Tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Mời các bạn tham khảo một số ít bài văn phân tích tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 7
Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
(Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)
Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần – Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong các những điều làm nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa. Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời tư tưởng ấy.
Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc về lối sống cá nhân, một trong các những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc “lấy dân làm gốc” để luận bàn về việc nhân nghĩa thông thường.
Cách hành xử đối kháng thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ XX, cũng “suy rộng ra” từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của dân tộc.
Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân. Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.
Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên 1 cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản “tuyên ngôn”. Ông khẳng định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục, có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra.
Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi, sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.
Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: “Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên.
Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế suốt 20 năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha.
Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi viết: “Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?”. Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.
Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại nhục nhã, ê chề kẻ địch.
Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình, dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của đội quân nhân nghĩa.
Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc.
Việc cấp cho chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại thắng?
Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là “mỏ quặng quý” phải khai thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, “dân vi bản” (lấy dân làm gốc). Lòng yêu nước thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai.
Bởi vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc, cũng là một trong các những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.
Nguyễn Trãi – Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng… đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 3
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình Ngô”, tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở. Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa’’ trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân”. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt.
Như vậy có nghĩa là “việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “việc” cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội án “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt. “Quân điểu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa – chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Thế mà nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược… Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện 1 cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”. Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh bình”… đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”.
Chúng ta có cái thế để “xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 – Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân.
Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy.
Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lẩy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn” khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 8
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”.
Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngay nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.
Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.
Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, dành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sử ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh.
Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cùng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”.
Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.
Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước.
Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.
Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 7
Có thể thấy được “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đó chính là một minh chứng hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ có thể nhận thấy được rằng xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác giả khai thác, đào sâu. Ta như có thể khẳng định được triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đúng là những quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy đường như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
Có lẽ chính cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và hơn nữa nó cũng như chính là lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Ta có thể khẳng định toàn bộ bài tư tưởng nhân nghĩa chính là một sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Xem thêm Nghị luận xã hội về danh và thực
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ta như nhận thấy được “nhân” và “nghĩa’ dường như cũng chính là đạo lí ở đời, và ta như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo” thì ‘nhân” đã như thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân xã tắc được bình yên.
Ta có thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ bạo. Do đó mà có thể thấy được chính tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem lại hạnh phúc cho người dân. Có lẽ cũng chính vì thương nhân dân mà cần dựng cờ khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đặc sắc và sâu sắc trong “Bình Ngô đại cáo” dường như đã quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân… xuyên suốt tác phẩm.
Tư tưởng ấy dường như rõ ràng, không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Có lẽ chính vì nhân nghĩa nên ông xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh nhứ thiêu lửa đốt, và có những hành động như đã đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành động thật nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể đó chính là chống quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Ta như thấy được triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca “Bình Ngô đại cáo’. Và hơn hết chính tác phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang trọng, tự hào biết bao nhiêu:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nguyễn Trãi- Đại anh hùng của dân tộc dường nhưu cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người Việt Nam. Ta như thấy được chính tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.
Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không vì sự tàn ác của giặc mà trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó có thể chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.
“Bình Ngô đại cáo” chính là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và nó dường như cũng chính là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Đó chính là việc toát lên tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời sau.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 9
Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.
Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một bàn chân lí ngay trong hai câu mở đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tư tưởng ẩy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muôn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó 1 cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…
Có nghĩa là chúng đã ngạo ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc lấy thảm họa vào thân. Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhăn để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kêt son sắt tạo ra những chiến lược, chiến thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:
Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh
Thừa thẳng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về…
Quân thù bị đẩy vào tình thế khôn đốn, cùng đường:Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặmTốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm…Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt…Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp…Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàngTướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã: quỳ gối đầu hàng:
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh.
Lại chu cấp cho chúng nào thuyền, nào ngựa để trở về cố quốc.
Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:
Xã tắc từ đây vững bền,………
Ai nấy đều hay.
Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 5
“Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nước Nam, sau bài “Nam quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt. Đọc những câu thơ hùng hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo. Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.
Tư tưởng nhân nghĩa không phải là tư tưởng quá lạ đối với nước Nam. Đây là tư tưởng đã được Nho giáo nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên với nho giáo thì nhân nghĩa chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi thì quan điểm nhân nghĩa của ông không phải bao hàm nội dung rộng như vậy. Đối với ông – nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là “yên dân”:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Với hai câu thơ trên đã khái quát được tư tưởng nhân nghĩa lớn lao của Nguyễn Trãi đối với dân với nước. Ông không suy nghĩ sâu xa, không như Khổng Tử. Đối với ông nhân nghĩa thực ra là khái niệm rất gần gũi với đời thường. Để có đất nước thống nhất hòa thuận, trước hết cần phải “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”.
Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi ‘dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù.
Nguyễn Trãi xem những hành động tàn bạo, man rợ của các nước chư hầu cuối cùng sẽ bị trừng phạt thích đáng. Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, nhân nhượng hay thỏa hiệp mà nhất định phải dùng lòng dân và sức dân:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Đối với ông thì việc nghĩa luôn chiến thắng việc gian ác và những kẻ xảo quyệt sẽ bị đền tội. Với giọng văn hùng hồn, quyết liệt, ông đã thuyết phục được người đọc về thuyết nhân nghĩa thời bấy giờ, còn có ảnh hưởng cho đến ngày nay. Nếu như trước đây Lý Thường Kiệt nêu ra định nghĩa về độc lập là việc khẳng định chủ quyền thì sang Nguyễn Trãi, ông đã hùng hồn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
“Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Tư tưởng ấy rất thiết thực và phù hợp đối với hoàn cảnh của đất nước ta. Sức mạnh của nhân nghĩa đã tạo nên những chiến thắng vang dội núi sông:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt đó chính là nhờ sự đoàn kết, lấy ích địch nhiều của nhân dân ta. Không phải dân tộc nào cũng có thể làm được như vậy, dân tộc ta là dân tộc lấy dân làm gốc, mọi việc do dân và làm vì dân. Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ở ý chí cũng như sự đoàn kết của nhân dân mà còn thể hiện thái độ đối với quân Trung Quốc khi thất thủ. Quân và dân ta không giết hại mà còn dành cho “Đường hiếu sinh”.
Chỉ với những hành động đó đã đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, không triệt đường của kẻ khác thật đáng ngưỡng mộ. Chính tư tưởng nhân nghĩa mang đậm nhân đạo đó đã giúp cho đất nước ta được tự do, độc lập, thoát khỏi ách nô lệ 4000 năm lịch sử;
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Một lời khẳng định chắc nịch, như một hồi chuông vang lên để cho mọi người trên thế giới này biết được rằng đât nước Việt Nam đã có chủ quyền, đã thực sự hòa bình và thống nhất.
Cho đến bây giờ, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố nhưng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó giúp cho đất nước ta có được nhiều thành tựu vang dội như hiện nay. Gấp trang sách lại nhưng còn vang vọng đâu đây tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo của ông.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 2
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng
(Tố Hữu)
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa” trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Vậy nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là phải giữ “yên dân’’. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là từ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cách cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành tư tưởng xã hội. một nhiệm vụ cụ thể, nói như Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ dân như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống những người dân vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải bị trừng phạt.
Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp cải lương để châm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của lực lượng quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không lấy nhân thay bạo, mà ở đây sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là “hung tàn” là “cường bạo”.
Nướng dân đen trèn ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Tội ác ấy phải bị trừng phạt “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: Tập hợp thành đội quân “đại nghĩa – chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương nhân dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước.
Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh Ngô, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu một quan điểm về quyền dân tộc và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học. Trong những lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Trải qua bao biến động lịch sử, Nguyễn Trãi nói lại cái chữ đế đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử. có phong tục và có văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu sẽ phải chịu thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Thế mà nay bọn giặc Minh:
“Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư? (Bài 8 Quân Trung từ mệnh tập). Cái thế đứng của một dân tộc có và trọng nhân nghĩa ấy sẽ bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược… Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống manh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện 1 cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông…
Miêu tả cuộc tổng tấn công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”. Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn bó với nhân nghĩa mà chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc. Chúng ta không vì sự man rợ của giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người ta là hoa của đất” do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “Bốn phương biển cả thanh bình,”… Đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”.
Chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều dó khi bọn giặc “đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được “nghĩ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ quân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất cảm thông với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại muôn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi đồng cỏ” (Bài 28 – Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân.
Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quôc và “Bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích kì diệu, bao chiến công lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mĩ Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những tên giặc lái.
Bọn chúng đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta tàn phá đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho nhân dân trên mọi miền đất nước, vậy mà khi bắt sống chúng, ta vẫn đối xử nhân đạo cho và “khách sạn Hintơn”, và sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trao trả lại cho phía Mĩ. Phải chăng đó là được bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa thẳng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Đại cáo bình Ngô” số 4
Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV.
Nguyễn Trãi là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam trên các tư cách anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà sử học và địa lý học. Xem xét cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi, có thể khẳng định ông đã trở thành hiện thân cho sự chuyển giao thời đại từ Phật giáo Lý – Trần sang Nho giáo, người đặt nền móng tư tưởng văn hóa nghệ thuật cho thời đại Nho giáo thịnh trị, đặc biệt trong buổi đầu còn rực sáng ánh hào quang của tinh thần phục hưng dân tộc và ý nghĩa nhân văn nhân đạo cao cả.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là ngôi sao rực rỡ trên văn đàm thế kỷ XV, những tác phẩm thơ văn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm như ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập hay những áng văn chính luận như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc, cho nước nhà có thể xem là những đóng góp xuất sắc, đa dạng cả về mặt nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật.
Ngày xưa Khổng Tử đã từng quan niệm “Thi dĩ ngôn chỉ”- Thi ca không chỉ thể hiện tình cảm con người, mà còn thể hiện tư tưởng con người. Nguyễn Trãi không chỉ là một thi sỹ mà còn là một nhà triết gia, một nhà tư tưởng. Thi ca của Nguyễn Trãi đã phản ánh rõ tư tưởng của tác giả. Đó là tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo hòa hợp nhau mật thiết trong con người ông. Trong đó Nho giáo là xu hướng nhân đạo rõ nhất trong tác phẩm Nguyễn Trãi. Tư tưởng ấy thể hiện rõ ở lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn về nền văn hiến của dân tộc.
Trên cơ sở đó Nguyễn Trãi đã dùng nhân nghĩa làm nguyên lý, làm lập trường chống lại quân xâm lược nhà Minh. Trong phạm vi bài viết nhỏ này chúng tôi đề cập đến một khía cạnh, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong thơ Nguyễn Trãi và đi vào một tác phẩm cụ thể – Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phấm “BìnhNgô đại cáo”.
Trong cuốn “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc”, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết “Triết lý nhân nghĩa Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Ta có thể khẳng định tinh thần suốt một đời nhân nghĩa, suốt một đời phấn đấu không ngừng của ức Trai không một bài văn bài thơ nào thể hiện mức độ kết tinh như Bình Ngô đại cáo.
Một tác phẩm lớn mang tầm tư tưởng lớn, một luận văn tổng kết lịch sử tư tưởng yêu nước Đại Việt, dưới hình thức một áng văn, một “Thiên cổ hùng văn”. Bình Ngô đại cáo chính là sự chung đúc những tinh hoa của tư tưởng yêu nước Việt Nam, đến Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Trãi đã được nâng lên một tầm cao chưa từng thấy trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước khi nhà yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh gặp chủ nghĩa yêu nước Mac – Lênin.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo được thể hiện ở lòng tự hào về ý thức dân tộc, về nền văn hiến dân tộc. Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, căm thù giặc, diệt bạo tàn mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.I. Nhân nghĩa là niềm tự hào dân tộc về độc lập chủ quyền, nền văn hiến dân tộc:
Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, chúng ta có thể thấy Nguyễn Trãi đã nêu cao giá trị của truyền thống dựng nước và giữ nước. Tư tưởng yêu nước được thể hiện trước hết ở lý luận về độc lập dân tộc, về chủ quyền quốc gia. Lý luận đó được người Việt Nam nhận thức bổ sung và nâng cao, làm phong phú thêm bằng thực tiễn dựng nước và giữ nước. Ông cha ta luôn khẳng định Việt Nam là một dân tộc có núi sông, bờ cỏi, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời.
Đó là điều cốt lõi để khẳng định ý thức tự tôn của một dân tộc, chống lại âm mưu thôn tính, đồng hóa của Trung Quốc, khẳng định sức mạnh quật cường của dân tộc. Trong bài thơ “Thần” Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt đã khảng khái tuyên bố:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư.
Nếu như trong Nam Quốc Sơn Hà, ý thức dân tộc được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ, chủ quyền, mới chỉ dừng lại ở phân chia núi sông bờ cõi, thì đến với Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định thêm ba yếu tố phong tục, văn hiến, lịch sử.
Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Định, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Qua đây, ta có thể thấy Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thấy được vai trò văn hóa trong việc cấu thành dân tộc; cũng là người đầu tiên khẳng định sự tồn tại độc lập của nền văn hóa Đại Việt, dứt khoát tách khỏi quỹ đạo của văn hóa phương Bắc. Trong quan niệm về độc lập chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến (Văn: văn chương sách vở…; Hiến: hiền tài hào kiệt) là yếu tố cơ bản nhất để xác định, khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Đây chính là điều mà kẻ thù luôn luôn phủ định, không thừa nhận và tìm mọi cách xóa bỏ. Sự khẳng định dứt khoát của Nguyễn Trãi về văn hóa, về con người Việt Nam trong Bình Ngô đại cáo là sự trả lời cho tư tưởng phân biệt giữa “Hoa hạ” và “Tứ di” vốn là tư tưởng phản động của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đặc biệt triều Minh – Triều đại xâm lược tàn bạo đất nước ta, mưu toan hủy diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc của ta.
Nguyên lý về nhân nghĩa phải đứng trên lập trường của chính nghĩa. Khẳng định chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đưa ra những minh chứng đầy sức thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã…
là những chứng cứ khẳng định cho sức mạnh của dân tộc ta.Theo quan niệm tư tưởng của Nguyễn Trãi “Nhân nghĩa gắn liền với văn hóa, văn hiến, văn minh”. Chính nó tạo nên thế đứng độc lập ngang hàng với bao nhiêu triều đại phương Bắc trong quá khứ, nền văn hiến không những được đánh dấu ở “Núi sông bờ cõi” mà còn ở “Phong tục Bắc Nam”. Phong tục của một dân tộc nói lên lối sống cao đẹp của dân tộc ấy. Sức mạnh của một dân tộc được khẳng định, thể hiện ở sự bền vững của những phong tục tốt đẹp nhất.
Người Đại Việt từ ngàn đời nay luôn mang trong mình đạo lý tốt đẹp, luôn có tình yêu thương, sẻ chia đùm bọc, đoàn kết gắn bó một lòng, có tình tương thân tương ái “Chị ngã em nâng”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Dù kẻ thù có ra sức đồng hóa, hủy diệt, phủ nhận thì người Việt Nam vẫn khẳng định được thế đứng của mình, khẳng được vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, là dựa vào dân mà cứu nước:Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo cùng với việc khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa của dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu thương con người, là mưu cầu cho hạnh phúc muôn dân. Mở đầu Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Chỗ dựa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi ở đây là dùng lời lẽ của thánh hiền, dùng luận đề của nho giáo “Hàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa là “Trên thuận theo lòng hiếu sinh của trời, dưới cứu thoát nhân dân từ trong nước sôi lửa bỏng”. Như vậy nhân nghĩa chính là thương dân, là mong muốn cho dân được hưởng cuộc sông thái bình. Cho nên “Đánh kẻ có tội, cứu vớt nhân dân là thánh nhân làm việc đại nghĩa”.
Theo quan niệm đạo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử thì việc triều đại nhà Minh dấy binh xâm lược nước ta, hòng thôn tính huỷ diệt Đại Việt chính là hành động bạo ngược, trái ngược với đạo lý, với ý trời lòng dân. Với một triều đại tôn sùng Nho giáo, hay nói cách khác là luôn mở miêng rêu rao đạo lý thì việc đi ngược lại thánh hiền là hành động sai trái, là tội ác tày trời. Bằng tấm lòng yêu nước sục sôi, thương muôn dân phải sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, Nguyễn Trãi đã vạch trần lên án, tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa, vạch trần luận điệu bịp bợm “Phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
(Bình Ngô đại cáo)
Hành động của kẻ thù ở đây là hành động diệt chủng. Còn có ai mà chúng không hà hiếp dã man tàn khốc? Còn có ai mà chúng không bóc lột đến tận xương tủy. Tình yêu thương nhân dân hòa quyện với lòng căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Trãi đã dùng những lời văn thống thiết, những hình ảnh cụ thể trong đời sống thực của nhân dân để nói lên nỗi đau khổ của nhân dân, cũng như tội ác tàn bạo của kẻ thù. Đọc Bình Ngô đại cáo, ta thấy hiện lên hình ảnh những người dân vô tội không còn con đường sống. “Người bị ép xuống biển”, “Kẻ bị đẩy rừng sâu” và trước mắt họ là cá mập thuồng luồng, là hùm beo sói dữ. Tội ác của kẻ thù vừa tàn bạo, vừa rộng khắp.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Ngay cả những kẻ “Góa bụa khốn cùng” cho đến giống “côn trùng cây cỏ” củng khó thoát khỏi manh vuốt kẻ thù. Những kẻ tự xưng là có nền văn hiến, những kẻ tự cho mình thông hiểu đạo lý thánh hiền thực chất chỉ là loài quỷ dữ uống máu người không tanh.
Thằng há miệng đứa nhe răng
Máu mỡ no nê chưa chán
Tội ác của giặc Minh chất cao hơn núi, chúng tham lam vô độ, tàn bạo vô cùng, chúng đã dùng “Muôn nghìn kế”, “Dối trời lừa dân” tội ác ấy “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Nguyễn Trãi đã chỉ thẳng vào mặt kẻ thù, kết thúc bản cáo trạng bằng lời kết tội đanh thép.
Độc ác thay! Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay! Nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được.
Đây chính là vấn đề lớn đặt ra cho cả dân tộc, cho lịch sử. Bởi tội ác của kẻ thù là vô hạn, cái bạo ngược của chúng là vô cùng, tội ác ấy trời không dung, đất không tha. Theo quan điểm của thánh nhân, người quân tử phải làm nên đại nghĩa, phải cứu muôn dân thoát khỏi cảnh lầm than. Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân nghĩa xé tan bức màn dối trá “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà” nhà Minh lợi dụng chiêu bài “nhân nghĩa”, “Điếu dân phạt tội” để làm việc bạo tàn, để xâm lấn, bóc lột, giết chóc.
Nhân nghĩa mà như thế ư? Đó chỉ là sự dối trá, là chiêu bài của bọn “hung tàn”. Hành động của quân “cuồng Minh” là hành động diệt chủng, luận điệu “phù Trần diệt Hồ” chỉ là sự giả dối và tất cả những hành động bạo ngược của kẻ thù đã tự phơi bày bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác “bại nhận nghĩa nát cả đất trời”.
Và đứng trên lập trường chính nghĩa, Nguyễn Trãi khẳng định cuộc kháng chiến chống quân Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Người dân Đại Việt vốn yêu chuộng hòa bình, coi trọng tình hòa hảo các nước lân bang nhưng kẻ thù đã ngang nhiên xâm lấn, đã có những hành động bạo ngược khôn cùng. Vì thế chúng ta phải đứng lên.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của kẻ thù, cũng trên lập trường ấy, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu nước thương dân. Nhân nghĩa là “An dân”, Muôn dân yên thì phải tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc cho muôn dân, bởi vậy cuộc chiến tranh chống giặc Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa tiêu diệt bạo tàn.Trong xã hội phương Đông, nhân nghĩa là phạm trù cơ bản của đạo đức học.
Theo Khổng Tử “Nhân” là quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn; “Nghĩa” trách nhiệm đạo đức trong năm mối quan hệ đó. Trong đó quan hệ vua tôi là quan hệ trung tâm và đòi hỏi mọi người phải trung thành tuyệt đối với đạo lý ấy. Dân tộc ta không thừa nhận 1 cách tuyệt đối những điều ấy, và theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa là thương dân, yêu dân, giúp dân trừ bạo. Tình bằng hữu, mối quan hệ lân bang giữa nước lớn và nước nhỏ là điều đáng coi trọng, nhưng khi xâm hại đến hạnh phúc của muôn dân thì kẻ quân tử cũng trở thành “cường bạo”.
Kể cả vị hoàng đế nhà Minh, một kẻ được xem là con trời nhưng khi cầm quân xâm lược Đại Việt, gây ra những hành động bạo tàn thì cũng trở thành kẻ tiểu nhân và cũng bị Nguyễn Trãi chỉ thẳng tay vào mặt “Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng”. Qua đây ta có thể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo chính là yêu nước, thương dân, là đạo lý làm người.
Nguyễn Trãi đã chiến đấu, đã khẳng định sự tồn tại của Đại Việt, đã mạnh mẽ khẳng định sự ngang hàng của Đại Việt với các triều đại Trung Quốc. Không còn quan hệ Thiên tử – Chư hầu mà là sự bình đẳng. Và một khi thiên tử làm điều bạo ngược thì Đại Việt sẵn sàng đứng lên để bảo vệ độc lập dân tộc. Cuộc chiến tranh chống quân giặc Minh là cuộc chiến tranh vì đại nghĩa, cuộc chiến tranh vượt qua cương thường của Nho giáo truyền thống.Điều đáng chú ý trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi ở Bình Ngô đại cáo là phương sách cứu nước. Nói về nguyên nhân thất bại của nhà Hồ, Nguyễn Trãi viết
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Qua đây ta có thể thấy được nhà Hồ mất vương quyền chính là vì không được lòng dân, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, để nhân dân oán hận. Từ bài học ấy và cũng xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc, thấy được sức mạnh của dân là sức mạnh dời non lấp biển, ý dân là ý trời. Nguyễn Trãi đã chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân và cứu nước cũng là cứu dân thoát khỏi ách cường bạo.
Ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn đã phất lên trên cơ sở đường lối ấy. “yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người” (Phạm Văn Đồng “Nguyễn Trãi-Người anh hùng dân tộc”).Vì nhân nghĩa mà Lê lợi, Nguyễn Trãi đã “đau lòng nhức óc”, “Nếm mật nằm gai”, “Căm giặc nước thề không cùng sống”, dựng ngọn cờ thu phục nhân tâm.
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sỹ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
(Bình Ngô đại cáo)
Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò của nhân dân, đặc biệt của những người gọi bằng “manh lệ”. Đây là một sự phát triển vượt bậc so với tư tưởng yêu nước của thời đại Lý- Trần. Trong Hịch tướng sỹ Trần Quốc Tuấn không phải không biết biết vai trò của nhân dân, nhưng chỉ mới nghĩ đến “Khoan dân” làm kế sâu rễ bền gốc, chưa thấy được sức mạnh vai trò của nhân dân và quyền lợi được hưởng cũng chỉ dành cho Vương hầu, Tướng sỹ.
Trong khi đó ta có thể thấy rõ ở tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược, xét cho đến cùng yếu tố quyết định làm nên chiến thắng chính là nhân dân. Đến với Nguyễn Trãi, ta thấy ức Trai không chỉ nghĩ đến dân mà còn thấy được sức mạnh của nhân dân. Vì nước, vì dân ông luôn băn khoăn thao thức. Trong trái tim cuồn cuộn yêu thương, Nguyễn Trãi luôn dành cho dân những tình cảm thiết tha nhất.
Những lời văn thống thiết như máu cuộn trong tim, nỗi xót thương nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực, những lời kết tội đanh thép của Nguyễn Trãi trước kẻ thù-những kẻ gây bao điều bạo ngược cho dân là minh chứng cho tình yêu thương nồng nàn sâu sắc của ông. Cứu nước là cứu dân, muốn phất cao ngọn cờ nhân nghĩa là phải dựa vào dân mà cứu nước là tư tưởng mà Nguyễn Trãi đã thể hiện trong Bình Ngô đại cáo.
Trong suốt bốn ngàn năm lịch sử cha ông ta đã biết phát huy sức mạnh của nhân dân, xem đó là cơ sở làm nên chiến thắng, là một việc rất cơ bản trong tư tưởng yêu nước, là đường lối chính trị đứng đắn hợp mọi thời, mọi đời. Phát huy sức mạnh của nhân dân, đoàn kết một lòng từ trên xuống dưới chính là nhân tố tạo nên chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Tư tưởng yêu nước trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo không chỉ là ở chổ phát động cuộc chiến tranh hợp thời, hợp quy luật, biết phát huy sức mạnh như vũ bão của quần chúng nhân dân mà còn là ở chổ biết dừng cuộc chiến tranh đúng lúc kịp thời. Như Nguyễn Trãi đã từng khẳng định “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” lý do “Trừ bạo” là để “An dân”; ”Điếu phạt” là để muôn dân được sống trong hòa bình. Thì nay cuộc chiến tranh dừng lại cũng chính là để “An dân”. Vì thương dân mà “Đánh kẻ có tội” khi mục đích đã đạt ta phải để “dân nghỉ sức”.
Với bản chất “Chí nhân đại nghĩa” ta đã kết thúc cuộc chiến tranh với tấm lòng nhân ái bao la. Người Việt có câu: “Đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”, tính mạng của con người rất đáng quý, dù họ là người dân Việt Nam hay Trung Quốc, vì thế “Thần Vũ chẳng giết hại”, “mở đường hiếu sinh” đã thể hiện lượng khoan hồng cao cả. Rõ ràng sợi dây nhân nghĩa là mục đích khởi sự và cũng là cái đích cuối cùng. Tư tưởng nhân nghĩa cũng chính là tư tưởng hòa bình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản chất “Chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng ấy đã khẳng định vẻ đẹp nhân nghĩa của người Việt Nam từ xưa đến nay, vẻ đẹp của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh. Mục đích đánh lại kẻ thù ‘’ Diệt hung tàn” của chúng ta cũng chỉ vì yêu dân, yêu nước mà thôi.Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là yêu nước, cứu nước, cứu dân, chống giặc ngoại xâm, tiêu diệt bạo tàn vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân. Hiểu chữ nhân và nghĩa như thế thì Khổng Tử, Mạnh Tử và toàn bộ Nho giáo chưa bao giờ hiểu rõ.
Nguyễn Trãi – một con người “đầu đội trời, chân đạp đất” – một nhà tư tưởng của thời đại đánh giặc “cuồng Minh”, đã vượt qua được những hạn chế của Nho giáo truyền thống, vượt xa trên hành trình tư tưởng yêu nước của mình. Tư tưởng ấy, trí tuệ ấy đã kết tinh lại để Bình ngô đại cáo trở thành “Thiên cổ hùng văn”.
Bình ngô đại cáo là tấm gương soi của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Là tiếng vọng của ngàn xưa và mãi mãi về sau. Bình ngô đại cáo khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam, những con người đã sống, đang sống và sẽ sống như thế. Từ ngàn xưa, hôm nay và mai sau, chúng ta luôn tự hào về lối sống, bản sắc của dân tộc. Tình đoàn kết yêu thương, đùm bọc, gắn bó sẻ chia giữa con người với con người mãi mãi vững bền.
Tư tưởng yêu nước của cha ông ta, sự kế thừa và phát huy tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.Phát huy và kế thừa tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, suốt bốn ngàn năm văn hiến, người Việt Nam đã khẳng định được sức mạnh của mình.
Dù thời đại đổi thay, phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam vẫn không hề thay đổi. Người Việt Nam vẫn một lòng yêu nước thương dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm lẽ sống, phấn đấu cho một xã hội phồn thịnh, công bằng, hạnh phúc, văn minh.
Có thể bạn thích: