Hãy cùng TopChuan.com tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của những nhà giáo nổi tiếng nhất Việt Nam.
Phan Bội Châu (1867–1940)
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San.[1] Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. Từ nhỏ ông đã có lòng yêu nước, sớm ông mộng khoa cử để làm quan giúp nước nhà. Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) ông đã lọt vào trường nhì nhưng bạn ông là Trần Văn Lương đã cho vào tráp mấy cuốn sách nhưng ông không hề biết nên ông bị khép tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án chung thân bất đắc ứng thí (suốt đời không được dự thi). Sau cái án này, Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, ngay khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đã đậu đầu (Giải nguyên) ở trường thi Nghệ An. Khi đất nước bị Pháp xâm lược ông đã đề ra nhiều kế hoạch cứu nước như phong trào Đông Du nhưng thất bại.
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)
Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù). là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19. Vốn xuất thân từ một gia đình nhà nho, với bản tính hiếu học ông quyết tâm theo nghiệp khoa cử, tuy nhiên trong một lần lên kinh ứng thí ông nghe tin mẹ mất liền bỏ thi, về chịu tang mẹ, trên đường đi vì quá tiếc thương ông đã khóc rất nhiều đến nỗi lâm bệnh nặng và vướng vào cảnh mù lòa. Từ đây cuộc sống của ông gặp nhiều tai ương, mộng khoa cử không thành, lâm âm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút… Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường học xá và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định).
“La Sơn Phu Tử’ Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)
Nguyễn Thiếp sinh ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão, niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723), đời vua Lê Dụ Tông (1705-1729), tại Mật thôn, ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Cùng với Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Thiếp được học trò tôn là “Phu tử”. Với tư chất thông minh, được dạy dỗ từ nhỏ, những điều kiện đủ để Nguyễn Thiếp trở nên một người hay chữ và hiển đạt về sau. Nhưng Nguyễn Thiếp không thích lối sống khuôn sáo, bó buộc thường tình, mà ngoặt sang lối rẽ khác, thực hiện chí của riêng mình theo lẽ xuất, xử của nhà Nho. Năm 21 tuổi, Nguyễn Thiếp đỗ Hương giải, con đường công danh trước mắt rộng thênh thang, vậy mà không hiểu vì sao ông lại dứt con đường cử nghiệp, chuyển sang ẩn dật. Sau này, Nguyễn Thiếp bất đắc dĩ phải ra làm quan để “để nuôi mẹ già báo đáp đạo hiếu” nhưng cũng từ đó ông tham gia vào việc chấn hưng việc học bị đình đốn sau nhiều năm loạn lạc, ông đưa ra nhiều chủ trương mới nhưng không được chấp nhận. Sau 13 năm làm quan, vì quá chán nản, ông lui về ở ẩn.
La Sơn phu tử, bậc trượng phu, tuy đã mất cách ngày nay đã hơn 200 năm, nhưng danh tiếng của Phu tử vẫn mãi mãi được kính trọng. Bởi Phu tử luôn giữ được khí chất thanh cao của một nhà Nho – một người thầy, xuất xử không những hợp với thời mà còn hợp lẽ đời, luôn hướng đến ích Quốc, lợi dân. Phu tử còn là tấm gương hiếu học – học không biết mỏi và dạy không biết chán. Trong những năm tháng sống ẩn dật trên núi Bùi Phong, Phu tử đã dạy được nhiều lớp học trò thành đạt, đem lại sự giáo hóa và muốn thay đổi học phong cho cả một thời Tây Sơn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
Nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay còn được biết đến với cái tên quen thuộc là Trạng Trình. Sinh thời, ông nổi tiếng là người cương trực, học rộng hiểu sâu, có tài dự báo, hoạch định chiến lược. Sau này, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên và quyết định phò vua giúp nước. Song vì không chịu được những điều thị phi, ông dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối. Sau đó, ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo lỗi lạc, được học trò suy tôn là Phu tử, đó là Tuyết Giang Phu tử. Học trò của ông trong thời điểm này có những người rất nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan…
Cao Bá Quát (1809-1854)
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, tài giỏi, hiếu học dù hoàn cảnh sống vô cùng khốn khó. Tuy vậy, nghiệp khoa cử của ông thiếu may mắn, mấy lần khăn gói vào Huế thi đều bị hỏng, nên mộng khoa cử đã tan. Năm 32 tuổi, lần đầu ông được bổ làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu Bộ Lễ). Ở đây, ông bắt đầu cảm thấy nhụt chí và bế tắc khi nhìn thấy cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của nhà Nguyễn. Đến khi bị tù, bị tra tấn vì chữa những quyển thi, ông càng đau khổ, uất ức và căm thù cái triều đình ấy.
Với tư cách thầy giáo, Cao Bá Quát cũng là người khá nổi tiếng. Cả trong thời gian làm giáo thụ ở Quốc Oai cũng như trong những thời gian khác ông đều rất quan tâm đến việc đào tạo nhân tài. Trong việc giảng dạy, ông chú trọng việc đưa học trò đi thăm thú non sông, dân tình, ông cũng hay dùng những tư liệu trong ngôn ngữ nước nhà, trong các mối quan hệ xã hội để truyền thụ cho học sinh.
Có thể bạn thích: