Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, vẽ tranh, viết văn. Những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của con người hào hoa, lãng … xem thêm…mạn, đầy trữ tình. “Tây Tiến” là tác phẩm tiêu biểu thể hiện cho phong cách sáng tác thơ ca của ông với hình ảnh người lính hào hoa nhưng không kém phần lãng mạn. Bài thơ ngợi ca người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng đồng thời miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến rất riêng và thơ mộng. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây Tổ Quốc qua bài thơ “Tây Tiến” đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây:
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 4
Quang Dũng là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông cũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, hào hoa. Âm điệu thơ trầm hùng, giàu nhạc tính.
“Tây Tiến” là bài thơ hay về đề tài người lính thời chống Pháp. Tác phẩm ra đời vào năm 1948 là kết quả từ nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị Tây Tiến, về miền Tây Bắc nơi mà nhà thơ đã có nhiều kỉ niệm sống và chiến đấu.Đoạn thơ đầu là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài “Tây Tiến”, thể hiện nỗi nhớ của Quang Dũng về bước chân kiêu hùng của người lính Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ qua rừng núi Tây Bắc hùng vĩ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” khi đã chuyển sang đơn vị khác, khi những gì đẹp nhất đã trở thành quá khứ. Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về người lính Tây Tiến gắn liền với địa bàn hoạt động vùng rừng núi Tây Bắc. Đoạn thơ khắc hoạ rõ nét bức tranh cuộc sống và chiến đấu của đơn vị Tây Tiến ở miền Tây Bắc xa xôi trong những ngày đầu chống Pháp.
Mở đầu đoạn thơ là câu cảm thán: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” vừa như lời tâm sự, vừa như lời gọi thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ. Quang Dũng đã gọi tên dòng “sông Mã”, một hình ảnh tượng trưng của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ. Con “sông Mã” như người bạn tri kỉ để Quang Dũng nhớ khi phải chia xa. Nhớ đến là đơn vị Tây Tiến mà phần lớn là những thanh niên Hà Nội đi chiến đấu, Quang Dũng đã cùng đoàn binh Tây Tiến trải qua bao tháng ngày đầy gian khổ, hi sinh mà thắm đượm tình đồng đội.
Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần trong một dòng thơ kết hợp với từ láy “chơi vơi” để cụ thể hoá về một nỗi nhớ rất thực, gây ấn tượng về một nỗi nhớ dạt dào, lắng đọng trong con người từng sống và gắn bó với dòng “sông Mã” với binh đoàn Tây Tiến. Nỗi nhớ như có hình, có ảnh, da diết nghìn trùng, lan toản khắp không gian, khắp thời gian.Miền đất Tây Bắc rộng lớn với các địa danh nhắc đến xa xôi, hoang sơ và đầy bí ẩn: “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu” với địa hình không mấy bằng phẳng và thời tiết vô cùng khắc nghiệt:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Tây Bắc nhiều vực sâu, lắm dốc cao thường xuyên mưa nguồn, thác lũ, để miêu tả một cách ấn tượng về Tây Bắc Quang Dũng dùng nhiều từ láy tượng hình: “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút” cùng với nhịp thơ trắc trở có cảm giác như bẻ đôi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Câu thơ như chênh vênh, trắc trở theo thế núi, thế đèo, theo bước chân hành quân của người lính Tây Tiến. Hình ảnh thơ gấp khúc vẽ ra hai sườn núi vút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng. Dốc núi thì cao còn vực thì sâu “thăm thẳm”. Một Tây Bắc hiểm trở, dữ dội còn được thể hiện ở nhiều thanh trắc trên câu thơ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Một Tây Bắc còn dữ dội hơn nhiều bởi những âm thanh ghê rợn của “thác gầm thét” của “cọp trêu người” vào mỗi “chiều chiều, đêm đêm” đe doạ đến tính mạng của con người.
Thiên nhiên được tái hiện rất chân thực bởi bút pháp tả thực và được tô đậm bởi hàng loạt thủ pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn. Miêu tả thiên nhiên hoang dại, bí ẩn, dữ dội để ca ngợi những con người oai phong, lẫm liệt, kiêu hùng trên chặn đường hành quân gian khổ. Sống gắn bó với Tây Bắc khoảng thời gian khá dài, Quang Dũng có nhiều phát hiện mới mẻ về vùng đất ấy. Vùng biên giới Việt – Lào không chỉ hiện lên với chốn rừng thiêng nước độc mà còn là mảnh đất giàu chất thơ và nhiều kỉ niệm:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi
…………
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh Tây Bắc trong cái nhìn của hồn thơ đa cảm rất trữ tình và quyến rũ: ở địa danh “Mường Lát” đêm về hoa rừng toả ngát hương thật hấp dẫn, dịu kì. Nơi “Pha Luông” thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi, mỗi một địa danh có vẻ đẹp riêng. Bức tranh Tây Bắc huyền ảo, nữa thực nửa mộng. Con người và thiên nhiên gắn bó chan hoà với nhau. Kết thúc đoạn thơ là kỉ niệm đẹp của tình quân dân gắn bó, để rồi khi chia xa Tây Bắc nhà thơ không thể nào quên:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Cơm lên khói – thơm nếp xôi” là những hình ảnh gần gũi, quen thuộc gợi lên cảnh gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Cuộc sống bình dị góp thêm một vẻ đẹp nữa cho mảnh đất nhiều kỉ niệm. Đó còn là hình ảnh một mùa vui biểu hiện sự gắn bó bền chặt của tình quân dân. Tình cảm đáng quý ấy trở thành sức mạnh tinh thần, một nguồn động viên cổ vũ lớn lao cho người lính xa nhà.
Tây Bắc khắc nghiệt, dữ dội đã gieo bao khó khăn, thử thách cho con người. Nhưng các chàng trai đất Hà Thành hiện lên trong thơ Quang Dũng rất hồn nhiên, tinh nghịch. Trên những chặng đường ẩn hiện trong mây, người lính như đang bước đi trên những cồn mây với cảm giác súng mang trên vai như chạm tới đỉnh trời.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hình ảnh nhân hoá có phần cường điệu “súng ngửi trời” là cách nói đùa vui tinh nghịch cho thấy dù vất vả, gian khổ đến đâu cũng không làm mất đi tính cách lạc quan, yêu đời của người lính trẻ. Nhớ về vùng đất nơi đoàn binh Tây Tiến đã từng chiến đấu cũng là nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Quang Dũng đã dùng cách nói giảm qua hình ảnh “bỏ quên đời” để nói về một trường hợp hi sinh: người lính đã ngã xuống vì kiệt sức trên đường hành quân. Nghệ thuật nói giảm đã bình thường hoá cái chết, làm giảm đi sự đau đớn khi nói về cái mất mát, sự hi sinh. Ý thơ buồn mà không bi luỵ bởi con người vượt lên trên hoàn cảnh để chiến thắng gian lao. Bức chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến phù hợp với không khí của thời đại, của đất nước khi đang bước vào cuộc chiến khốc liệt.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 2
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 3
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 9
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 4
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 6
“Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân cha ông, gặp lại chín năm gian khổ”. Những giai điệu trong bài hát Hành quân lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn một lần đưa ta ngược về thời gian, vượt qua khoảng cách không gian về với núi rừng Tây Bắc của một thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn chương nói chung và văn học thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có vị trí đặc biệt. Đọc Tây Tiến người ta không chỉ thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính mà còn ấn tượng sâu sắc về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.
Tây Tiến (1948) là nét son đẹp nhất trong đời thơ Quang Dũng. Bài thơ hiện ra như một sự hoà điệu đẹp đẽ giữa thơ – nhạc – hoạ. Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ về một vùng đất một thời trận mạc. Vậy nên, khi nhắc đến địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của quá khứ hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ nhoè giữa hai không gian: không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Bởi thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh ấy xâm chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng “Quang Dũng -trôi’ về một vùng đất đẹp đẽ, dữ dội và mộng mơ, đằm thắm.
Bao trùm nền cảnh Tây Bắc là vẻ hùng vĩ dữ dội, hiểm trở. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những bản mường xa lạ được nhắc đến với bao kỉ niệm yêu thương. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đã dùng thơ để gợi nhớ trong hồn người những địa danh, những tên làng, tên bản, tên núi, tên sông của quê hương đất nước vối bao ý vị đậm đà. Ông không trao nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm danh từng tên cụ thể: sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… và sự mặt của các địa danh này lập tức gợi ra ý niệm về sự cách trở, hoang sơ. Những địa danh đã gắn bó vơi đầy với tác giả và đi sâu vào tâm thức nhà thơ. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong biển sương mù dày đặc, trong màn đêm hơi núi, gió rét căm căm của chốn “thâm sơn cùng cốc”. Sương lấp đường đi, lấp dáng người trong mờ mịt. Những nẻo đường hành quân chiến đấu như kéo dài vô tận:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Ba câu thơ là một minh chứng tiêu biểu cho quan niệm “thi trung hữu hoạ”, bởi những hình ảnh trong bức tranh thơ này được vẽ lên bằng những đường nét có sức khái quát lớn và mang tính đặc trưng cao. Nó đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong tâm trí người đọc vẻ đẹp trùng điệp, hoang vu, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Cao hơn những màn sương che lấp bóng dáng đoàn quân đang vượt dốc, vây bọc lấy những bản làng trong hơi lạnh là những đỉnh núi gập ghềnh, hiểm trở cao ngàn thước có mây phủ kín bốn mùa. Lên tới đỉnh, đầu người lính và mũi súng tưởng như chạm vào trời cao: “súng ngửi trời’
Dưới chân họ lại là những vực sâu thăm thẳm ngàn thước. Câu thơ như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân, diễn tả rất đạt sự chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Với câu thơ có nhịp điệu bẻ đôi đột ngột trong sự đối lập tương phản, người đọc có thể hình dung dốc lên cao rồi đổ xuống gần như thẳng đứng. Nhìn lên cao thì hun hút không cùng, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm đến chóng mặt. Những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất hoạ đã gợi tả một Tây Bắc hùng vĩ dữ dội hiểm trở để gợi nhớ một thời Tây Tiến đầy gian khổ, gian khổ đến nỗi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”.
Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những tên địa danh không gần gũi dân dã như thôn Đoài thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính mà vô cùng xa lạ với người đọc nhưng chính những địa danh ấy đã liên tiếp vẽ lên con đường Tây Tiến một thời như khắc như tạc vào tâm trí người đọc núi non gập ghềnh hiểm trở miền Tây Bắc. Miền Tây còn là nơi ngự trị của vẻ âm u, hoang dã, là nơi đầy những thử thách ghê gớm đặt ra cho con người. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian với mà còn được khám phá ở chiều thời gian với những đe dọa khủng khiếp luôn luôn rình rập;
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
“Chiều chiều” và “đêm đêm” – những khoảng thời gian gợi nỗi buồn trong lòng người thì chỉ nghe thấy tiếng cọp trêu người và tiếng thác sông Mã gầm thét. Điều đó càng gợi sự hoang sơ âm u của núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật phối thanh trắc: “Mường Hịch – cọp trêu người” hai dấu nặng liền kề gợi cái nặng nề như bước chân thú dữ đang rình rập đe dọa con người. Rừng già miền Tây Bắc hoang sơ âm u bí ẩn luôn là thử thách với người chiến sĩ trên con đường hành quân. Vượt qua vẻ hùng vĩ dữ dội, vượt lên trên sự hoang sơ khắc nghiệt của rừng núi Tây Bắc, người đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến khi xưa nhớ về chốn cũ còn ghi tạc trong mình về một miền Tây thơ mộng và lãng mạn:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hình ảnh nhân hoá “hoa về” gợi nhiều liên tưởng: có thể là hoa nở trong đêm sương, có thể “hoa” là ngọn đuốc trong đêm hành quân, cũng cỏ thê hiêu là bóng dáng người đẹp… “Đêm hơi” tái hiện không gian núi rừng huyền ảo thơ mộng trong màn sương mỏng manh bồng bềnh. Câu thơ phối nhiều thanh bằng gợi cảm giác như sương như hương, như hoa, như hôn người. Hình ảnh hoa về là hình ảnh đa nghĩa, là điểm sáng làm rõ vẻ đẹp tâm hồn người lính, xua đi những mệt mỏi trên con đường hành quân.
Giữa mạch thơ khắc hoạ tập trung cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên miền Tây, Quang Dũng đã thả một câu thơ toàn thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang thể hiện ánh mắt nhìn vô cùng bay bổng của người lính Tây Tiến:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
“Mưa xa khơi” là hình ảnh tả thực những cơn mưa xối xả nơi núi rừng Tây Bắc bằng cách lấy mưa biển tả mưa rừng. Câu thơ còn như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt qua bao đèo cao suối sâu, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, qua một không gian mù mịt sương rừng mưa núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như những cánh buồm bồng bềnh trên biển khơi, trong một “đêm hơi” mơ hồ huyền ảo… gợi một niềm đầm ấm thân mật trong lòng người. Câu thơ như một gam màu lạnh giữa những gam màu nóng làm dịu lại cả đoạn thơ.
Những địa danh “Mường Lát”, “Pha Luông” đọc lên nghe êm dịu phù hợp với nét thơ mộng của cảnh không gian được mỏ rộng ra bát ngát vừa cao rộng vừa xa vừa mờ như một bức tranh thuỷ mặc. Thiên nhiên Tây Bắc là vậy, hùng vĩ hiểm trở nhưng cũng rất đỗi trữ tình lãng mạn, để lại dấu ấn khó phai trong ký ức người lính Tây Tiến. Bốn câu sau của đoạn thơ thứ hai về bức tranh sông nước miền Tây là nét vẽ hoàn chỉnh về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Cảnh vật Tây Bắc trong bốn câu thơ này cũng vẫn được dệt nên bằng cảm xúc hồi tưởng, là sự tiếp nối của cái nỗi “nhớ chơi vơi” ở phần đầu bài thơ, là sự tiếp theo của nỗi nhớ “hội đuốc hoa” ở bốn câu trước, cảnh Tây Bắc ở đây là một buổi chiều Châu Mộc được giăng mắc bởi một màn sương mờ, có dòng sông đôi bờ lặng lẽ, hoang dã như đôi bờ tiền sử, như một miền cổ tích. Một lần nữa, hình ảnh sương khói lại xuất hiện trở thành không gian đặc trưng về Tây Tiến trong nỗi nhớ, trở thành thời gian của hoài niệm đẹp đẽ, mờ ảo của sương khói miền Tây Bắc. Cũng giống như Chế Lan Viên khi nhớ về Tây Bắc:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Người và cảnh hòa quyện với nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa có hồn vừa man mác, xa xăm. Bởi nhớ cảnh núi rừng miền Tây trong buổi chiều sương nhưng là nhớ tới hồn lau. Hình ảnh hồn lau đầy thơ mộng là một nét đẹp của chiều sương Châu Mộc. Mùa xuân hoa lau nở tím rừng, sang thu hoa lau nở trắng rừng. Hoa lau, cờ lau phất phơ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu. Câu thơ “Cỏ thấy hồn lau nẻo bến bờ” đúng là câu thơ mang đậm chất tâm hồn thi nhân” (GS. Phan Cự Đệ). Rồi, trên cái nền của dòng sông đậm sắc màu cổ tích và huyền thoại ấy, nổi bật lên hình dáng thướt tha, uyển chuyển của cô gái vùng cao trên chiếc thuyền “độc mộc” cùng cái tình tứ “đong đưa” làm duyên của những bông hoa bên dòng nước lũ.
Những câu thơ chỉ gợi không tả cũng đủ sức vẽ lên một bức tranh Tây Tiến sống động huyền ảo. Cả núi rừng khi thì thấp thoáng trong màn sương lạnh, khi thì ẩn hiện trong cơn mưa xa khơi, lúc lại chìm trong màn sương như thực như mộng. Những nét chấm phá rất mảnh rất nhẹ nhưng sống động cho thấy vẻ đẹp tâm hồn tinh tế nhạy cảm của người lính bất chấp hiện thực khốc liệt của chiến tranh, người lính Tây Tiến vẫn mở lòng cảm nhận nâng niu những nét đẹp riêng của núi rừng. Đằng sau những câu thơ giàu chất nhạc, chất họa là tấm lòng Quang Dũng gắn bó yêu thương tha thiết với cuộc sống con người miền Tây.
Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như một tác phẩm hội hoạ tuyệt vời. Những nét vẽ táo bạo khoẻ khoắn, ngôn ngữ gân guốc ở đoạn đầu khi phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội kết hợp với những nét vẽ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ mềm mại, nhịp thơ êm ả thơ mộng khi tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, thiên nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người anh hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đó chính là cái tài hoa của ngòi bút Quang Dũng.
Sáu mươi sáu năm đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian mà đứng vững, đi vào lòng người vì những rung động, của tác giả không chỉ về đoàn quân Tây Tiến mà còn về bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp – vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ và thơ mộng của một miền Tổ quốc. Độc giả ngày càng có vốn văn hoá sâu rộng, tâm hồn ngày càng tinh tế, đa dạng hơn ắt là sẽ càng cảm và yêu mến Tây Tiến.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 10
Bài thơ “Tây Tiến” biểu hiện một nỗi nhớ da diết mênh mang về người, về cảnh, về những kỉ niệm mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. Quang Dũng đã sống những tháng ngày không thể nào quên trong cuộc đời cầm súng và cầm bút của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trung tâm bài thơ là người lính hào hoa, lãng mạn. Họ tự dấn thân vào cuộc chiến đấu với ý chí quyết tâm lớn với những ước mong cao đẹp và một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính. Bài thơ “Tây Tiến” được mở đầu bằng tiếng gọi thiết tha như vọng từ sâu thẳm tâm hồn nhà thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhớ về Tây Tiến là Quang Dũng nhớ về dòng sông Mã. Ông nhớ về cảnh sắc thiên nhiên chốn núi rừng miền Tây xa xôi, kì bí. Nỗi nhớ man mác, mênh mang như gửi về muôn nẻo“nhớ chơi vơi”. Trong thơ ca Việt Nam xưa nay đã có khá nhiều những bài thơ, câu thơ hay nói về nỗi nhớ: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi” (Ca dao); “Nhớ gì như nhớ người yêu” (Việt Bắc – Tố Hữu); “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” (Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên). Nhưng “nhớ chơi vơi” thì dường như Quang Dũng là người đầu tiên nói tới. Nỗi nhớ ấy như có dáng hình cụ thể. Nó cứ bồng bềnh trong không gian và thời gian. Nó thường trực trong ý thức và lấn chìm cả trong những giấc ngủ. Nỗi nhớ ấy cứ lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, khổ thơ.
Có thể nói, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được xây dựng trên nền cảm hứng thương nhớ với bao kỉ niệm không thể nào quên. Cùng với nỗi nhớ cả một miền đất xa xôi lần lượt hiện về sống dậy trong lòng hồi tưởng của nhà thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Những địa danh nơi miền Tây xa xôi như Sài Khao, Mường Lát được tác giả nhắc đến trong bài thơ gợi nên cái âm u mịt mù của miền đất lạ. Nơi có “đoàn quân mỏi” đi trong sương. Nơi ấy lại có một vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.Câu thơ thật mới mẻ, độc đáo lan tỏa trong ta cảm giác lâng lâng. Tác giả nói “hoa về” mà không phải là “hoa nở”;“đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Bông hoa hiện ra mờ mờ trong gương. Trong màn sương dày đặc, người lính Tây Tiến vẫn thấy hoa. Bông hoa mờ ảo như núi rừng, như đất trời hội tụ tinh hoa. Lại thêm “đêm hơi” càng làm cho nó mờ khuất trong tâm trí. Câu thơ gây được sự ám ảnh lớn bởi hình ảnh thơ độc đáo ấy.
Đọc đến đây ta có cái cảm giác như cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến hết. Quang Dũng đã viết câu thơ rất tài tình với hầu hết là thanh bằng. Câu thơ êm đềm tạo cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi. Nó lan tỏa muôn nơi giống như sương, như hương hoa, như hồn người vậy. Bài thơ đã khắc họa, tô đậm chân dung người lính Tây Tiến. Cả bài thơ là sự hồi tưởng, hoài niệm của Quang Dũng về những người đồng chí, về những miền đất đã đi qua. Tất cả chỉ là sự nhớ, là sự hồi tưởng. Tất cả là những kỉ niệm không thể nào quên. Vì thế, nó có một vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của thiên nhiên miền Tây của Tổ Quốc.
Quang Dũng vừa làm nổi bật được vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình vừa diễn tả được khắc nghiệt dữ dội, hiểm trở của nó. Thiên nhiên miền Tây qua con mắt nhìn của Quang Dũng có vẻ đẹp khác thường. Nó có một vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình và mềm mại như một bức tranh lụa. Những bông hoa đong đưa làm duyên bên suối. Những bản làng thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Những dáng người chèo thuyền độc mộc trên sông,… Tất cả hoang sơ, kỳ bí và huyền ảo đến mê li. Thiên nhiên miền Tây cũng hiện lên với tất cả sự hiểm trở, dữ dội, khắc nghiệt của nó. Hàng loạt hình ảnh dữ dội được nhà thơ nhắc đến. Núi rừng với đèo cao, vực sâu, mưa nguồn, thác lũ. Cái nào cũng hung hiểm, dữ dội. Núi rừng còn có thú dữ, cơn sốt rét rừng khủng khiếp,… Cái nào cũng đáng sợ.
Đó là mặt trận, là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Qua vẻ đẹp thơ mộng trữ tình, Quang Dũng đã thể hiện được tâm hồn lãng mạn của người lính. Nó khẳng định sự tinh tế, tài hoa của người lính Tây Tiến. Miêu tả một thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt, Quang Dũng không chỉ muốn nói lên sự gian khổ, vất vả mà còn làm nổi bật ý chí quan tâm của họ. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên dữ dội bao nhiêu thì hình ảnh người lính Tây Tiến càng lớn lao, hùng vĩ bấy nhiêu. Sau khi nhìn toàn cảnh nhà thơ Quang Dũng tái hiện con đường hành quân. Hình ảnh rừng núi sông Mã hiện lên thật dữ dội, đáng sợ. Đó là con đường gập ghềnh, khúc khuỷu đầy hiểm nguy. Đó là đèo cao dốc đứng, với vực sâu thăm thẳm thật đáng sợ. Người lính luôn phải hành quân trong mưa lũ, thét gào. Khung cảnh thiên nhiên dữ dội khắc nghiệt ấy được Quang Dũng khắc họa bằng những câu thơ gân guốc giàu tính tạo hình:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”.
Sự dữ dội, hiểm trở, khắc nghiệt của thiên nhiên, của con đường đã được nhà thơ Quang Dũng thể hiện bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Đó là bút pháp xây dựng hình ảnh tương phản, đối lập. Nhà thơ còn sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên sự đứt gãy của câu thơ thật ấn tượng. Những câu thơ này không những tạo hình bằng hình ảnh mà còn được tạo hình bằng thanh điệu… Trong tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du có những câu thơ giàu chất tạo hình như thế: “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”.
Bản thân thanh điệu của câu thơ đã đủ diễn tả con đường gập ghềnh ấy. Nhưng Nguyễn Du đâu có trực tiếp miêu tả đường. Nhà thơ chỉ miêu tả vó câu (bước chân ngựa) và bánh xe lăn đi như thế nào. Vậy mà người đọc vẫn có thể hình dung ra con đường ấy thật rõ ràng. Có thể nói, qua ba câu thơ, Quang Dũng đã vẻ lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở và dữ dội. Những thủ pháp nghệ thuật đối lập được nhà thơ Quang Dũng khai thác triệt để. Con đường hành quân của người chiến sĩ hết lên cao lại xuống sâu, gập ghềnh, khúc khuỷu. Đọc câu thơ lên ta có cảm giác như nghe thấy được cả hơi thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân. Con đường hành quân đầy vất vả, gian lao của người chiến sĩ Tây Tiến. Đây đèo cao, vực sâu thăm thẳm, kia thác lũ mưa nguồn. Tất cả như án ngữ, ngăn chặn bước đường của người chiến sĩ Tây Tiến.
Cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ rất mới mẻ đầy táo bạo. Trên đỉnh trời nhưng nhà thơ không viết súng chạm trời mà lại viết “súng ngửi trời”. Cách dùng từ táo bạo ấy vừa diễn tả được độ cao của đỉnh núi lại vừa thể hiện được sự dó dỏm, thông minh, lạc quan của người chiến sĩ . Đó cũng là cách nói vui đùa, tếu táo, mang đậm chất lính. Nét vẽ của nhà thơ Quang Dũng ở khổ thơ này thật dữ dội, phóng khoáng mà cũng thật nên thơ. Có câu thơ hun hút đi lên cao mãi như sánh với chiều cao chốn rừng núi “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Có câu thơ lại gấp khúc, giữa giữa chiều cao và chiều sâu: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, gợi hình ảnh con đường đi lên rất cao, rất dốc; con đường đi xuống thì sâu thăm thẳm.
Qua những câu thơ này, Quang Dũng không những nói lên được sự khác biệt dữ dội của thiên nhiên mà còn thể hiện được sự vất vả gian lao và chí quyết tâm to lớn của người lính Tây Tiến. Nếu như ở ba câu thơ đầu Quang Dũng sử dụng nhiều thanh trắc với những nét vẽ gân guốc mạnh mẽ thì ở câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng giống như một nét bút mềm mạc và tinh tế:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa”.
Có thể hiểu câu này theo hai mức độ và sắc thái khác nhau. Từ trên đỉnh núi cao nhìn ra xa, người lính Tây Tiến thấy những ngôi nhà ở Pha Luông thấp thoáng ẩn hiện trong cơn mưa. Nhưng cũng có thể hiểu khi cơn mưa trút xuống cả một vùng rộng lớn mịt mờ, trắng nước ngỡ như biển khơi. Những ngôi nhà ở Pha Luông như dập dềnh trên biển lớn. Hình ảnh những ngôi nhà ở Pha Luông đã gợi lên trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ Tây Tiến một cảm giác nhẹ nhõm thanh thản, bình yên sau một chặng đường dài hành quân vất vả. Ở khổ thơ này, từng mảnh hình khối, đường nét chuyển đổi rất nhanh. Tất cả dường như đột ngột xuất hiện trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ giống như một bức tranh hoành tráng.
Thành công của Tây Tiến là khắc họa đậm nét chất lãng mạn và hào hùng của người lính Tây Tiến. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính. Quang Dũng đã vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình trong hội họa. Bút pháp nghệ thuật của nhà thơ thật uyển chuyển, phóng khoáng, đưa lại cho người đọc những cảm xúc mới mẻ phong phú.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 11
Tác phẩm “Tây Tiến” là một trong tác phẩm thành công nhất của chàng thi sĩ Hà thành Quang Dũng. Từ thiên nhiên hùng vĩ tới tâm tình người lính trẻ đều được nhà thơ khắc họa chân thực, đầy kiêu hùng.
“Tây Tiến” giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn lãng mạn của chàng trai Hà Nội – Quang Dũng. Đường ra trận dù hiểm nguy, cái chết cận kề nhưng vẫn có những phút giây thư thái ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ. Tây Tiến” được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng nhỏ ven sông Đáy hiền hòa, được xem là tác phẩm tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng và cũng là một thi phẩm đặc sắc viết về người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Trước và sau Tây Tiến đã có biết bao chân dung người lính được tạc vào dòng chảy bất tận của văn chương nước nhà nhưng những chàng trai Tây Tiến vẫn có một cái gì đó rất riêng. Những nét riêng ấy không chỉ toát ra từ tâm hồn hào hoa đa tình lãng mạn của những chàng trai trẻ đất Hà thành năm ấy mà chính thiên nhiên Tây Bắc đã góp phần giúp họ làm nên dáng vẻ độc, lạ, ấn tượng và cũng rất đỗi hiên ngang kiêu hùng trên mỗi bước đường hành quân. Cho nên đọc Tây Tiến không chỉ để hiểu thêm về chân dung những người đồng đội của Quang Dũng mà còn được đắm mình vào thiên nhiên Tây Bắc để cảm nhận tất cả vẻ đẹp hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ của nó.
Thiên nhiên Tây Bắc từ trong hiện thực đi vào thơ văn hình như không bao giờ mất đi những vẻ đẹp vốn có của nó. Vẫn là nét hùng vĩ dữ dội toát lên từ những đỉnh núi cao vời vợi, cao chạm đến trời; toát lên từ những cung đường quanh co uốn lượn giữa muôn ngàn núi non trùng điệp với những triền dốc cheo leo. Nhưng cách mà Quang Dũng miêu tả mới thật là ấn tượng bởi những câu thơ được xem là tuyệt bút:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi”
Những từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như gợi lên đầy đủ đặc điểm của rừng núi Tây Bắc sâu thẳm ngút ngàn và vẽ ra một khung cảnh thật hùng vĩ. Trong câu chữ hiện ra hình ảnh những con dốc ngoằn ngoèo trong cái địa thế vô cùng hiểm trở của những dốc núi dựng đứng với “ngàn thước lên cao” rồi bất ngờ đổ xuống “ngàn thước xuống” thành những vực sâu thăm thẳm gợi cảm giác địa hình đứt gãy đột ngột đến ghê rợn. Không gian vì thế cũng trở nên hoang sơ, hùng vĩ biết bao.
Nhưng Tây Bắc đâu chỉ có cảnh dốc lối dốc, đèo nối đèo mà trên dọc đường hành quân của những chàng trai Tây Tiến, họ cũng bắt gặp những khoảnh khắc nên thơ của núi rừng Tây Bắc. Từ trên đỉnh Pha Luông vời vợi, khung cảnh bản làng chìm lấp ẩn hiện giữa cơn mưa rừng mờ mịt đến mênh mông tạo cảm giác thật bâng khuâng, mát dịu đến nao lòng.
Có thể nói, vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây Bắc không chỉ đến từ sự cảm nhận tinh tế của Quang Dũng mà trở nên thật ấn tượng bởi ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ đa tài: tài dùng ngôn ngữ, tài “gieo rắc” thanh điệu đến bất ngờ để rồi từ đó cảnh vật hiện ra như vẽ, âm hưởng ngân lên như nhạc. Đường nét vừa gân guốc vừa mềm mại theo âm điệu bằng trắc làm cho thiên nhiên Tây Bắc hiện ra như một bức tranh thủy mặc. Núi rừng Tây Bắc còn là nơi ẩn chứa vô vàn những điều kì thú làm say lòng những tâm hồn lãng mạn của những chàng trai Tây Tiến.
Chinh chiến qua nhiều vùng đất, mỗi địa danh, mỗi tên gọi đều gợi lại biết bao kỉ niệm. Nhớ đến Sài Khao với cảnh sương núi chập chùng qua câu thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Và Mường Lát thì “hoa về trong đêm hơi”. Dù hoa rừng hay sương núi quyện lại thì đều khiến cho Tây Bắc trở nên thật diệu kì với cảnh hoa nở về đêm.
Còn đặt chân đến Mường Hịch cùng với sự luân chuyển tuần hoàn của thời gian chiều chiều, đêm đêm giữa núi rừng miền Tây hoang dã lại càng cảm nhận hết vẻ bí hiểm dữ dội của thiên nhiên với những âm thanh của “thác gầm thét”, với bóng dáng lởn vởn của những vị chúa tể sơn lâm xuất hiện để “trêu người”. Nhưng tất cả dường như chỉ để thử thách ý chí can trường của những chàng trai Tây Tiến mà thôi. Thiên nhiên càng dữ dội, chân dung người lính càng hiện ra một cách hào hùng bởi thiên nhiên ấy luôn làm phông nền để nổi bật con người. Thiên nhiên ấy là một phần trong họ nên thật gần gũi thân thương.
Đến với Tây Bắc, người đọc càng không quên vẻ đẹp thơ mộng của vùng đất Châu Mộc. Khung cảnh bằng bạc với hình ảnh lau lách ngút ngàn trong sương chiều gió núi. Với những bông hoa rừng đong đưa bên bờ suối bên những dòng nước lũ. Cái thực cái ảo quyện vào nhau; cái gân guốc, cái mềm mại được đặt cạnh nhau.
Câu chữ của Quang Dũng, từ: chiều sương ấy, hồn lau, đong đưa… cho đến âm hưởng luyến láy trong những cấu trúc: có thấy…; có nhớ… đã lột tả được những đường nét, màu sắc lẫn linh hồn của tạo vật. Cảnh vật vừa sống động vừa thấp thoáng nét hoài niệm đậm chất cổ điển mà cũng rất hiện đại. Cảnh thực mà như mộng trong thế giới nhớ thương của thi nhân thật lưu luyến lòng người.
Có thể nói, miền đất Tây Bắc, nơi địa đầu của Tổ quốc, đã bao lần đi vào trong thơ văn nhạc họa. Nhưng với “Tây Tiến” vẫn lưu lại những ấn tượng rất riêng trong lòng bạn đọc bởi thiên nhiên ấy được viết nên bởi một tâm hồn lãng mạn và một tình cảm đắm say của người lính. Tây Tiến có thể xem là một trong những bài thơ “đi cùng năm tháng” và cảm tưởng như theo thời gian, Tây Tiến càng để lại cũng cảm xúc mặn mà hơn trong lòng bạn đọc – một bài thơ được dệt nên từ niềm thương nỗi nhớ trong lòng Quang Dũng khi hướng về đồng đội và núi rừng Tây Bắc một thời gắn bó.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến” bài 2
Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. “Tây Tiến” là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, tinh hoa của hồn thơ Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ miêu tả cảnh đêm liên hoan và cảnh mộng mơ trên những con sông miền Tây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986 ) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quânTây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến.
Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết. Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung. Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi.Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “nẻo bến bờ”, “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy”, “có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng mắc khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên tronng dòng nước. Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền Tây – tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.
Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn, mạnh bạo, gân guốc đạm chất bi tráng.
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp.Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
Có thể bạn thích: