Hô-me-rơ tên thật là Mê-lê-xi-gien là nghệ sĩ hát rong, là thi sĩ mù. Ông sinh ra bên nờ sông Mê-lét vào khoảng thế kỉ IX-VII TCN và là nhà thơ lớn mở đầu cho lịch sử văn học cổ đại Hi Lạp, “cha đẻ của thơ ca Hi Lạp”. Tác phẩm “Ô-đi-xê” ra đời trong giai đoạn chiến tranh vừa kết thúc, người Hi Lạp bắt đầu bước vào công cuộc xây dựng hòa bình, khát khao mở rộng địa bàn cư trú ra biển. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn Hi Lạp chuyển từ chế độ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, gia đình hình thành. Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” thuộc khúc ca thứ 23 của sử thi Ô-đi-xê. Đoạn trích đề cao và ca ngợi vẻ đẹp sức mạnh trí tuệ và tinh thần của con người. Đồng thời, làm rõ giá trị hạnh phúc gia đình khi người Hi Lạp cổ đại chuyển từ chế độ thị tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Mời các bạn tham khảo một số ít bài văn phân tích tác tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 7
Hạnh phúc chỉ thực sự bền vững khi trải qua thử thách. Nàng Pê-nê-lốp trong sử thi Ô-đi-xê nổi tiếng của Hi Lạp cũng vậy. Sau 20 năm đằng đẵng chờ chồng, chịu sự nhòm ngó, ép buộc thường trực của 108 kẻ quyền quý cầu hôn, nàng đã tìm thấy hạnh phúc của ngay sum họp.
Hình ảnh Pê-nê-lốp chính là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ Hi Lạp – kiên trinh, thánh thiện, trí tuệ.Hai mươi năm không gặp, 20 năm xa cách chờ chồng. Thời gian là liều thuốc nhiệm màu thử thách lòng chung thuỷ của đàn bà ; v thời gian cũng là nền tảng cho cái đẹp hiện hình. Người phụ nữ Pê-nê-lốp qua thời gian đã làm cho hàng triệu trái tim người đọc mến phục và trân trọng. Trước hết, vẻ đẹp của Pê-nê-lốp hiện lên qua thái độ trân trọng trong cách ứng xử khi trước mặt là người tự nhận là người chồng yêu dấu trong bộ dạng một kẻ hành khất. Ngưòi hằng được nàng cho phép ở lại lâu đài để kể cho nàng nghe về 20 năm chinh chiến và trôi dạt lênh đênh của chồng. Nàng phải kìm nén tình cảm riêng tư cho lí trí vạch đường chỉ lối.
Có những lúc tâm trạng nàng nhiều sự phân vân chọn lựa đầy mâu thuẫn. Khi nghe nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác báo tin chồng đã trở về nàng “mừng rỡ cuống cuồng nhảy ra khỏi giường ôm chầm lấy bà lão nước mắt chan hoà”. Đấy là biểu thị của lòng chung thuỷ, niềm hạnh phúc tột độ được đền bù xứng đáng. Biết bao ngày nàng ngồi dệt tấm thảm để đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự thúc bách của bọn cầu hôn? Biết bao nhớ mong và yêu thương dành hết cho chồng ? Giờ đây nghe nhũ mẫu báo tin Uy-lit-xơ đã trở về nàng không mừng sao được?
Nhưng rồi Pê-nê-lốp có một thái độ hoàn toàn khác – thận trọng. Tại sao lại có sự thay đổi đột ngột như vậy ? Chúng ta không nên trách cứ nàng đa nghi vì nàng đã hứng chịu biết bao cay đắng khi xa chồng, trong lúc 108 kẻ quấy nhiễu cầu hôn bắt nàng phải tái giá. Nàng đã cương quyết bác bỏ tin của nhũ mẫu và cho rằng người giết chết 108 kẻ cầu hôn giải cứu cho nàng không phải là Uy-lít-xơ mà là một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhơ nhuốc của bọn kia. Bởi nàng vẫn đau khổ cho rằng “chàng đã hết hy vọng trở lại đất A-Cai, chính chàng cũng đã chết rồi”.
Tâm trạng Pê-nê-lốp phân vân nhưng rất quả quyết. Nàng đã trấn an nhũ mẫu cũng là để trấn an mình. Tâm trạng nàng trước lúc gặp Uy-lít-xơ “rất đổi phân vân”, điều đó được thể hiện trong dáng điệu, cử chỉ, trong sự lúng túng tìm cách ứng xử. Nàng không biết “nên đứng xa nên chạy gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn”. Pê-nê-lốp ngồi đối diện với chồng chưa kịp nói điều gì thì Tê-lê-mác con trai nàng đã lên tiếng trách mẹ gay gắt : “Mẹ ơi! Mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ hung ác quá chừng… không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt suốt hai mươi năm… bây giờ mới về xứ sở mà lại ngồi cách xa chồng đến vậy ?”.
Tê-lê-mác trách vì chỉ nhìn vào biểu hiện bên ngoài, vì sự nông nổi, chưa từng trải của con trẻ. Trong tình huống này, lời trách giận dữ, phũ phàng của đứa con rất dễ làm Pê-nê-lốp rối trí. Nhưng nàng vẫn rất tỉnh táo, thận trọng không muốn có một sai sót gì. Hai mươi năm xa cách nhớ mong ai chẳng cuồng vui ngày gặp lại, nhưng đứng trước Uy-lít-xơ, Pê-nê-lốp đã kìm nén cảm xúc riêng tư, thông minh nghĩ ra cách xác minh sự thật. Sự thận trọng của nàng không thừa, nó rất phù hợp với hoàn cảnh. Càng chứng tỏ lòng chung thuỷ cao độ của nàng. Bởi lòng chung thuỷ ấy mang phẩm chất kiên trinh đầy trí tuệ.
Vẻ đẹp người phụ nữ Pê-nê-lốp còn hiện lên qua tư thế ung dung của một chủ nhà tiếp một vị khách lạ một vị khách đặc biệt vì ông ta đã đánh đuổi được 108 kẻ cầu hôn. Sự ung dung ấy cho thấy nàng là con người bản lĩnh, có học vấn, cao sang, quyền quý. Nàng làm chủ được tình thế, làm chủ bản thân, không thất lễ với khách, cũng không làm mất lòng kẻ ở người ăn. Nhưng nếu chỉ dừng lại trong thái độ cư xử, trong tư thế ung dung bình tĩnh thì chưa thấy được sự thông minh sắc xảo của người phụ nữ này. Qua lời đối thoại trực tiếp với con trai nàng đã kín đáo đem ra phép thử “bí mật của chiếc giường”.
Chỉ nàng và chồng biết. Pê-nê-lốp sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường kiên cố ra khỏi phòng. Đây không phải là mục đích cần đến của nàng mà là sự thử thách. Người tự nhận là chồng nàng, chắc chắn sẽ lộ diện. Uy-lít-xơ giật mình chột dạ, vì chiếc giường không thể xê dịch được. Chàng liền cất tiếng và miêu tả chi tiết, tỉ mỉ chiếc giường. Đó là chiếc giường làm ra từ một gốc cây ô liu. Qua cách miêu tả tỉ mỉ, Uy-lit-xơ cũng muốn nhắc lại tình yêu, tình vợ chồng son sắc cách đây hai mươi năm. Miêu tả cái giường bí mật ấy, chàng đã giải mã giấu hiệu riêng do Pê-nê-lốp cài đặt.
Khi đã gạt bỏ được mọi nghi ngờ, nhận ra chồng, Pê-nê-lốp mới thể hiện tình cảm bằng những hành động yêu thương, thể hiện nỗi khát vọng mong chờ. Nàng “bủn rủn cả chân tay…bên chạy lại nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng”. Pê-nê-lốp dùng sự khôn khéo để xác minh sự thật, Uy-lit-xơ bằng trí tuệ nhạy bén đáp ứng được điều thử thách. Đây là sự gặp gỡ của hai tâm hồn, hai trí tuệ.
Đoạn trích Uy-lit-xơ trở về không cốt miêu tả khung cảnh xum họp, đoàn tụ thông thường. Cơ bản, nó muốn tạc hình ảnh người phụ nữ Hi Lạp cổ đại chung thuỷ kiên trinh, yêu đương nồng cháy nhưng thông minh trí tuệ, tinh tế, đầy bản lĩnh. Mặt khác cũng thể hiện khát vọng bình yên trong một gia đình hạnh phúc. Ở đó, mặc cho thời gian đằng dặc cách chia vẫn có đợi chờ, hiểu biết lẫn nhau.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 10
Chúng ta rồi sẽ nhắc mãi về những thời kì hào hùng của lịch sử dân tộc khi mà âm vang của nó nằm trọn trong những khúc sử thi. Có lẽ, chỉ có ở sử thi, con người mới hiện lên 1 cách khí thế và oai hùng như vậy, bởi một nhân vật thôi nhưng đại diện cho cả thời đại mà nó ra đời. Uy-lít-xơ là một nhân vật như vậy. Trong con người chàng có trí tuệ và trái tim của cả đất nước Hy Lạp thời cổ đại. Tìm hiểu về “Ô-đi-xê” cũng như Uy-lít-xơ, ta mới thấy được một Hô-me-rơ tài năng và tâm huyết với bộ sử thi của dân tộc.
“Ô-đi-xê” ra đời tại một đất nước có nền văn minh rực rỡ, khi con người đã thoát khỏi chế độ công xã thị tộc nhiều dã man. Đó là vào khoảng thế kỉ VIII TCN, nhân dân Hy Lạp chuyển mình sang chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ. Con người giờ đây sống với những khát vọng lớn lao, những ước mơ về hạnh phúc, trí tuệ. Người hát rong Hô-me-rơ đã gom lại tinh thần ấy của dân tộc trong những khúc sử thi của mình. Từ Iliade đến Odyssey, đều là hiện thân của những người anh hùng với sức mạnh, trí tuệ và tâm hồn cao đẹp. Với 12110 câu thơ chia thành 24 khúc ca, sử thi Odyssey ấy thực sự là những khúc khải hoàn để ngàn đời sau còn hướng về.
Uy-lit-xơ là nhân vật xuyên suốt trong cả hai bộ sử thi của Ho-me-rơ. Nếu ở Iliade là hành trình người dũng sĩ chiến đấu tại thành Troy, thì “Ô-đi-xê” lại là con đường trở về. Uy-lit-xơ vẫn giữ cho mình bản lĩnh và trí tuệ như lúc chàng chiến đấu. Có điều ở khúc sử thi này, ta thấy nhiều hơn là khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, khát vọng được đoàn tụ trở về. Sau khi chiến thắng ở Troy, Uy-lit-xơ cùng đoàn quân của mình trở về xứ sở. Nhưng hành trình chưa dừng ở đó. Đoàn quân ấy vượt qua cửa ải của tên khổng lồ “một mắt” Polyphemus, mụ phù thuỷ Circe, hai con quái vật Charybdis và Scylla và cả nàng tiên Calypso xinh đẹp. Không dừng ở đó, Uy-lit-xơ còn phải đối mặt với thử thách của lòng người, là người vợ thân yêu của chàng nơi quê nhà nghi ngờ sự xuất hiện của chàng. Qua 1 loạt thử thách ấy, Uy-lit-xơ đã trở lại được cuộc sống với gia đình hạnh phúc sau 20 năm lưu lạc. Phải được đặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, trí tuệ, ý chí, bản lĩnh của Uy-lít-xơ mới hiện lên 1 cách rõ ràng.
Với Uy-lit-xơ, trước hết ta phải nhắc đến trí tuệ hơn người của chàng. Trí tuệ ấy từng được Hô-me-rơ gọi là sánh ngang với thần Zues bởi chàng là người kế tục của Achile. Hô-me-rơ đã để nhân vật của mình đối diện với những thử thách mà không thể dùng sức lực vượt qua. Tiêu biểu là kế sách “chẳng có ai” khi muốn vượt qua tên khổng lồ một mắt Polyphemus. Giá sử không có mưu mẹo ấy của chàng, có lẽ cũng sẽ chẳng có sự trở về của Uy-lit-xơ. Cũng nhờ trí tuệ hơn người mà Uy-lit-xơ cùng con trai tiêu diệt được những tên cầu hôn vợ nàng và trừng trị đám giai nhân phản bội. Pê-nê-lốp vì nghi ngờ người trước mặt nên đã nghĩ ra kế sách dùng chiếc giường bí mật để thử lòng chồng, Uy-lit-xơ cũng nhanh chóng vượt qua. Trí thông minh chính là vũ khí đắc lực giúp cho chàng vượt qua các ải gian nan. Viết về trí tuệ siêm phàm ấy, Hô-me-rơ muốn hướng về ca ngợi con người trong công cuộc chinh phục vũ trụ, phải cần nhất là trí tuệ. Đó là phẩm chất mà con người Hy Lạp cổ đại đề cao và trân trọng nhất.
Đến với “Ô-đi’xê”, người ta không còn thấy những khát vọng chinh phục, những ước mơ chiến thắng. Con người ta quay trở về với những tình cảm tốt đẹp từ tận trái tim. Trong con người con Uy-lit-xơ chính là những ánh sáng của tình cảm cao đẹp ấy. Thiêng liêng nhất trước hết là tình cảm dành cho quê hương xứ sở. Sau những chiến công lừng lẫy mà gian khổ, chàng cùng bạn bè trở về quê hương mang theo nỗi nhớ mong về xứ Ithaque ruột thịt, cũng là động lực chàng vượt qua khó khăn thử thách. Bằng chứng là khi đến xứ sở của người Lotobophagio, chàng đã nhất quyết không ăn một thức ăn nào, bởi nó sẽ làm chàng quên đi mảnh đất yêu thương của mình. Chàng muốn giữ trọn tình yêu ấy trong tim cho đến tận cùng hơi thở. Cũng bởi vậy mà đứng trước hòn đảo của nàng Calypso, lòng chàng lại đau đáu về quê hương hơn bao giờ hết. Bởi nơi đất khách này thật đẹp quá, lại làm chàng nhớ về quê cha đất tổ cũng êm ấm tình thương. Và quan trọng hơn cả, sau 20 năm xa quê trở về, nàng đã hôn lên mảnh đất Ithaque 1 cách trân trọng và hạnh phúc nhất. Là một người con của xứ sở, chưa bao giờ lòng chàng vơi bớt tình yêu cho mảnh đất này.
Không chỉ có một tình yêu tràn ngập cho chốn quê nhà, tình cảm gia đình cũng là thứ mà Uy-lit-xơ trân trọng nhất. Có thể nói, suốt chặng đường trở về của Uy-lit-xo luôn có hình bóng giai nhân say đắm chàng. Là mụ phù thủy Circe, là nữ thần Calypso xinh đẹp sẵn sàng cho chàng sự bất tử hay nàng công chúa Nausicaa quyến rũ. Nhưng không ai có thể thay thế cho nàng Pê-nê-lốp trong trái tim của chàng. Không hề có một phút rung động, chàng vượt qua mọi thử thách để trở về cùng người vợ thân yêu. Tình cảm gia đình ấy tạo nên sự chung thủy trong trái tim người dũng sĩ, để chàng hiểu được tấm lòng người vợ, vượt qua được thử thách của nàng mà hướng tới hạnh phúc.
Trong con người Uy-lit-xơ ấy, không chỉ có những tình cảm bình dị đời thường, mà vẫn ẩn chứa cả khát vọng cao đẹp, đi liền với ý chí và sức mạnh. Hành trình tuy là trở về nhưng lại không thiếu những thử thách gian nan. Phải là một Uy-lit-xơ có khát vọng mạnh mẽ, có ý chí hơn người mới có thể vượt qua. Trong trái tim và trí óc của chàng là ngọn lửa của khát vọng trở về, khát vọng được chinh phục thiên nhiên và chinh phục chính mình. Con người sử thi vẫn ôm trong mình nỗi khát vọng lớn lao không bao giờ thay đổi.
Thiên sử thi khép lại, Uy-lit-xơ đến với chúng ta bằng trí tuệ siêu phàm, bằng tình cảm cao đẹp và ý chí ngút trời. Hành trình trở về của Uy-lit-xơ phải chăng cũng là hành trình con người về với bản chất của chính mình. Hô-me-rơ viết “Ô-đi-xê’, chính là viết nên những khát vọng chân chính nhất của người dân Hy Lạp cổ đại thời bấy giờ. Những phảm chất ấy là điều thiết yếu để con người xây dựng nên một nền văn minh mới.
Bằng cách đặt nhân vật vào những khó khăn thử thách, xây dựng nhân vật qua lời nói và hành động, Hô-me-rơ đã khắc nên một tượng đài Uy-lit-xơ còn sừng sững đến ngày hôm nay.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 2
I-lit-át và Ô-đi-xê là hai sử thi nổi tiếng của Hi Lạp, vẫn thường được cho là Hô-me-rơ sáng tác. Tác phẩm đề cao, ngợi ca vẻ đẹp trí tuệ của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và khám phá thế giới. Nổi bật trong sử thi Ô-đi-xê là người anh hùng trí tuệ Uy-lít-xơ. Vẻ đẹp phẩm chất trí tuệ của chàng được thể hiện 1 cách đầy đủ trong đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về”.
Uy-lít-xơ sau khi dành chiến thắng thành Tơ-roa, trải qua nhiều biến cố, nhận được sự giúp đỡ của nhà vua An-ki-nô-ốt đã trở về quê hương. Nhưng khi trở về nhà chàng lại phải đối mặt với một nguy cơ mới: 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn vợ chàng là nàng Pê-lê-nốp, hòng đoạt tài sản của gia đình. Bằng sự mưu trí chàng đã đánh đuổi chúng ra khỏi nhà và trừng trị kẻ phản trắc. Nhưng Pê-lê-nốp vẫn không tin chồng mình đã trở về. Đoạn trích là thử thách để hai vợ chồng nhận ra nhau và gia đình đoạn tụ.
Nghe tin chồng trở về Pê-nê-lốp vô cùng hạnh phúc, nhưng là một người phụ nữ thông minh và kiên định, Pê-nê-lốp vẫn nghi ngờ. Nhũ mẫu là người thân cận với Pê-nê-lốp là người trung thực, có uy tín trong gia đình nên mọi lời nói của bà đều rất có trong lực trong nhà. Bà là người đã thông báo tin dẹp tan những kẻ cầu hôn và chồng nàng đã trở về, nàng vô cùng vui mừng. Đây là cảm xúc tất yếu củ người vợ đang nhớ thương và xa chồng lâu ngày, nó còn biểu thị cho lòng chung thủy, nỗi nhớ mong khắc khoải đợi chồng của nàng. Nhưng vốn là người thận trọng nên nàng không tin ngay những lời nhũ mẫu nói. Khi gặp lại Uy-lít-xơ nàng “rất đỗi phân vân” và nàng lung túng “không biết nên đứng ra xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn”. Nàng vẫn thận trọng dò xét, tính toán nhưng cũng dâng lên niềm xúc động. Không chỉ chịu sự tác động của nhũ mẫu, nàng còn chịu sự tác động của con trai. Tê-lê-mác trách cứ mẹ gay gắt, trước những lời ấy nàng vẫn phân vân, chưa biết sẽ phải làm thế nào.
Và trong lúc ấy nàng đã nảy ra ý định sẽ đưa ra thử thách với chồng mình. Nàng không nói trực tiếp mà rất nhã nhặn thông qua con để nói với Uy-lít-xơ về những “dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết”. Là một người thông minh Uy-lít-xơ ngay lập tức nhận ra ý định thử thách của vợ. Uy-lít-xơ mỉm cười, đó là cái mỉm cười của sự bình tĩnh, bản lĩnh, tự tin vào trí tuệ của mình.
Uy-lít-xơ lên tiếng trách cứ Pê-nê-lốp được “các thần trên núi Ô-lem-pơ ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối”. Chàng nói với nhũ mẫu tìm cho mình chiếc giường để ngủ, hàm ý để nói về chiếc giường của hai vợ chồng. Ngay lập tực, Pê-nê-lốp sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường ra cho Uy-lít-xơ. Nghe những lời Pê-nê-lốp nói, Uy-lít-xơ tinh ý nhận ra thử thách của mình, chàng “giật mình” vì đó là chiếc giường không thể xê dịch. Chàng kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm chiếc giường: đó là chiếc giường mà bốn chân được làm từ bốn gốc cây ô liu, chiếc giường do chính chàng thiết kế và thi công.
Chiếc giường ngập tràn kỉ niệm và chứa đựng tình yêu vô bờ Uy-lít-xơ dành cho vợ. Tất cả những điều ấy làm sao Uy-lít-xơ có thể quên. Nhắc lại những điều đó Uy-lít-xơ vừa nhắc lại kỉ niệm, tình cảm thắm thiết của hai vợ chồng, vừa là để chứng minh cái giấu hiệu riêng mà Pê-nê-lốp vừa nhắc đến trước đó. Hai con người tài trí, thông minh đã tìm được cách để xác nhận sự thật, và giải quyết thử thách. Đây là sự gặp gỡ, hòa hợp của hai trí tuệ sắc sảo.
Sau khi nhận ra nhau, Pê-nê-lốp mới bày tỏ nỗi lòng mình, nàng nói rõ vì sao bao lâu nay nàng khép lòng mình. Bởi nàng luôn lo sợ những kẻ gian xảo đánh lừa. Đó là một lí do chính đáng thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng với chồng. Tấm lòng ấy giúp nàng xứng đáng được hưởng sự đoàn viên và hạnh phúc gia đình trọn vẹn.
Tạo nên thành công cho tác phẩm ta còn phải kể đến nghệ thuật dựng truyện đặc sắc, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính. Tính cách nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, có những diễn biến tâm lí phức tạp qua cử chỉ, hành động của nhân vật. Ngôn ngữ cũng là 1 điểm nhấn của tác phẩm. Tác giả sử dụng hệ thống ngôn ngữ trang trọng, thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật.
Qua cảnh vợ chồng đoàn tụ sau 20 năm xa cách, với nghệ thuật kể chuyện và lựa chọn chi tiết đặc sắc, tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp. Tình yêu và trí tuệ chính là hai vẻ đẹp tiêu biểu mà con người thời đại Hô-me-rơ luôn hướng tới.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 3
Uy-lít-xơ trở về thuộc khúc ca XVIII của Ô-đi-xê, một tác phẩm sử thi Hi Lạp nổi tiếng thế giới. Đoạn trích kể lại cuộc tái ngộ của vợ chồng Pê-nê-lốp và Uy-lít- xơ sau 20 năm cách biệt. Cuộc tái ngộ ấy đầy hạnh phúc nhưng trước khi được hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc đoàn tụ họ đã trải qua nhiều thử thách gay go. Ta hãy thử cùng tìm hiểu đoạn trích của tác phẩm qua hai nhân vật chính của đoạn trích Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ.
Khi Uy-lít-xơ với nhưng với tư cách là một người hành khất giả danh, đây là lúc vị trí của Uy-lít-xơ đã thay đổi dưới cách nhìn của Pê-nê-lốp. Từ vai trò là người bạn của Uy-lít-xơ, người chia sẻ buồn vui với Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ đã xuất hiện như một đại diện cho sức mạnh. Việc diệt trừ một lúc 108 tên cầu hôn quấy đảo đã nàng vị trí một kẻ bình thường lên vị trí một người khác thường. Sự nâng cấp này làm cho Uy-lít-xơ gần với Uy-lít-xơ hơn. Nghĩa là khả nãng trở thành Uy-lít-xơ thật của người hành khất mở ra một triển vọng lạc quan đối với người vợ chung thủy đợi chồng. Nhưng dù thế, khi người nhũ mẫu báo tin vui là Uy-lít-xơ đã trở về câu nói của Pê-nê-lốp không phải là thái độ “đồng thanh tương ứng”. Trước sự phấn khích của người nhũ mẫu trung thành, tận tụy, lời nói của nàng như gáo nước lạnh dội vào.
Câu đối thoại của Pê-nê-lốp với người nhũ mẫu làm hiện lên một tâm trạng. Với Pê-nè-lốp, việc Uy-lít-xơ trở vềlà một mơ ước, nhưng mơ ước đó quá xa xôi, xa xôi như 20 năm cách biệt. Ngọn lửa ấy không phải không có lúc bùng lên. Chỉ cần nhắc đến nó là người nói đã xao xuyến bồi hồi: “Già cũng biết, nếu chàng trở về thì mọi người trong nhà, nhất là tôi và con trai chúng tôi sinh ra kia sẽ sung sướng xiết bao!”. Nhưng giờ đây, do đã kìm nén nhiều năm, mơ ước ấy bị gạl sang 1 bên chí còn âm ỉcháy. Thậm chí dấu vết còn lại của nó chỉnhư một nhúm tro than bị thời gian sóng gió dập vùi. (Còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người, chàng cũng đã hết hi vọng trở lại đất A-cai, chính chàng cũng đã chết rồi). Mặc cảm ấy dẫn đến sự không dễ dàng thừa nhận là hết sức tự nhiên. Trả lời câu hỏi: Ai là người giết bọn cầu hôn, theo Pê-nê-lốp, chiến tích phi thường ấy thuộc về thần linh: “Đây là một vị thần đã giết bọn cầu hôn danh tiếng”. Đoạn văn này mới diễn tả một tình cảm thật của nàng.
Đó là sự sung sướng hả hê của người trút được gánh nặng, của một nạn nhân khi mắt thấy tai nghe sự trừng phạt thích đáng những kẻ tội đồ. Bao nhiêu hào hứng của nàng thuộc về phía ấy: “… một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhuốc nhơ của chúng. Vì chúng chẳng kiêng nể một ai trên cõi đời này, dù là dân đen hay người quyền quý, hễ gặp chúng là bất cứ ai cũng bị chúng khinh miệt.Vì sự bất công điên rồ của chúng, nên chúng phải đền tội đấy thôi”. Còn Uy-lít-xơ thật có phải làngười ấy hay không, trong cách nghĩ của Pê-nê-lốp như có sự lảng tránh. Ngay cả lúc người nhũ mẫu già đưa ra một chứng cớ (vết sẹo trên bắp chân của Uy-lít-xơ do lợn lòi húc ngày xưa) cũng bị nàng gạt đi. Bởi trong ý nghĩa của Pê-nê-lốp người ta không thể tin vào bất cứ điều gì bởi tất cả là do thẩn linh sắp đặt: “Già ơi! Dù già sáng suốt đến đâu, già cũng không sao hiểu thấu những ý định huyền bí của thần linh bất tử”.
Song, tiếng nói ấy dù sao cũng là tiếng nói của lí trí. Khi đối diện với người đàn ông mà nhũ mẫu ơ-ri-clê cho là Uy-lít-xơ, trái tim nhạy cảm của Pê-nê-lốp không còn có thể lặng yên được nữa. Mong muốn gặp chồng và nay gần như đã gặp chồng dù mới chỉ là linh cảm, trái tim tưởng như đã trở thành băng giá đã tan ra. Lần đầu tiên, nàng run rẩy, thiếu tự tin không làm chủ được bản thân mình. Trạng thái bất ổn ấy không chỉ diễn ra trong cái bối rối rất con người là “nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn?”, mà ngay từ lúc Pê-nê-lốp quyết định bước xuống cầu thang để giáp mặt với “người ấy”.”Bây giờ ta hãy xuống nhà với Tê-lê-mác để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng”.
Kết hợp với độc thoại nội tâm và đối thoại lấp lửng với người nhũ mẫu, trái tim cứng rắn của Pê-nê-lốp đã gần bước qua các ranh giới vô hình mà chính nàng đã phân chia rạch ròi từ trước. Nhưng đến lúc có thể bước qua, nàng lại ngập ngừng dừng lại. Lí trí giúp nàng tỉnh táo. Tỉnh táo để không rơi vào ngộ nhận ở phút cuối cùng. Pê-nê-lốp nói với con hay nói với lòng mình và cả Uy-lít-xơ nữa về sự nấn ná dường như khó hiểu lúc này: “Nếu quả thật đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau 1 cách dễ dàng”. Nàng cầu cứu vào sự thật, vào lí trí một lần cuối cùng trước khi hành động, trước khi quyết định, một quyết định quan trọng biết dường nào. Trước khi có quyết định ấy, mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí làm cho Pê-nê-lốp ở vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan vừa khó có thể rời xa vừa không thể đến gần con người ấy. Cảm giác thân thiết 1 cách xa lạ này được phản chiếu vào đôi mắt, vào cái cửa sổ của tâm tư khi nàng ngồi yên mà trong lòng đang nổi sóng “khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp”.
Khi Uy-lít-xơ ở phòng tắm bước ra, từ một người hành khất, Uy-lít-xơ “đẹp như một vị thần”. Điều đó với Uy-lít-xơ không phải là không chú ý. Nhưng dù chàng có cố tình thay đổi, cái nhìn của Pê-nê-lốp vẫn không thay đổi. Bởi ý thức tự thay đổi của Uy-lít-xơ không nằm trong vùng cảm nghĩ của nàng. Chỉ tới khi lòng kiên nhẫn của Uy-lít-xơ cạn dần đến mức phải thốt ra những lòi tuyệt vọng “Thôi, già ơi! Già hãy kểcho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”, trong tâm trí khôn ngoan của Pê-nê-lốp mới bật ra một phép thử. Phép thử ấy không phải bất ngờ vì trước đó, nàng đã đinh ninh sẽ đánh thức trí nhớ của Uy-lít-xơ nếu Uy-lít-xơ thật về những bí mật đời tư của họ, “những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau”.
Chỉ có điều Pê-nê-lốp còn chưa tìm ra thì may sao chính lời than thở vô tình của Uy-lít-xơ lại sáng lên cho nàng một gợi ý. Và hiệu quả tức thời của nó nhanh đến mức Uy-lít-xơ vừa nhắc đến chiếc giường bí mật thì với nàng, con đê cuối cùng, con đê tự bảo vệ mà Pê-nê-lốpđã dựng lên trong suốt hai chục năm qua đã không còn cần thiết nữa. Đây là lời kể của Hô-me-rơ: “Người nói vậy và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay… Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng…” ở vào giờ phút thiêng liêng này, vai trò của hai người đã được đổi chỗ cho nhau. Người cầu xin không còn là Uy-lít-xơ nữa. Người ấy là vợ chàng. Đó là sự cầu xin vì hạnh phúc, hạnh phúc quá lớn lao một khi định mệnh “Thần linh đã dành cho hai ta một số ít phận biết bao cay đắng” đã buông tha, cầu xin sự tha thứ nữa, tha thứ cho một người vợ đã cốtình sắt đá với chàng, vì “thiếp luôn luôn lo sợ có người đến dây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác…”
Hạnh phúc mà Pê-nê-lốp tìm lại cho mình là cả 20 năm li biệt, là lòng thủy chung sắt son, là cả sự mẫn tiệp của trí tuệ thiên bẩm. Dường như chỉ có nàng mới thấm thìa cái ngọt ngào sau bao nỗi đắng cay, chỉ có nàng mới đo được cái tầm vóc vô hình của nó và chỉ có thiên nhiên mới nói được niềm vui sướng vô biên của “rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào được đến bờ”. Biểu hiện tột cùng của hạnh phúc ở nàng như trạng thái của một giấc chiêm bao: “nàng nhìn chồng không chán mát và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời”.
So với Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ không phải là nhân vật chính, không giữ vai trò quyết định cho cuộc đoàn viên. Mặc dù như Tê-lê-mác thừa nhận 1 cách tự hào: “xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp”, nhưng trí tuệ ấy của Uy-lít-xơ thể hiện chủ yếu ở một không gian khác: không gian trận mạc và cuộc vượt biển mười năm trở lại quê hương. Còn trước những vấn đế phức tạp như bí mật của lòng người, Uy-lít-xơ còn khá ngây thơ. Chẳng thế mà việc diệt trừ 108 kẻ cầu hôn với chàng không khó, nhưng làm thế nào để mở được cánh cửa im ỉm đóng của tâm hổn Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ đã phải bó tay. Chí còn biết kiên nhẫn, đợi chờ, trách móc. Vai trò của Uy-lít-xơ rơi vào tình trạng bị động và phụ thuộc hoàn toàn. Trí tuệ của Uy-lít-xơ trong phạm vi giao tiếp, ứng xử với phụ nữ (dù người đó là vợ chàng) chẳng hơn gì Tê-lê-mác con chàng là mấy. Có đến hai câu trách móc giống nhau:
– Tê-lê-mác: “Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ hung ác quá chừng ! Sao mẹ lại ngồi xa cha con như thế, sao mẹ không đến bên cha, vồn vã hỏi han cha? Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt 20 năm nay, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Nhưng mẹ thì bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”.
– Uy-lít-xơ: “Khốn khổ ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt 20 năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già ơi! Già hãy kểcho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”. Ấy là chưa nói đến có tới hai lần ý nghĩ của Uy-lít-xơ hoặc không nằm trong vùng tâm tư, cảm nghĩ của đối tượng (vợ chàng) hoặc nằm ngoài mạch truyện.
Chứng cớ thứ nhất là khi phát hiện 1/2 cái nhìn của Pê-nê-lốp (vừa âu yếm vừa xa lạ) của mình “dưới bộ áo quần rách mướp”, chàng nghĩ ra ngay một giải pháp. Điều mà vợ chàng nói là “sẽ nhận ra nhau”, Uy-lít-xơ cũng đinh ninh là thế với cái ý nghĩ giản đơn: “Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi”. Để rồi sau đó, từ nhà tắm bước ra, yên trí cho rằng tuy ngồi lại vào chỗ cũ, nhưng Pê-nê-lốp sẽ nhìn nhận chàng bằng một con mắt khác, bởi lúc đó: không còn là người hành khất rách rưới mà “đẹp như một vị thần”. Kết quả là Pê-nê-lốp không có một thái độ đổi thay (như chờ đợi của chàng). Chứng cớ thứ hai khi đang là đối tượng thử thách của Pê-nê-lốp, vấn đề vợ chàng nhận ra hay không nhận ra chàng mới là điều hệ trọng thì Uy-lít-xơ lại quay ra nói chuyện với con về một vấn đề chẳng liên quan gì đến mạch Tuyện: “Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí thế nào cho ổn thỏa nhất”. Nhất là cách bàn chuyện lại dài dòng: “Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở […] cha khuyên con nên suy nghĩ”.
Nhưng cũng may là do quá thật thà (không biết dụng ý của Pê-nê-lốp) mà khi Pê-nê-lốp vừa nói đến việc di chuyển chiếc giường bí mật, Uy-lít-xơ đã quá đỗi ngạc nhiên. Đó chính là cái “giật mình”mà vợ chàng nóng lòng chờ đợi. Và kế sau đó, đoán chắc như đinh đóng cột (“nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này”) nhất là cách tả như đếm của chàng (làm bằng cây gì, thiết kế tí mỉ ra sao,…) thì Pê-nê-lốp lại như người bắt được vàng. Gạt bỏ đi tất cả những yếu tố “ngoại đề” (thậm chí còn là lạc đề) của Uy-lít- xơ ngây thơ, Pê-nê-lốp đã thực sự nhận ra người chồng vô cùng yêu quý.
Việc miêu tả Uy-lít-xơ như trên vừa nói là một đồ ý nghệ thuật của Hô-me-rơ. Nó chẳng những không hạ thấp trí tuệ của chàng (trí tuệ ấy thể hiện ở một vùng không gian khác) mà còn tạo ra một thứ mặt bằng để từ đó sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp nổi bật hẳn lên. Trong một lát cắt ngang của tác phẩm, sứ mệnh nghệ thuật của Uy-lít-xơ đã hoàn thành 1 cách ngoài dự kiến.
Kết hợp với các yếu tố nghệ thuật khác như cách dàn dựng cốt truyện, ngôn ngữ sử thi (ngôn ngữ trực tiếp và lời kể của người dẫn truyện), việc xây dựng nhân vật theo lối đa dạng hóa có tính khắc họa khá cao dù tác phẩm ra đời từ cái thời rất đỗi xa xôi của lịch sử.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 9
Hô-me-rơ là nhà thơ mù, được coi là tác giả của I-li-át và Ô-đi-xê. Ông là con một gia đình nghèo, được sinh ra bên dòng sông Mê-lét vào khoảng thế kỉ IX – VIII trước công nguyên. Tên của ông là Mê-lê-xi-gien. Sử thi Ô-đi-xê là một trong các hai bộ sử thi nổi tiếng đất nước Hy Lạp. Tác phẩm kể lại hành trình trở về quê hương của Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa.
Ô-đi-xê gồm 12 110 câu thơ, chia thành 24 khúc ca. Chủ đề chính của Ô-đi-xê là chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu; tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa, là cuộc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về là khúc ca thứ XXIII của sử thi Ô-đi-xê. Văn bản thuật lại chuyện sau 20 năm đánh thắng thành Tơ-roa và lênh đênh phiêu bạt, Uy-lít-xơ trở về quê hương, chiến thắng bọn cầu hôn Pê-nê-lốp, đoàn tụ gia đình.
Khi nhũ mẫu Ơ-cri-lê báo tin, thề thốt, đua ra chứng cứ Uy-lít-xơ đã trở về. Đó là cái sẹo do rang nanh trắng của một con lợn lồi húc người ngày xưa. Pê-nê-lốp vui mừng nhưng không tin, trong lòng rất đỗi phân vân. Pê-nê-lốp xuống nhà để “xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng” Khi gặp Uy-lít-xơ: Rất đỗi sững sốt, dáng điệu cử chỉ lúng túng, tìm cách ứng xử.
Trước lời trách của Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp “thận trọng” trả lời và cho biết sẽ nhận ngươi đó là chồng nếu ông trả lời được bí mật về “những dấu hiệu riêng chỉ hai người biết với nhau”. Đó là nàng ngầm nói về bí mật chiếc giường, khôn khéo thông minh xác minh sự thật. Thử thách Uy-lít-xơ bằng “bí mật chiếc giường” thông qua đối thoại với nhũ mẫu Ơ-Cri-lê “Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường”.
Pê-nê-lốp hạnh phúc, mừng vui tột cùng khi nhận ra Uy-lít-xơ “nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng”. Tác giả luôn dùng từ “thận trọng” đi kèm sau tên nhân vật Pê-nê-lốp. Pê-nê-lốp: là người vợ thủy chung, kiên định, biết yêu tha thiết nhưng cũng rất kiên cường trong việc bảo vệ phẩm giá và hạnh phúc gia đình; là người phụ nữ thông minh, bình tĩnh, thận trọng, khôn khéo, tế nhị.
Để có mặt trong nhà của Pê-nê-lốp: Phải chiến đấu dũng cảm với bọn cầu hôn. Khi gặp Pê-nê-lốp thấy sự xa cách của vợ: Nhẫn nại, chấp nhận chờ đợi mọi sự thử thách. “Còn Uy-lít-xơ thì ngồi tựa vào một cái cột cao, mắt nhìn xuống đất, đợi xem bây giờ trông thấy mình rồi, người vợ cao quý của mình sẽ nói gì với mình”. Trước tác động của con trai: Nhẫn nại và mỉm cười. Uy-lít-xơ cho rằng Pê-nê-lốp chưa chịu nhận mình là chồng vì anh ta còn mang dáng vẻ của một người hành khất rách rưới, bẩn thỉu. Nhận ra thử thách của Pê-nê-lốp và bình tĩnh, thông minh, giải đáp được thử thách (giải đáp “bí mật của chiếc giường”)
Tác giả luôn dung cụm từ “cao quý và nhẫn nại” đi kèm sau tên nhân vật Uy-lít-xơ. Uy-lít-xơ: là người dũng cảm, bình tĩnh, tự tin, thông minh, mưu trí, chung thủy, hiểu sâu sắc về vợ mình. Qua cảnh vợ chồng đoàn tụ sau 20 năm xa cách, văn bản đã khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của người Hi lạp cổ đại. Văn bản đã rất thành công với lối so sánh mở rộng (so sánh có đuôi dài). Cách miêu rả cụ thể, chi tiết, tỉ mỉ là đặc trưng của sử thi Hy Lạp. Tâm trạng nhân vật được thể hiện qua dáng điệu, cử chỉ, cách ứng xử, thái độ… Hình ảnh chọn lọc, ngôn ngữ trang trọng, tao nhã.
Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về là bài ca ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, tình yêu xứ sở, tình cảm vợ chồng, tình cha con, chủ-khách, chủ – tớ; đề cao vẻ đẹp trí tuệ, sự khôn ngoan, mưu trí, dũng cảm, tỉnh táo, sáng suốt của nhân vật lý tưởng và khát vọng bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đó cũng là khúc ca ca ngợi sức mạnh kì diệu của trí tuệ Hi Lạp cổ đại trong tiến trình chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu; tái hiện những xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa; cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 8
Sử thi Ô-đi-xê của nhà thơ mù Hô-me-rơ (Hi Lạp) được sáng tác dựa theo Truyền thuyết về cuộc chiến tranh thành Tơ-roa, một sự kiện xảy ra trước thời kì Hô-me-rơ sống khoảng ba thế kỉ. Nhân vật chính là chàng Uy-lít-xơ dũng cảm, tài ba, biểu tượng của sức mạnh, trí tuệ; ý chí, nghị lực của con người cùng với khát vọng tìm hiểu, chinh phục thế giới và niềm mơ ước mãnh liệt về 1 cuộc sống hoà bình, hạnh phúc.
Phần cuối sử thi kể về cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động giữa Uy-lít-xơ và người vợ thuỷ chung Pê-nê-lốp sau 20 năm trời xa cách, vốn là một phụ nữ đẹp tuyệt vời nên Pê-nê-lốp thường xuyên bị đám đàn ông quý tộc quấy rầy, không thể sống yên. Uy-lít-xơ đã giết chết chúng cùng với đám gia nhân phản bội.
Nhũ mẫu Ơ-ri-clê đưa ra bằng chứng là vết sẹo do nanh trắng của một con lợn lòi húc vào chân chàng ngày xưa để lại, Pê-nê-lốp vẫn chưa tin. Sau khi xuống gác, nàng bước đến ngồi trước mặt Uy-lít-xơ mà lòng phân vân khôn xiết: có nên lại gần để hỏi chuyện người chồng yêu quý, hay ôm lấy đầu, cầm lấy tay chàng mà hôn? Tận mắt nhìn thấy chàng ngồi tựa vào một cái cột cao, vất nhìn xuống đất, chờ đợi phản ứng của nàng, nhưng nàng vẫn ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ quần áo rách mướp.
Hô-me-rơ quả là có khả năng miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến mức tinh tế, sâu sắc lạ thường. Có nhiều lí do để nàng Pê-nê-lốp giữ thái độ thận trọng như thế. Từ ngày chồng tham gia chinh chiến, 1 mình nàng phải đối phó với bao nhiêu kẻ độc ác, tham lam, háo sắc. Chúng có vô vàn mưu ma chước quỷ, song nàng chỉ có trí thông minh sắc sảo và lòng thuỷ chung son sắt chờ chồng.
Tác giả khéo léo dùng lời trách móc của Tê-lê-mác để gián tiếp thể hiện sự cảnh giác cao độ của Pê-nê-lốp. Con trai gay gắt chỉ trích mẹ là tàn nhẫn và độc ác, vì cứ ngồi nhìn cha trân trân mà không biết đến gần vồn vã hỏi han: Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt 20 năm nay, trải qua bao gian lao, bây giờ mới trờ về xử sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Nhưng mẹ thì bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá.
Nếu ở vào hoàn cảnh bình thường thì thái độ của Tê-lê-mác là hỗn xược, đáng giận, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt này, Uy-lít-xơ thấu hiểu nỗi bức xúc và hờn giận không phải là vô cớ của con trai: Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười. Chàng âu yếm nói với con trai những lời có cánh như sau: Tê-lê-mác, con đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thiu, quần áo rách rưởi, nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi”.
Sau khi tắm rửa, Uy-lit-xơ từ phòng tắm bước ra, trông người đẹp như một vị thần. Chàng ngồi lên chiếc ghế bành ban nãy đã ngồi rồi nói với vợ bằng giọng hờn trách nhẹ nhàng, thoáng chút ngậm ngùi, tủi thân: Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biện biệt 20 năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới được về xứ sở. Rồi chàng quay sang nói với nhũ mẫu: Thôi, già ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt.
Nghe chàng nói vậy, chắc chắn những người xung quanh phải mủi lòng, nhưng Pê-nê-lốp vẫn chưa tin và tiếp tục thử chàng bằng bí mật của chiếc giường mà không ai biết ngoài vợ chồng nàng. Phép thử cuối cùng này quả là màu nhiệm! Nó làm rung động dữ dội cả trái tim và khối óc của người anh hùng Uy-lít-xơ. Chàng giật mình nói với vợ: Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này… Đây là một Chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai… Rồi chàng kể cách thức làm giường cùng các chi tiết độc đáo của nó. Chàng băn khoăn, sốt ruột hỏi cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ hay đã có người chặt gốc cây Ô-liu mà dời nó đi nơi khác?
Như vậy là Uy-lít-xơ đã chứng minh được mình chính là người chồng yêu quý mà nàng Pê-nê-lốp đang mỏi mòn đợi chờ, trông ngóng. Nghe chàng nói vậy, nàng bủn rủn cả chân tay… bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng và nói: Uy-lít-xơ! Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi Thần linh đã dành cho hai ta một số ít phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác… Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp… Vì vậy chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Những lời tâm huyết của ngựời vợ xinh đạp, thuỷ chung khiến Uy-lít-xơ muốn khóc. Chàng ôm lấy người vợ xiết bao thương yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề. Uy-lít-xơ trở về có lẽ cao trào của cảm xúc nhân vật, cảm xúc tác giả và cảm xúc người đọc đã gặp nhau ở đây, cộng hưởng và thăng hoa để trở thành bất diệt! Đó cũng chính là những yếu tố làm nên chất lãng mạn bay bổng trong nghệ thuật cùng chất nhân văn sâu sắc trong nội dung ý nghĩa của đoạn trích này.
Nhà thơ mù Hô-me-rơ của văn học Hi Lạp cổ đại xứng đáng là bậc thầy của những thiên trường ca – sử thi có sức sống muôn đời trong tâm hồn nhân loại.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 1
Hô-me-rơ là một nghệ sĩ mù người Hi Lạp, ông được xem là người sáng tạo hai sử thi nổi tiếng của đất nước Hi Lạp là “Ô-đi-xê” và “I-li-át”. “Ô-đi-xê” là tác phẩm sử thi dài 12110 câu với 24 khúc ca, là câu chuyện kể về chàng Uy-lít-xơ với hành trình trở về quê hương, đồng thời tác phẩm còn dựng lên bức tranh hào hùng của những người dân Hi Lạp trong công cuộc chinh phục tự nhiên, mở rộng đất đai. Đặc biệt, đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” – đoạn trích nằm ở khúc ca thứ 23 là một trong các số những trích đoạn đặc sắc của tác phẩm. Đọc “Uy-lít-xơ trở về” giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về khung cảnh đoàn tụ của hai vợ chồng Uy-lít-xơ sau 20 năm xa cách cũng như vẻ đẹp trí tuệ, tài năng của chàng.
Sau 20 năm trời đằng đẵng xa cách, trải qua biết bao nhiêu thử thách, Uy-lít-xơ cũng trở về với quê hương yêu dấu. Nhưng lúc trở về cũng chính là lúc chàng phải đối diện với hơn 108 kẻ quyền quý đến cầu hôn vợ của chàng – Pê-lê-nốt với mục đích chiếm đoạt tài sản, bằng trí thông minh, chàng cùng con trai đã đánh đuổi được chúng. Trong bộ dạng của một người hành khất, Uy-lít-xơ đã trở về ngôi nhà của mình, mọi người trong gia đình đều rất vui, song chỉ có Pê-lê-lốp vẫn còn những nghi ngờ.
Trước sự xuất hiện của Uy-lít-xơ, nhũ mẫu Ơ-ri-clê rất vui mừng và phấn khởi báo tin cho Pê-lê-lốp. Không dừng lại ở đó, nhũ mẫu còn đưa ra 1 loạt các bằng chứng để chứng minh, thuyết phục với Pê-lê-lốp rằng người hành khất ấy chính là Uy-lít-xơ. Nhũ mẫu Ơ-ri-clê đã thuyết phục Pê-lê-lốp bằng đặc điểm trên chính cơ thể của Uy-lít-xơ đó chính là vết sẹo do bị lợn lòi húc. Thậm chí, nhũ mẫu đã dùng cả tính mạng của mình để đánh cược với Pê-lê-lốp với hi vọng nàng chấp nhận đấy là Uy-lít-xơ: “Già đem tính mạng của mình để đánh cuộc với con: Nếu già lừa dối con thì con cứ đem giết già bằng cách nào tàn ác nhất”.
Trước những lời nói của nhũ mẫu, Pê-lê-lốp nửa tin nửa ngờ, nhưng với bản tính của một người phụ nữ thông minh, nàng vẫn luôn cẩn trọng trong từng lời nói và suy nghĩ, nàng đã đáp lại nhũ mẫu 1 cách đầy cẩn trọng: “Dù có sáng suốt đến đâu cũng không hiểu được hết ý định của thần linh bất tử”. Và để rồi, đến lúc xuống nhà gặp Uy-lít-xơ, trong lòng Pê-lê-lốp chất chứa bao nỗi niềm tâm trạng. Nếu như lúc chưa xuống gặp, nàng phân vân, do dự không biết nên làm như thế nào “Không biết nên đứng ra xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn” thì lúc xuống nhà gặp Uy-lít-xơ, nàng “ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ dạng rách mướp.”
Trước thái độ của Pê-lê-lốp với Uy-lít-xơ, Tê-lê-mác với lòng khao khát cháy bỏng gia đình sớm được đoàn tụ đã trách móc mẹ của mình. Tê-lê-mác trách mẹ “tàn nhẫn và lòng mẹ hung ác quá chừng” và “lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”. Trước những lời trách móc của con, Pê-lê-nốp vẫn rất mực thận trọng đáp lại với con rằng: “Lòng mẹ kinh ngạc quá chừng, mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han cũng không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thật đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau 1 cách dễ dàng”. Lời nói của Pê-lê-nốp đối với con cũng chính là những gì mà Pê-lê-lốp muốn nói với Uy-lít-xơ, đồng thời, lời nói ấy cũng chính là sự hé mở cho thử thách mà Pê-lê-lốp muốn Uy-lít-xơ thực hiện.
Trước những lời nói của Pê-lê-lốp, Uy-lít-xơ có phần mặc cảm về bản thân mình nhưng đồng thời, qua lời nói của chàng với con cũng cho thấy chàng đồng ý chấp nhận thử thách của Pê-lê-lốp nhưng cũng có lời trách móc nàng “các thần trên núi Ô-lem-pơ ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối”. Nói rồi, chàng bảo nhũ mẫu chuẩn bị cho chàng một cái giường để chàng nghỉ ngơi nhưng thực chất là để nói về cái giường – bí mật của hai vợ chồng chàng. Lúc đấy, Pê-lê-lốp sai nhũ mẫu khiêng giường ra cho Uy-lit-xơ, điều đó làm cho chàng hết sức ngạc nhiên. Và rồi, chàng đã kể lại tường tận, tỉ mỉ từng chi tiết, từng đặc điểm một của chiếc giường. Và lúc này đây, Pê-lê-lốp không còn bất cứ điều gì để phải nghi ngờ, phân vân, do dự nữa, nàng “chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng”. Có lẽ, đó chính là giây phút hạnh phúc nhất của tất cả mọi người trong gia đình – niềm hạnh phúc của sự đợi chờ, của sự mong ngóng trong suốt 20 năm dài đằng đẵng. Đặc biệt, lời nói của Pê-lê-lốp sau khi nhận ra chồng mình đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn, tài trí, thông minh sắc sảo của nàng.
Tóm lại, đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” với việc sử dụng các chi tiết nghệ thuật cụ thể, cách kể chuyện chi tiết đã tái hiện thành công khung cảnh đoàn tụ hạnh phúc viên mãn của Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp sau 20 năm xa cách, đồng thời, qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ của hai nhân vật.
Bài văn phân tích tác phẩm “Uy-lít-xơ trở về” số 5
Sử thi Ô-đi-xê – một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học của Hy Lạp, một tác phẩm được chắp bút bởi tác giả Hô-me-rơ, nội dung kể về 1 cuộc hành trình trở về quê hương và đoàn tụ với gia đình của chàng Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” đã tái hiện lại cảnh đoàn tụ của gia đình Uy-lít-xơ và đặc biệt tác giả đã vô cùng thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng của Uy-lít-xơ, tạo ấn tượng cho người đọc.
Để trở về quê hương, Uy-lít-xơ đã đóng giả làm người hành khất, chàng còn nhận ra được âm mưu của bọn người xấu, bọn cầu hôn muốn chiếm đoạt tài sản của gia đình chàng. Chàng bày mưu tính kế, tiêu diệt được kẻ thù, chiến thắng tất cả và trở về ngôi nhà của mình vẫn trong hình hài người hành khất. Uy-lít-xơ kiên nhẫn chờ đợi sự đón tiếp của người vợ, chàng cũng mặc cảm với chính mình, bởi lúc này người chàng mặc bộ quần áo “bẩn thỉu, rách rưới”, nhưng không nguôi nỗi mong ngóng người vợ thân yêu nhận ra mình.
Trước sự lạnh nhạt của người vợ, chàng đã vô cùng đau xót, nhưng vẫn bình tâm, chờ đợi, bởi chàng hiểu người vợ của mình. Chàng có một chút tủi hờn khi mà người vợ đứng xa mình, còn không có ý định nói chuyện với mình. Khi Tê-lê-mác – người con trai yêu dấu đã lên tiếng trách móc mẹ vì “tàn nhẫn, độc ác”, không chịu nhận cha, nhưng Uy-lít-xơ đã ngăn con làm điều đó, chàng đã nhẫn nại, mỉm cười với con. Sau khi tắm rửa xong, ai ai cũng phải công nhận chàng “đẹp như một vị thần”, ấy vậy mà người vợ của chàng vẫn thờ ơ, Uy-lít-xơ đã không khỏi tủi hờn trước trái tim “sắt đá” của vợ mình. Chàng giận dỗi, rồi sau đó gợi ý cách chứng minh mình là chồng của nàng.
Chàng nhờ nhũ mẫu kê riêng một chiếc giường để ngủ riêng. Chàng đã không khỏi bất ngờ và giật mình khi nghe chính người vợ của mình bảo nhũ mẫu khiêng chiếc giường của họ cho chàng. Bởi chàng biết bí mật về chiếc giường, chàng đã giải thích cho vợ nghe về bí mật, rằng một trong các bốn chiếc chân giường làm bằng gốc cây ô liu nên không di chuyển được. Sau lời đó, chàng đã nhận được cái ôm chầm của người vợ thân yêu.
Cảm xúc hạnh phúc của chàng được nâng tới đỉnh điểm khi người vợ đã chấp nhận chàng, họ ôm chầm lấy nhau trong sự hạnh phúc vô bờ bến, chàng cẩn thận nghe từng câu chuyện giãi bày của vợ. Sau bao năm xa cách, Uy-lít-xơ vẫn chứng minh được tấm lòng của mình với vợ, chàng là không chỉ là một con người thông minh mà còn là một người chồng yêu thương vợ sâu sắc.
Chỉ trong một đoạn trích ngắn, tác giả đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật; ông miêu tả tỉ mỉ, 1 cách chi tiết về cuộc sống của các nhân vật. Tình huống được ông dẫn dắt giàu kịch tính cùng với giọng văn chậm rãi đã mang đến cho người đọc hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Qua đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” , diễn biến tâm trạng của Uy-lít-xơ vô cùng phức tạp, nhưng đến cuối cùng chàng vẫn được hạnh phúc đoàn tụ bên gia đình. Uy-lít-xơ là một nhân vật điển hình cho người đàn ông có khát vọng tìm hiểu chinh phục thế giới, là một người có ý chí, nghị lực, quyết tâm xây dựng và bảo vệ gia đình.
Có thể bạn thích: