, trơ trọi bên lề cuộc đời) thì tình cảm và trách nhiệm của một người cha, tình thương mến trẻ thơ – một tình cảm bản năng của mọi tấm lòng trung hậu, đã thức dậy trong Xô-cô-lốp. Trái tim tưởng chừng hoàn toàn tan nát, chai sạn vì đau khổ của anh lại đập lại những nhịp đập xúc động, cảm thông, lại chứa chan tình thương yêu, niềm trắc ẩn.
Hình ảnh thằng bé mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mất cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm, làm anh thấy thích, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó. Cái nhìn thương mến trẻ thơ một cách tự nhiên, bột phát, bộc lộ qua cách anh vui vẻ làm quen với Va-ni-a, rủ chú bé đi ăn trưa với những lời lẽ giản dị. Nhạy cảm với nỗi đau trong trái tim bé bỏng cũa Va-ni-a, Xô-cô-lốp quyết định : Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được.
Điều đó có nghĩa là anh cũng tự ý thức rằng mình đang chìm nghịm với nỗi đau của mình bên cạnh một cuộc đời bất hạnh khác. Quyết định nhân ái đó đã thực sự nâng đỡ đời anh : Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng. Nhẹ nhõm và bừng sáng, những từ ấy không chỉ diễn tả phút giây hiện tại mà còn bộc lộ cả một thực trạng trước đó của hồn anh : u uất, tối sầm, nặng trĩu buồn đau. Tâm hồn anh trở nên nhẹ nhõm bới anh đã tìm được lẽ sống của mình : thương yêu, đùm bọc kẻ bất hạnh khác là liều thuốc giúp khuây khoả nỗi khổ của mình.
Niềm vui bất ngờ của tình cảm cha con không chỉ thổi luồng gió mới vào tâm hồn bé thơ của Va-ni-a, khiến cậu bé nhảy chồm chồm lên, ríu rít, líu lo vang rộn như con chim chích mà còn làm hồi sinh trái tim đã chai cứng vì đớn đau của Xô-cô-lốp : mắt mờ đi, hai tay lẩy bẩy, tôi thấy lòng vui không tài nào tả xiết, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Sức mạnh của tình thương đã sưởi ấm số phận của hai con người côi cút, hai hạt cát cô đơn bị bão tố chiến tranh thổi bạt.
Tình thương Va-ni-a đã cứu vớt linh hồn Xô-cô-lốp, giúp anh trở về với cuộc sống bình thường. Khi cậu bé hồn nhiên, tin cậy gọi anh là bố, quấn quýt lấy anh không rời và rúc vào nách anh như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, thì lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm anh mới được ngủ một giấc yên lành. Có Va-ni-a, anh đã lấy được phần nào bóng dáng cuộc sống gia đình : có trẻ thơ, trách nhiệm, niềm hi vọng, những gì tưởng đã mất hết trong chiến tranh. Một sinh linh bé bỏng ngây thơ là Va-ni-a lại là chỗ dựa tinh thần cho con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp. Quả là một nghịch lí, nhưng cuộc đời có biết bao điều kì lạ như vậy!
Nhận Va-ni-a làm con nuôi, Xô-cô-lốp tự nguyện gánh lấy những trách nhiệm nặng nề : săn sóc cái ăn, cái mặc, giấc ngủ, rồi mai đây còn việc học hành,… Những lo toan tỉ mỉ mà bàn tay đàn ông không thành thạo. Nhưng chính sự chăm sóc vụng về ấy (mua quần dạ giữa mùa hè, chỉ cho con ăn bánh mì và trứng,…) làm ta cảm động vì ẩn đằng sau đó là một tình thương chân thành, mộc mạc, gốc rễ của một tấm lòng nhân hậu sâu xa.
Nhưng điều khó khăn nhất đối với Xô-cô-lốp là gắng sao không làm tổn thương đến trái tim bé bỏng của Va-ni-a bằng cách giấu đi những sự thật về cuộc đời cậu bé và của chính mình. Sự thật ấy, khi lớn lên em sẽ biết, nhưng bây giờ em cần sống một cách hồn nhiên, không bị quá khứ ám ảnh. Xô-cô-lốp phải giấu đi những giọt nước mắt đàn ông nóng bỏng, hiếm hoi, những giọt nước mắt của con người bạc đầu vì chiến tranh để sống và nuôi nấng Va-ni-a. Nhờ nghị lực và trách nhiệm ấy, anh đã vượt lên những khúc mắc của đời sống hàng ngày, coi những rắc rối (như bị tước bằng lái xe một cách oan uổng) cũng chỉ là những điều vặt vãnh, không đáng bận tàm.
Hai số phận đau khổ dựa vào nhau, nâng đỡ nhau : Va-ni-a bé bỏng cần có bàn tay cứng cáp của Xô-cô-lốp cưu mang, chở che; còn Xô-cô-lốp, tình thương và trách nhiệm khiến anh bình tĩnh lại, cố đứng thẳng dậy, vươn mình vượt qua số phận, để trong anh thức dậy một niềm hi vọng lớn : làm việc và chờ đợi một ngày cháu Va-niu-ska lớn lên. Ẩn sâu trong con người Xô-cô-lốp là một tính cách Nga khiêm nhường mà quảng đại, dũng cảm mà nhân ái. Các hành vi của Xô-cô-lốp, từ lúc ở chiến trường, ở trại tù binh và trong hiện tại đều được chi phối bởi quan niệm đúng đắn về phẩm giá và trách nhiệm con người. Xô-cô-lốp từng khẳng định : anh là thằng đàn ông, anh là thằng lính chính là để chịu đựng hết mọi thứ, gánh vác hết mọi thứ khi cần thiết. Điều đó giúp anh ứng xử trong mọi trường hợp như một con người chân chính. Cuộc sống lao động, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, đồng đội đã giúp Xô-cô-lốp, dù chỉ là một người Nga bình thường, giản dị nhưng vẫn mang dáng vóc cao cả. Tinh thần dũng cảm và lòng nhân hậu, hai nét đặc biệt ấy đã giúp Xô-cô-lốp vượt qua thứ thách của số phận.
Hình ảnh cuối cùng của cha con Xô-cồ-lốp, một già, một trẻ, một dày dạn, một thơ ngây, cầm tay nhau đi trên con đường vạn dặm mà chưa biết đâu là bến đỗ cuối cùng, đã khiến trái tim nhạy cảm trước nỗi đau đồng loại của tác giả bị bóp nghẹt vì đau đớn, vì thương cảm cho cả hai số phận, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ. Bất chấp số phận khắc nghiệt, họ sẽ dựa vào nhau để sống. Có thể nói, con đường đời của Xô-cô-lốp là hình ảnh nhân dân Nga bất chấp đau thương của chiến tranh, quyết vươn lên để tồn tại và phát triển.
Trong truyện có hai người kể chuyện : người kể – nhân vật và người kể – tác giả. Sự luân phiên và bổ sung điểm nhìn trần thuật của hai nhân vật này giúp cho chất trữ tình nhân vật và chất trữ tình tác giả hoà quyện, làm tăng sức hấp dẫn của thiên truyện và niềm cảm thông của người đọc trước số phận con người. Với những lời lẽ giản dị, chân thành, người kể – nhân vật (Xô-cô-lốp) đã bộc lộ một tâm hồn đau khổ nhưng đầy cương nghị, dũng cảm. Trong lời tâm sự, anh vừa nói với người nghe, vừa nói với chính mình, vừa thuật kể, vừa tự phân tích những cảm giác của mình : Về đâu bây giờ? Chã nhẽ lại về Vô-rô-ne-giơ?
Không được! Tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết,… Anh chùn thành thú nhận những điều không phải ai cũng dễ bộc lộ: những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, ban đêm thức giấc thì gối ướt đấm nước mắt. Quá khứ và hiện tại đan cài trong những lời tâm sự. Đặc biệt, chính những sự thật về cuộc đời, về trạng thái tâm hồn, về những nghĩ suy và tình cảm được miêu tả qua lời kể, lời phân trần, bộc bạch của Xô-cô-lốp lại có sức lôi cuốn mạnh mẽ, sâu xa. Chất trữ tình man mác, sâu lắng bao trùm câu chuyện kể.
Còn lời kể của tác giả? Ở đây chất trữ tình, tính chính luận hoà quyện làm lời văn tràn đầy âm hưởng bi tráng và mãnh liệt. Tác giả nồng nhiệt lên án chiến tranh, bày tỏ niềm cảm thương với hai số phận, bình luận vể ý chí dũng cảm và lòng nhân hậu của tính cách Nga. Lời trữ tình ngoại đê cuối tác phẩm là những lời văn mạnh mẽ mà lắng đọng suy tư, chứa chan niềm tin và hi vọng vào sức mạnh tinh thần của con người. Lúc phia tay, tác giả nhìn theo hai cha con Xô-cô-lốp và bày tỏ nồng nhiệt một niềm tin mãnh liệt vào tính cách Nga. Ông hi vọng rằng, lớn lên bên con người kiên cường, nhân hậu như Xô-cô-lốp, chú bé mồ côi Va-ni-a sẽ sống xứng đáng như một con người, có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.
Truyện ngắn Số phận con người, còn được gọi là truyện ngắn – sử thi hay tiểu anh hùng ca, mang sức khái quát hiện thực lớn lao ; bởi thông qua số phận một con người, một thời đại của đất nước Xô viết được tái hiện. Câu chuyện về số phận một con người được lí giải trong mối quan hệ với số phận lịch sử của nhân dân Xô viết với hai chủ đề xuyên thấm : anh hùng và bi kịch. Cuộc đời bình thường của một người lính, những gian khổ và đau buồn trong chiến tranh đã là âm hướng về ý chí anh hùng, lòng dũng cảm, sức chịu đựng và sức mạnh tinh thần ghê gớm của con người Nga.
Số phận con người chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ. Đó là nội dung mang ý nghĩa nhân loại : sức mạnh tinh thần có khả năng cứu vớt con người và nhờ nó con người có thể vuợt qua sự tàn phá, huỷ diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. Đó là hình ảnh con người vừa mang cá tính sinh động, vừa kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất của cộng đồng. Hình tượng Xô-cô-lốp, do đó trở thành biểu tượng cho số phận và vẻ đẹp tinh thần của con người qua những cơn bão táp lịch sử của thế kỷ XX.
Bài văn phân tích tác phẩm “Số phận con người” số 4
Sô lô khốp được biết đến là một nhà văn Xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Noben về văn học vào năm 1965. Ông đã có nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về “số phận con người”. Và thông qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh.
Nhân vật chính trong truyện được biết đến là nhân vật Xô-cô-lốp. Và anh ta được xây dựng lên là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trong khi trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân, nhà cửa và cả bạn bè nữa. Đối với Xô-cô-lốp thì có thể nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi hòa bình đã được lập lại thì mọi thứ đã bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả. Anh dường như đã phải sống trong một cuộc sống đau khổ, kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Có cả vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Và lúc này Xô-cô-lốp chỉ còn biết hi vọng và trông chờ vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận.
Như vậy, thông qua đây chúng ta như đã có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò thật tủi cực về thể xác lẫn tinh thần. Sau đó khi trở giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất của mình cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại là quá lớn lao, quá đắng cay và thật đáng thương cho Xô-cô-lốp.
Sau chiến tranh, anh cứ ngỡ được sống trong hạnh phúc, nhưng không, Xô-cô-lốp phải sống trong bế tắc và tuyệt vọng. Không hề có một mái nhà che nắng che mưa mà anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Và để rồi cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có tên Va-ni-a. Nhà văn đã miêu tả thật ám ảnh về ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật. Hiện lên đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới, cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh, ít ra Sô-lô-khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai, ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận dường như đã đưa đẩy cho họ gặp nhau như để bù đặp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời đầy giông bão này vậy.
Xô-cô-lốp đã nhận nuôi bé Va-ni-a, anh còn chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Có thể nói rằng chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đó như đã xích lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy. Anh luôn luôn cố gắng làm mọi việc để nuôi bé Va-ni-a, nhưng trớ trêu thay cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái và không được lái xe. Nghề mưu sinh của anh cũng đã không còn cho nên anh phải đi khắp nơi, đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé Va-ni-a biết được điều này. Thông qua điều này chúng ta dường như nhận thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả.
Đến đoạn cuối của tác phẩm đầy tình thương yêu và biết bao sự nghiệt ngã này thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật. Đó chính là “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…”. Đoạn văn như đã thể hiện được sự khâm phục, tính cách của những con người luôn luôn kiên cường đứng vững vàng trước những khó khăn của cuộc sống. Có thể nói trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương đầy sự nhân ái, họ luôn luôn đùm bọc nhau cho nhau những yêu thương để vượt qua cuộc đời khó khăn và để sống.
Như vậy, chỉ với qua tác phẩm thôi mà chúng ta như có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào. Con người đó, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a là hai nhân vật chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Qua đó tác giả Sô-lô-khốp như đã muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy hơn, để cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Có thể bạn thích: