Nguyễn Bính được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của làng quê Việt Nam. Thơ của ông mang bản chất trữ tình hồn hậu, chân chất như chính tính cách của … xem thêm…những người nông dân hiền lành chất phác. Bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập Lỡ bước sang sang (1940) đã cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật đặc trưng này của nhà thơ.
Bài tham khảo số 4
Mưa xuân Nguyễn Bính là một bài thơ hay và đầy ấn tượng bởi nó đã vẽ nên bức tranh của một làng quên yên ả thanh bình. Ở đây có hình ảnh hội làng, có nỗi lòng của người con gái đã đến tuổi cập kê. Một câu chuyện tình yêu đẹp để lại bao vương vẫn nhưng rồi lại đầy nuối tiếc. Đây là một đề tài viết về mùa xuân như bao đề tài khác. Tuy nhiên chúng ta sẽ cảm nhận được một điều khác biệt ở trong bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính
Mưa xuân Nguyễn Bính là câu chuyện về mùa xuân tuy nhiên mở đầu bài thơ lại không phải là khung cảnh thiên nhiên mà chính là hình ảnh của con người. Đó là một cô thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Các cô gái đẹp thường được khắc họa trong các bài thơ. Và cô gái trong Mưa xuân cũng vậy, đó là một cô gái đẹp với tấm lòng trong sáng. Sở dĩ biết được điều này bởi cô được tác giả so sánh như một vuông lụa trắng vẫn chưa được mẹ bán chợ làng xa. Tức là đến tuổi nhưng vẫn chưa có chồng. Tuy có vẻ tượng hình nhưng cũng đầy tinh tế. Cô chính là một mẫu người thôn quê trong trắng và thuần khiết. Với vẻ đẹp đó làm con người ta không khỏi liên tưởng tới Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông.
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.
Sau khi tả người tác giả mới dẫn con người ta vào khung cảnh thiên nhiên. Đó là mưa xuân vào một buổi chiều. Và khi đó cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ co bỗng nhiên vui tươi thêm. Có được điều này bởi đoạn “mưa xuân phơi phới”. Đó cũng có thể không phải mưa xuân phơi phới mà chính là lòng em đang phơi phới xuân thì. Chính cái xuân của con người làm cảnh sắc xung quanh cũng thêm xuân.
Bữa ấy mưa xuân phơi phơi bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay
Rồi hội chèo làng Đặng đi qua ngõ làm cho khung cảnh thiên nhiên vốn yên bình nay bị phá vỡ. Chính điều này đã làm cho thiếu nữ đang ngồi dệt vải bên khung cửi lại thêm mong ngóng phấn khởi. Sự phấn khởi ấy cũng chính là cảm giác bối rối e lệ của cô gái mới biết yêu lần đầu.
Có phải cô ngừng thoi lại là bởi lòng đã giăng tơ một mối tình. Bởi chí có như vậy cô mới đỏ mặt. Và với những người yêu thơ, trong Mưa xuân, có thể cô gái đổ mặt bởi :Có lẽ là em nghĩ tới anh”
Câu chuyện mưa xuân được viết lên thêm với sự chờ đợi của cô thiếu nữ. Bao giờ cũng thế khi mới biết yêu con người ta cũng sẽ thêm phần lãng mạn hơn. Đó là khi cô ra trước hiên nhà để đón nhận những hạt mưa nhẹ nhàng rơi xướng.
Có điều cô không thực sự để tâm xem trời có mưa hay không bởi trong lòng đã giăng đầy tơ. Đó là một hình ảnh rất đẹp đối với thơ ca. Dẫu lạnh giá nhưng cô gái không cảm thấy mưa lạnh bởi trong lòng chỉ nghĩ thế nào anh ấy chẳng sang xem.
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chả sang xem!
Chính vì lòng người có tình yêu nên những câu thơ được viết lên cũng có hồn hơn. Bởi trong lòng nghĩ tới anh ấy nên cũng không ngại dẫu trời đang mưa. Từ vội vàng cũng xuất hiện thật đúng úc cũng như đúng với diễn biến tâm trạng của người thiếu nữ.
Nó giống như cô gái đang vội vàng đến thôn Đoài để nghe hát nhưng thực chất cũng chẳng phải nghe hát đâu. Mà bởi vì em muốn gặp anh. Vì vậy có thể nói lòng phơi phới không phải vì mưa xuân mà là lòng đang xuân.
Cô gái đi xem hát chèo, họ hát thâu đêm chắc là vui lắm những cô nàng lại không quan tâm. Bởi khi này mới biết yêu nên cô nghĩ tới chỉ có anh. Tuy nhiên anh đã không đến. Cảm xúc khi ấy mới buồn làm sao. Bởi khi con người ta mong mỏi nhiều cũng chính là lúc con người ta dễ thất vọng nhất. Những câu thơ này diễn tả được cảm xúc khi ấy của cô nàng rất thật mà cũng rất nhẹ nhàng.
Họ đã gặp nhau ở đám hát bên làng hôm nọ và anh chàng đã hẹn năm tao bảy tiết hò hẹn và cô gái đã tin tưởng. Nhưng hôm nay cũng chỉ thấy mùa xuân thật bẽ bàng. Rõ ràng đã hẹn hò rồi nhưng lại không đến làm cho cô nàng thêm bơ vơ, buồn bã. Bởi không gặp được người mình mong muốn nên mới cảm giác mùa xuân kia cũng thật bẽ bàng. Và cô nàng tội nghiệp ra về.
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ
Ðể mẹ em rằng hát tối nay?
Đám hát vẫn chưa tan nhưng đêm đã tàn. Rõ ràng ban đầu với tâm trạng phơi phới là thế nhưng cuối cùng lại chỉ còn sự bẽ bàng. Khi đó mưa xuân cũng đã biết buồn theo em. Mưa xuân giờ cũng ngại bay, hoa xoan thì giờ đã nát dưới thân dày.
Nó cũng giống như sự trông mong khắc khoải của cô nàng đã bị vỡ vụn theo chiều mưa hôm ấy. Tuy cô gái tủi nhưng cũng không mất hết hy vọng bởi lẽ cô vẫn nghĩ đó chỉ là chưa gặp mà thôi. Và chắc sẽ gặp lại dấu chưa biết bao giờ. Đó là một chút niềm tin còn sót lại báo víu vào.
Tính dân tộc và truyền thống: Nguyễn Bính viết nhiều bài thơ theo thể thơ dân tộc như thơ lục bát, và ông thường kết hợp các yếu tố văn hóa và truyền thống dân tộc vào trong tác phẩm của mình. Ông có sự hiểu biết sâu sắc về các giá trị văn hóa và tâm hồn dân tộc, điều này giúp thơ của ông gần gũi và dễ cảm nhận.
Bài tham khảo số 5
“Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng- khôn hay dại- chúng ta ngày một cố lìa xa nề nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh….. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường.” (theo Thi nhân Việt Nam). Nói thế để thấy chất thơ của Nguyễn Bính, giản dị trong từng câu chữ nhưng chính cái giản dị ấy đã tạo nên sự sâu sắc trong câu chuyện mà vần thơ của Nguyễn Bính truyền tài, đặc biệt thể hiện rõ trong bài thơ Mưa xuân của ông.
Mưa xuân được xem như một sáng tác đầu tiên trong quá trình sáng tác của ông. Bài thơ là tâm tư, là nỗi lòng thầm lặng của cô gái quê khi phải lòng một chàng trai quê. Một câu chuyện tình nơi thôn quê, chân thành và sâu sắc. Ngay từ đầu, tác giả đã khắc họa hình ảnh người con gái ấy:
“Em là cô gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ con như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.”
Người con gái ấy sống bên mẹ mình bằng nghề dệt vải, hình ảnh một người con gái dịu dành tóc rủ bên thềm ngồi miệt mài trước khung cửi, cô gái ấy như “cây lụa trắng” tức là vẫn rất tho mộng,chớm tuổi xuân đến. “Chưa bán chợ làng xa” tức là cô vẫn chưa được gả đi. Ngay câu đầu vẻ đẹp của người con gái đã được hiện lên một cách tự nhiên với câu thơ của tác giả. Rồi người con gái ấy, thì ra cũng đang mang trong mình một mối tình thầm kín với chàng trai làng bên. Mùa xuân đến, hội hè bắt đầu, cũng là cơ hội tốt để hai người được gặp nhau…
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy…
Có lẽ là em nghĩ đến anh”.
Mưa xuân bay đầy trời, hoa xoan lớp lớp rụng đầy trên ngõ, xuân về. Hội chèo làng Đặn qua ngõ, mẹ nói “Thôn Đoài hát tối nay.” Thôn Đoài có hội, thôn Đoài chính là noi có chàng trai mà cô vẫn thương nhớ. Thế nên nghe tin ấy, lòng cô gái thấy xao xuyến, một mối tình đang giăng tơ trong lòng. Cô dừng đưa thoi, nghĩ ngợi thẹn thùng”hai má ửng đỏ”… cô đang nghĩ tới người mình yêu.
Chắc hẳn là cô sẽ đi xem hội, để mong gặp được chàng trai. Hai khổ thơ tiếp theo là tâm trạng ngổn ngang suy nghĩ của cô gái khi chuẩn bị đi.
“Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
…Thôn Đoài cách có một thôi đê.”
Khi nhà nhà lên đèn, màn đêm đến, đêm xuân chắc hẳn lạnh lắm “Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh”, cái lạnh ấy không là gì bởi lòng cô đang bừng lên ngọn lửa ấm ấp của tình yêu, của sự chờ mong, khát khao yêu thương. Cô thầm nghĩ rằng chắc hẳn anh cũng sang xem. Vội vàng đi, mưa bụi không làm áo cô ướt. Quãng đừng một thôi đê sao thấy ngắn thế, vì thôn Đoài bên kia là tình yêu của cô. Đường ngắn cũng là vì đến với tình yêu thôi.
Hội hè nhộn nhịp. liệu cô có thấy chàng trai, liệu mong mỏi của cô có được đáp lại?
“Thôn Đoài vào hội hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem…
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng.”
Cô gái đến hội cũng chỉ là để tìm chàng trai, cô mải miết tìm không thiết xem gì cả. Rồi không thấy bóng chàng, một mình cô lại thoáng nhớ giường cửi, thôi ngà của mình. Nhớ những gì thân thuộc nhất, có lẽ đó cũng là cảm xúc bình thường của người con gái mỗi khi thấy bơ vơ, họ thường hay nghĩ về những gì thân thuộc nhất. Rồi thì, chàng trai ấy cũng không sang, sự chờ đợi của cô là vô ích.
Lời hò hẹn kia với chàng trai chắc hẳn chỉ là một lời hứa nơi hội hè nhưng cô gái lại rất xen trọng, vậy nên cô mới than lên “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, mùa xuân hay chính là tuổi trả của cô gái, tình yêu sự trông mong của cô hay không vì lời hò hẹn của chàng trai thì giờ cô đã là người con gái của một người khác chứ không nhỡ nhàng thế này.
Sự chờ mong không được đáp lại, tình yêu khi đi giờ đã tàn vì thế mà cảnh vật và tâm trạng ở những khổ thơ còn lại mang nặng tâm trạng buồn, cảnh vật cũng nhuốm màu u ám, như đối lập hẳn với đoạn đầu.
“Mình em lầm lũi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!…
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày.”
Cô gái không gặp được chàng trai. Bước chân lầm lũi quay về. Lầm lũi, cái dáng gợi nên sao đàng thương đến thế, đáng thương và cô độc. Một thôi đê giờ đây “có ngắn gì đâu”, bước chân nặng trĩu như kéo dài cả đoạn đường. Mưa nặng hạt áo mỏng che sao hết, lạnh lẽo vây quanh khiến cô càng thêm đau buồn và tủi thân. Cô giận hờn chàng trai suốt cả quãng đường về, đến tận sáng hơn sau.
Ngày xuân, hội hè đã kết thúc rồi, chàng trai vẫn bặt vô âm tín khiến cô không thể bình yên. Cô thốt ra câu hỏi, chất vẫn chàng trai, câu hỏi mà chính cô cũng không đoán được câu trả lời. “Bao giờ em mới gặp anh đây?” Bao giờ hay mãi mãi là không bao giờ. Mùa xuân cũng đã cạn ngày rồi, niềm tin của cô vẫn còn nhưng nghe sao thật mỏng manh… Lời hứa hẹn với chàng trai vẫn luôn là nỗi trăn trở trong trái tim cô gái không thể giải đáp!
Ngòi bút đậm chất quê của Nguyễn Bính đã viết lên một câu chuyện về tâm tư, cảm xúc rung động của cô gái nơi thôn quê. Những diễn biến tâm lí đặc biệt được chú trọng, sự thay đổi của cảnh vật tương ứng với tâm trạng con người đã khiến bài thơ đem lại cho người đọc những cảm xúc và rung động sâu sắc.
Mưa xuân của Nguyễn Bính thực sự là bài thơ gây được ấn tượng với người đọc, ấn tượng bởi ngòi bút của nhà thơ, bởi câu chuyện mà ông xây dựng, cô gái bên khung cửi với tình yêu chân thành với chàng trai làng bên. Đặc biệt việc miêu tả cụ thể những cảm xúc của cô trong từng chặng đường tới gặp chàng trai. Đây quả thực là một bài thơ hay, tạo nên sự khác biệt của hồn thơ Nguyễn Bính.
Bài tham khảo số 6
Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội, mùa của đôi lứa hẹn hò, trao nhau những lời hẹn ước. Mùa xuân cũng là mùa của cảm xúc thơ ca, thăng hoa trong tâm hồn các thi sĩ. Trong dòng chảy thơ ca đương đại viết về mùa xuân, tôi đặc biệt yêu thích bài thơ Mưa xuân của thi sĩ Nguyễn Bính. Mưa xuân gợi nhớ tuổi hồng năm nào. Mưa Xuân phơi phới bay như tâm tình cô thiếu nữ, đã cuốn tôi ngược dòng về với những năm nửa đầu của thế kỷ 20.
Bài thơ Mưa xuân được Nguyễn Bính viết theo thể thơ tứ tuyệt trường thiên. Nội dung viết về mùa xuân ở vùng quê bắc bộ những năm nửa đầu của thế kỷ 20. Trong Mưa xuân có bức tranh làng quê ngày xuân, có hội làng, có nỗi lòng của một thôn nữ ở tuổi cập kê. Mưa xuân như một câu chuyện được thi sĩ kể bằng thơ.
Câu chuyện Mưa xuân, được thi sĩ mở đầu không phải cảnh đẹp xuân, không phải tiết trời xuân, mà là
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
Nhân vật trong thơ, người mà Nguyễn Bính muốn miêu tả ở đây là một thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Cảnh nhà đơn chiếc em “dệt lụa quanh năm với mẹ già”. Em còn trẻ được tác giả ví “như vuông lụa trắng”. tức vuông lụa chưa thành phẩm. Trong bài Mưa xuân, nhân vật ấy cũng không ngoại lệ. Bài thơ được nối tiếp sau phần giới thiệu bây giờ là:
Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.
Cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ con. Bỗng trở lên vui tươi ở khổ thơ này. Bởi một bữa “mưa xuân phơi phới bay”. Ta có cảm giác lòng em “phơi phới bay” chứ không phải “mưa xuân”. Hình ảnh hoa xoan (Sầu đông) là hình ảnh loài hoa hiện diện ở khắp các làng quê Bắc Bộ từ xưa đến nay, được thi sĩ đưa vào Mưa xuân với “hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.
Rồi “hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ” đã làm cho khung cảnh yên bình bị phá vỡ. Tiếng trống hội làng thúc giục, với tiếng loa của “hội chèo” cộng thêm “mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.làm cho “vuông lụa trắng” khấp khởi khi ngồi dệt bên khung cửi.
Mưa xuân đã xuất hiện trong thơ làm cho trời xuân khởi sắc, làm cho lòng người khấp khởi. Câu chuyện Mưa xuân vẫn đang tiếp tục được Thi sĩ kể rằng:
…Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ tới anh…
Ở đây có lẽ do “mưa xuân phơi phới” rồi “hội chèo” đi ngang ngõ. Hay lời nói của Mẹ đã làm cho “vuông lụa trắng” phải “ngừng thoi lại”. Vì sao “tay xinh”ngừng dệt? có phải bởi “lòng thấy giăng tơ một mối tình”. Tại sao mới chỉ “lòng thấy… “mà đã “hình như hai má em bừng đỏ”? Em sao lại ngượng ngùng khi mới chỉ “nghĩ tới anh”. Một khổ thơ với bao nhiêu câu hỏi, khiến người đọc phải suy ngẫm qua đi. Câu chuyện mưa xuân vẫn còn nối tiếp:
…Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên,
Mưa chấm tay em từng chấm lạnh,
Thế nào anh ấy chẳng sang xem
Trời đã buông màn nhung tối đen xuống, bao phủ làng quê. Nhà nhà đã lên đèn, Em lúc này mới để ý và ra “trước mái hiên”,làm một hành động rất đẹp “ngửa bàn tay” ra đón “mưa xuân phơi phới bay”. Mặc dù “mưa chấm tay em từng chấm lạnh”. Nhưng em không cảm thấy mưa lạnh đang rót vào tay mình từng hạt, mà em chỉ nghĩ tới “thế nào anh ấy chẳng sang xem”.
Mưa xuân đã xuất hiện như có tâm hồn “phơi phới bay”. Ở đây, chúng ta càng thấy rõ tài sử dụng từ ngữ tài tình của thi sĩ. “Vuông lụa trắng” khấp khởi trong lòng khi nghĩ tới “anh ấy” nên không ngần ngại dẫu ngoài trời đang mưa lạnh:
…Em xin phép mẹ, vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe,
Mưa bụi nên em không ướt áo,
Thôn Đoài cách có một thôi đê.
Bây giờ chúng ta mới thấy từ “vội vàng” xuất hiện. Sau khi em đã “xin phép mẹ”. Mẹ đồng ý nên “Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe”. Đọc tới đây, tôi có cảm giác em đã vội để đến “thôn Đoài”, dù chỉ cách một “thôi đê”. Chỉ có đi nhanh như bay thì “mưa bụi” mới “không làm em ướt áo” được.
Một điều tôi muốn nói rằng, tâm lý chung của mấy cô con gái mới biết rung động trái tim yêu lần đầu, khi nghĩ đến hẹn hò thì sẽ “chân sáo” để đi là cái chắc.
Nếu ai đã từng đi dưới sương đông, chắc hẳn biết nếu đi chậm sương cũng sẽ làm ướt áo, chứ đừng nói đến “mưa bụi”. dẫu “mưa bụi” là mưa nhỏ li ti đi chăng nữa. Câu chuyện Mưa xuân vẫn còn lôi cuốn ta đi theo sau khi em đến thôn Đoài mà không bị mưa bụi làm ướt:
…Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
“Hội Chèo làng Đặng” tới hát ở “thôn Đoài”, mùa lễ hội mà đặc biệt hôm nay, sẽ “Hát thâu đêm” tức tàn canh “đám hát” mới tan. Em đã xin phép mẹ đi xem hội. Vậy mà “Em mải tìm anh chả thiết xem”. Em có tìm thấy hay không? Giữa chốn đông người đi xem hát ấy, chưa biết.
Một khổ thơ diễn tả tâm trạng cũng như những lời trách rất thật, rất nhẹ nhàng của cô gái thôn quê. Hoá ra không dưng mà đầu câu chuyện Mưa xuân, em lại “hai má bừng đỏ” khi “nghĩ tới anh”.
Câu chuyện mưa xuân vẫn chưa dừng lại. Sau khi mưa xuân xuất hiện “phơi phới bay”. Rồi “mưa bụi không làm em ướt áo” và “mưa nặng hạt” đã trút lên đầu qua lớp “áo mỏng che đầu”. Bây giờ ta gặp lại mưa xuân và hoa xoan, hội chèo, mẹ bảo. Nhưng với hình ảnh khác:
…Bữa ấy, mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giầy
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”
Mưa xuân đã biết vui buồn theo em. Bây giờ mưa xuân “đã ngại bay”. Hoa xoan vẫn là hoa xoan rụng rơi trên mặt đất “bữa ấy”. Nó không còn lớp lớp dày” nữa mà giờ thì “hoa xoan đã nát” dưới chân giầy”. Bởi “hội chèo làng Đặng về ngang ngõ”. Thôn Đoài đã hết hội rồi. Còn mẹ lại bảo “Mùa xuân đã cạn ngày”.
Hội tan, gánh chèo rời đi.em đâu còn cơ hội để tìm anh nữa… Bao nhiêu hy vọng tiêu tan.Nỗi lòng “vuông lụa trắng”có lẽ là hình ảnh “Hoa xoan… dưới chân giầy”. Làm sao mà trong lòng không tan nát cho được khi mà đã tới thôn Đoài mà chỉ “tìm anh chả thiết xem”. Cuối cùng hết hội lủi thủi một mình “tủi với canh khuya”! Bây giờ thì “mùa xuân đã cạn ngày”. Hy vọng không còn em chỉ còn biết tự thầm thì với lòng mình, như đang nói với anh thôi:
…Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ bảo rằng: “Hát tối nay!”
Có thể nói, em đã không may mắn trong mùa xuân này! Với câu hỏi “bao giờ em mới gặp anh đây?” có nghĩa vẫn còn hy vọng. chỉ là chưa gặp thôi! Sẽ gặp! có điều là không biết “bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ”, để mà em lại được nghe “mẹ bảo rằng: Hát tối nay”! Lại đợi chờ… và hy vọng…
Nhà thơ Nguyễn Bính là ai?
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20. Ông được biết đến với phong cách thơ lãng mạn, giàu cảm xúc và tinh tế, và thường xuyên viết về tình yêu, thiên nhiên, và cuộc sống thường nhật.
Dưới đây là một số điểm nổi bật về Nguyễn Bính:
- Phong cách thơ: Nguyễn Bính nổi tiếng với phong cách thơ lãng mạn, trữ tình. Thơ của ông thường thể hiện những cảm xúc sâu lắng, nhẹ nhàng và tinh tế. Ông có khả năng tạo ra những hình ảnh đẹp và cảm xúc chân thành qua các bài thơ của mình.
- Tính dân tộc và truyền thống: Nguyễn Bính viết nhiều bài thơ theo thể thơ dân tộc như thơ lục bát, và ông thường kết hợp các yếu tố văn hóa và truyền thống dân tộc vào trong tác phẩm của mình. Ông có sự hiểu biết sâu sắc về các giá trị văn hóa và tâm hồn dân tộc, điều này giúp thơ của ông gần gũi và dễ cảm nhận.
- Chủ đề chính: Thơ của Nguyễn Bính thường xoay quanh các chủ đề như tình yêu, thiên nhiên, và cuộc sống thường ngày. Ông thể hiện sự quan tâm đến những điều giản dị trong cuộc sống và có khả năng làm cho những chủ đề quen thuộc trở nên mới mẻ và ý nghĩa.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bính bao gồm tập thơ “Lỡ bước sang ngang,” “Câu thơ Yên Thế,” và “Mộng Cầm Thúy.” Những bài thơ này phản ánh phong cách và nội dung đặc trưng của ông.
- Cuộc đời và ảnh hưởng: Nguyễn Bính sống trong thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam, và cuộc đời của ông cũng bị ảnh hưởng bởi các sự kiện lịch sử và xã hội. Mặc dù không phải là một nhà thơ chính trị, thơ của ông vẫn có giá trị văn hóa và nghệ thuật lớn, và ông được xem là một trong những tiếng nói quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Bính là một tác giả quan trọng trong nền thơ ca Việt Nam, và phong cách lãng mạn, trữ tình của ông vẫn được nhiều người yêu thích và nghiên cứu.
Có thể bạn thích: