Các triều đại phong kiến Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử và trong đó là rất nhiều vị vua đã lên ngôi. Mỗi người đều có những câu chuyện khác nhau và trong đó là rất nhiều những kỉ lục “vô tiền khoáng hậu”. Sau đây là top những kỉ lục thú vị nhất của các vị vua phong kiến Việt Nam.
Triều đại có nhiều vị vua bị phế lập, sát hại nhất
Có đến 6/11 vị vua nhà Lê Sơ bị phế lập hay bị sát hại. Nếu tính cả các vua không chính thức là Lê Quang Trị (1516), Lê Bảng và Lê Do (1519) thì tổng cộng có 9/14 vua.
Con của vua
- Vua có nhiều con làm vua: Trần Minh Tông và Lê Thần Tông, đều có 4 con làm vua.
Thứ nhất là Trần Minh Tông cha của Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông.
Thứ hai là Lê Thần Tông cha của Lê Duy Hựu (Chân Tông), Lê Duy Vũ (Huyền Tông), Lê Duy Cối, (Gia Tông) và Lê Duy Hợp (Hy Tông).
- Vua có nhiều con rể làm vua nhất: Lê Hiển Tông có 3 con rể làm vua.
Lê Hiển Tông có 3 con rể làm vua là Nguyễn Huệ (lấy công chúa Lê Ngọc Hân), Nguyễn Quang Toản (lấy công chúa Lê Ngọc Bình) và Nguyễn Ánh (cũng lấy Ngọc Bình).
- Vua có nhiều con nhất: Minh Mạng (1790 – 1840) có 142 con chính thức.
Vua Minh Mạng trong suốt cuộc đời của mình có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.
Độ tuổi của các vị vua
- Trường thọ nhất: Vua Bảo Đại 85 tuổi (1913 – 1997):
Bảo Đại là vị vua thứ 13 và cũng là cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Ông đồng thời cũng là Hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Sau thời gian dài lưu vong và sống ở Pháp Bảo Đại qua đời ngày 31/7/1997 tại Quân y viện Val – de – Grace, hưởng thọ 85 tuổi.
- Yểu mệnh nhất: Lê Gia Tông 15 tuổi (1661 – 1675):
Lê Gia Tông là hoàng đế thứ 8 của nhà Lê trung hưng. Ông lên ngôi ngày 19/11/1671 khi mới 10 tuổi. Lê Gia Tông khi lên ngôi được miêu tả là người có diện mạo khôi ngô, thân hình vạm vỡ, là một vị vua độ lượng. Tuy vậy sau khi khi trị vì được 4 năm thì Lê Gia Tông mất sớm ở tuổi 15.
Thời gian trị vì
- Thời gian trị vì lâu nhất: vua Lý Nhân Tông 56 năm (1072 – 1127)
Vua Lý Nhân Tông là con trai trưởng của Lý Thánh Tông, lên ngôi khi mới 7 tuổi. Ông được thái hậu Ỷ Lan, thái sư Lý Đạo Thành và thái úy Lý Thường Kiệt giúp đỡ trong việc triều chính, nhờ đó mà Đại Việt ngày càng vững mạnh. Ông khuyến khích giáo dục, thi cử theo Nho giáo, là người mở khoa thi đầu tiên của nước ta (1072) và xây dựng Quốc tử giám (1076). Mặc dù trị vì nhiều năm và có nhiều cung phi nhưng Lý Nhân Tông không có con trai nối dõi. Ông chọn một người cháu gọi bằng bác là Lý Dương Hoán làm thái tử, sau khi ông mất Dương Hoán lên ngôi lấy hiệu là Lý Thần Tông.
- Thời gian trị vì ngắn nhất: Tiền Lê Trung Tông 3 ngày (1006)
Lê Trung Tông làm vua trong bối cảnh đất nước vừa trải qua nạn tranh giành ngôi vương của các hoàng tử, lên ngôi được 3 ngày thì bị em cùng mẹ khác cha là Lê Long Đĩnh hãm hại, hưởng thọ 22 tuổi.
Các nữ vương
- Nữ vương đầu tiên: Trưng Nữ Vương (Trưng Trắc) triều đại 40 – 43.
Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị là người đứng đầu cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh lại giặc đô hộ phương Bắc. Sau đó Trưng Nữ Vương thành lập nhà nước, lấy kinh đô ở Mê Linh, tồn tại đến năm 43 thì bị quân Đông Hán đánh bại.
- Nữ hoàng duy nhất: Lý Chiêu Hoàng Phật Kim (1224 – 1225)
Lý Chiêu Hoàng lên ngôi trong bối cảnh nhà nước rối ren, bà là vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý. Lên ngôi được một năm thì Lý Chiêu Hoàng bị Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Thái Tông.
Độ tuổi lên ngôi
- Lên ngôi trẻ nhất: Lê Nhân Tông lên ngôi lúc 1 tuổi (1442)
Vua Lê Nhân Tông (1441 – 1459) là vị vua thứ ba của nhà Hậu Lê. Vua trị vì trong 17 năm từ 1442 – 1459. Tuyên Từ hoàng thái hậu là người đã nhiếp chính cho vua Lê Nhân Tông khi ông lên ngôi năm 1 tuổi, cho đến khi vua tự nhiếp chính năm 1452. Vua Lê Nhân Tông là vị vua nhân từ và sáng suốt từ khi còn nhỏ tuổi. Tuy vậy ông lại mất sớm năm 1459 do bị Lê Nghi Dân ám sát.
- Lên ngôi già nhất: Trần Nghệ Tông lên ngôi năm 50 tuổi (1370)
Trần Nghệ Tông là vị vua có quyền lực tối cao cuối cùng của nhà Trần, có công lao lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục cơ đồ cho nhà Trần. Tuy vậy ông cũng chịu trách nhiệm cho việc cơ đồ nhà Trần rơi vào tay người ngoài là Lê Quí Ly, Trần Nghệ Tông tuy có công nhưng cũng bị sách sử phê phán là nhu nhược, nối giáo cho giặc. Ông lên ngôi 2 năm (1370 – 1372), sau đó làm Thái thượng hoàng hơn 20 năm (1372 – 1394).
Niên hiệu của các vị vua
- Vua có nhiều niên hiệu nhất: Lý Nhân Tông có 8 niên hiệu
Lý Nhân Tông cũng là ông vua có nhiều niên hiệu dài nhất, trong số 8 niên hiệu của ông thì có đến 5 niên hiệu gồm 4 chữ, đó là: Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 – 1084), Long Phù Nguyên Hóa (1101 – 1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120 – 1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
- Vua có niên hiệu sử dụng lâu nhất: Lê Hiển Tông.
Vua sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng trong 47 năm (1740 – 1786). Lê Hiển Tông lên ngôi năm 1740 và trong suốt triều đại
của mình chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu Cảnh Hưng.
Vua mở đất mạnh nhất, rộng nhất
Thời vua Minh Mạng, đất nước ta được mở rộng từ Bắc chí Nam. Năm 1832 cả nước có 30 tỉnh gồm:
- Bắc Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 13 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên.
- Trung Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 12 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận.
- Nam Kỳ (từ này đặt ra từ năm 1834) có 06 tỉnh: Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Vợ của vua
- Vua lập nhiều hoàng hậu nhất: Lý Thái Tổ lập 9 hoàng hậu.
Lý Thái Tổ là nhà vua sáng lập nhà Lý, trị vì từ 1009 đến khi qua đời năm 1028. Ông lập đến 9 hoàng hậu, 6 người lập năm 1010, 3 người lập năm 1016.
- Vua có vợ người phương Tây: Lê Thần Tông
Để phục vụ mục đích chính trị và giao thương quốc tế, Vua Lê Thần Tông còn lấy một số phụ nữ nước ngoài làm vợ. Trong số 6 người vợ có thứ bậc cao trong cung, ngoài Hoàng hậu Ngọc Trúc và phi người Mường thì những người còn lại là các phi tần người Xiêm (Thái Lan ngày nay), Hán (Hoa), Ai Lao (Lào ngày nay) và Hòa Lan (tức Hà Lan).
Người vợ người Hà Lan của vua là con gái của Phó toàn quyền Hà Lan tại Đài Loan. Năm 1630, trong chuyến thương đoàn Hà Lan sang Việt Nam vào, bà Orona được gặp vua Lê Thần Tông ở Thăng Long. Nghe theo lời của bố, bà ở lại Việt Nam làm vương phi của vua Thần Tông.
Vua có nhiều bài thơ, văn nhất
Tự Đức có hơn 300 bài thơ, văn. Tự Đức là ông vua đề cao Nho học. Ông cũng rất ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Đêm nào ông cũng xem sách đến khuya. Ông làm nhiều thơ bằng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự Chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca…
Có rất nhiều giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện vua giao thiệp với nhà văn, học giả đương thời. Nhà vua rất thích lịch sử, đã đặt Tập Hiền Viên và Khai Kinh Diên để ông ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Ông còn chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, từ đời thượng cổ cho tới hết thời nhà Hậu Lê, trong đó ông tự phê nhiều lời bình luận.
Tự Đức cũng rất yêu nghệ thuật, đã tập trung nhiều người soạn kịch bản tuồng về kinh thành Huế, và lệnh cho soạn những vở tuồng lớn Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy.
Có thể bạn thích: