Mang thai, có lẽ là cảm giác hạnh phúc nhất của một người phụ nữ, tuy nhiên đây lại là giai đoạn nhạy cảm và dễ tổn thương hơn cả, để đảm bảo sức khoẻ cho cả mẹ và bé cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra và thực hiện các xét nghiệm nhằm phát hiện sớm những bất thường có thể xảy ra và ảnh hưởng xấu đến cả mẹ và bé trong thời kỳ mang thai. Nhưng cần phải làm những xét nghiệm nào? Xét nghiệm nào là cần thiết? Đây là câu hỏi mà không ít những bà mẹ mang thai đang quan tâm, lo lắng, nhưng bạn cũng đừng nên căng thẳng quá vì TopChuan.com sẽ hướng dẫn đến bạn những xét nghiệm y tế cần thiết và quan trọng nhất để bạn có thể hoàn toàn yên tâm an thai cho một thai kỳ khoẻ mạnh cho cả mẹ và bé.
Theo dõi nhịp tim của thai nhi
Theo dõi nhịp tim cũng là một cách để nhận biết thai nhi khoẻ mạnh hay không? vì vậy các mẹ bầu không nên bỏ qua phương pháp tưởng chừng như đơn giản nhưng hiệu quả này. Các bác sỹ theo dõi bằng cách chạm vào bụng của bà mẹ để lắng nghe nhịp đập của thai nhi từ đó đưa ra những kết luận về sức khoẻ của em bé.
Đặc biệt, khi chuyển dạ, các cơn co thắt tạm thời hạn chế lượng oxy đến thai nhi, nhịp tim của em bé sẽ tự nhiên thay đổi trong khi sinh. Tuy nhiên, bất kỳ thay đổi nào nằm ngoài phạm vi bình thường, khoảng 110-160 nhịp mỗi phút, có thể cho thấy em bé không nhận đủ oxy và bác sỹ sẽ cần có biện pháp để khắc phục điều này.
Phương pháp EFM là một phương pháp theo dõi thai nhi bằng điện, phương pháp này cho phép hai đai được cuấn quanh bụng của người mẹ, một đai đo nhịp tim của em bé và vòng còn lại đo các cơn co thắt, từ đó bác sỹ có thể dễ dàng xác định nhịp tim cũng như lượng oxy đang ảnh hưởng đến thai nhi như thế nào và có biện pháp điều trị hiệu quả.
Xét nghiệm nước tiểu
Phụ nữ mang thai thường có xu hướng đi tiểu nhiều hơn trước khi mang thai, do vậy việc lấy nước tiểu xét nghiệm không phải là điều khoa khăn đối với các bà bầu.
Xét nghiệm nước tiểu tìm kiếm một số dấu hiệu giúp bác sỹ biết rất nhiều về tình trạng sức khoẻ của người mẹ. Trong số này dấu hiệu được quan tâm nhất là lượng đường trong máu của người mẹ. Nếu nó quá cao có thể chỉ ra bệnh tiệu đường thai kỳ, nó được gây ra khi hormone thai kỳ ngăn insulin loại bỏ đường trong máu và có thể được điều chỉnh thông qua chế độ ăn uống hoặc thuốc.
Ngoài ra, xét nghiệm nước tiểu còn cho bác sỹ biết nhiều thông tin khác liên quan đến sức khoẻ của bà bầu như:
- Protein trong nước tiểu, có thể chỉ ra nhiễm trùng thận
- Vi khuẩn chỉ ra một số nhiễm trùng liên quan đến đường tiết niệu
- Ketone xảy ra khi cơ thể sử dụng chất béo thay vì carbohydrate để tạo năng lượng và có thể có nghĩa là bạn bị mất nước hoặc thiếu dinh dưỡng
Từ những kết quả xét nghiệm trên bác sỹ sẽ xác định được tình trạng cũng như sức khoẻ của mẹ và thai nhi hiện tại để có phương pháp điều trị kịp thời và hiệu quả
Xác định huyết áp
Ngoài việc kiểm tra các điều kiện được mô tả ở trên, bác sỹ cũng sẽ tìm hiểu tình trạng được gọi là tiền sản giật trong máu và nước tiểu của bạn. Trong máu, điều này có thể được biểu hiện bằng số lượng tiểu cầu thấp và trong nước tiểu, sự hiện diện của protein có thể chỉ ra tình trạng này.
Theo ước tính, tiền sản giật ảnh hưởng đến khoảng 7% phụ nữ mang thai, đặc biệt là những bà mẹ mang thai lần đầu và mang thai nhiều con. Đó là sự gia tăng huyết áp khi mang thai và thường xảy ra muộn, nó có thể có những rủi ro nghiêm trọng về sức khoẻ cho cả mẹ và bé, chẳng hạn như thiếu lưu lượng máu đến nhau thai hoặc vỡ nhau thai. Nếu không được điều trị nó có thể tiến tới sản giật, trong đó người mẹ có thể trải qua cơn động kinh, đe doạ tính mạng.
Đó là lý do tại sao việc theo dõi chặt chẽ huyết áp trong suốt thai kỳ là rất qua trọng, đặc biệt trong nửa sau của thai kỳ. Nhưng điều quan trọng, chỉ riêng huyết áp cao không có nghĩa là tiền sản giật đang xảy ra, nó cần phải được xác định kỹ hơn với protein trong nước tiểu.
Sàng lọc trước sinh
Sàng lọc trước sinh có hai loại là: Triple và quad
- Xét nghiệm triple: Tìm kiếm ba chất trong máu do thai nhi hoặc nhau thai sản xuất: alpha-fetoprotein (AFP), gonadotropin màng đệm ở người (hCG) và estriol.
- Xét nghiệm quad: Thêm chất ức chế A (Inh-A) vào hỗn hợp
Bằng cách đánh giá các chất này trong máu vào khoảng tuần thứ 15 đến 20 của thai kỳ và kết hợp chúng với các yếu tố như tuổi, cân nặng và sắc tố của người mẹ, giúp các bác sỹ xác định dấu hiệu của di tật ống thần kinh như bệnh não hoặc tật nứt đốt sống và các dấu hiệu của hội chứng Down.
Các xét nghiệm có độ chính xác khoảng 80% trong việc dự đoán khuyết tật ống thần kinh. Xét nghiệm triple chính xác khoảng 60% trong việc phát hiện hội chứng Down, xét nghiệm quad phát hiện chính xác khoảng 75%
Điều quan trọng bạn nên biết là xét nghiệm trên chỉ cho thấy được nguy cơ mắc phải những dị tật bẩm sinh cho con bạn mà thôi. Nếu xét nghiệm cho thấy thai nhi có nguy cơ thì xét nghiệm được gọi là dương tính. Như đã nói ở trên, xét nghiệm này chỉ mang tính chất dự đoán nên dù kết quả xét nghiệm là dương tính cũng không có nghĩa con bạn chắc chắn sẽ bị dị tật bẩm sinh. Do đó, trong một số trường hợp, trẻ sinh ra vẫn khỏe mạnh bình thường dù xét nghiệm cho kết quả sàng lọc là bất thường.
Nếu xét nghiệm dương tính, bác sĩ có thể gợi ý bạn nên làm thêm những xét nghiệm chẩn đoán khác, ví dụ như:
- Chọc ối để kiểm tra nhiễm sắc thể của thai nhi
- Siêu âm để quan sát dấu hiệu của dị tật bẩm sinh.
Xét nghiệm dung nạp Glucose
Vào khoảng tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ, bác sỹ có thể đề nghị bạn làm xét nghiệm thử glucose (GCT) giúp sàng lọc nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ. Đây là bước đệm để bác sĩ quyết định xem bạn có cần thực hiện thêm các kiểm tra khác hay không.
Mẹ bầu cần phải hiểu rằng, khi xét nghiệm thử glucose cho kết quả dương tính chưa thể kết luận bạn đang mắc tiểu đường thai kỳ. Vì vậy, bạn cần phải làm thêm xét nghiệm dung nạp glucose (GTT), xét nghiệm này thường mất nhiều thời gian hơn và cho kết quả chính xác, giúp xác định bệnh tiểu đường thai kỳ.
Để xét nghiệm GTT cho kết quả chính xác, mẹ bầu cần nhịn đói 8-12 tiếng trước khi đến xét nghiệm.Như vậy, thời điểm tốt nhất để tiến hành xét nghiệm GTT là vào buổi sáng sớm để tránh việc bạn phải nhịn đói quá lâu.
Nếu bạn bị tiểu đường thai kỳ, bác sỹ sẽ trao đổi với bạn để xây dựng chế độ ăn kiêng, tập thể dục và bổ sung insulin nếu cần thiết. Tình trang này thường sẽ chấm dứt khi em bé trào đời.
Xét nghiệm kiểm tra yếu tố Rh
Theo nghiên cứu, hiện nay có khoảng 85% dân số cho kết quả xét nghiệm Rh dương tính.
Xét nghiệm Rh được tiến hành trên máu của phụ nữ mang thai và đôi khi là máu của cả người cha. Xét nghiệm yếu tố Rh (hoặc Rhesus) tìm kiếm một loại protein được tìm thấy trên bề mặt tế bào hồng cầu. Nếu bạn có loại protein này, bạn được coi là Rh dương tính và không có vấn đề tiềm ẩn nào. Tuy nhiên, nếu bạn thiếu protein (Rh âm tính) và nười cha có nó các biến chứng có thể xảy ra.
Em bé có thể thừa hưởng dòng máu Rh dương tính của người cha. Nếu điều này xảy ra, máu của em bé trộn lẫn với máu của người mẹ, cơ thể người mẹ có thể đối xử với em bé gioongs như bị dị ứng và hệ thống miễn dịch có thể tấn công máu của em bé gây ra tình trạng thiếu máu tàn huyết ở trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, rất hiếm khi máu của thai nhi hoà lẫn với máu của người mẹ khi mang thai, vì vậy tình trạng này thường là mối lo ngại cho lần mang thai tiếp theo. Đó là bởi vì sự xen kẽ của máu có thể xảy ra trong lần sinh nở đầu tiên và lần tới khi người mẹ âm tính với Rh mang thai đứa con Rh dương tính, kháng thể của mẹ sẽ tấn công thai nhi.
Tình trạng này có thể được ngăn ngừa đơn giản bằng cách tiêm vắc-xin vào khoảng tuần thứ 28 của thai kỳ và 72 giờ sau khi sinh con đầu lòng.
Xét nghiệm liên cầu khuẩn nhóm B
Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) gây ra hậu quả rất nghiệm trọng, vì vậy các bác sỹ thường khuyên tất cả các phụ nữ mang thai nên thực hiện xét nghiệm này trong thời gian từ tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 của thai kỳ.
Nếu xét nghiệm là dương tính, nhiều khả năng em bé sẽ mắc bệnh trong khi sinh, điều này có thể dẫn đến các tình trạng nghiệm trọng như: nhiễm trùng huyết, viêm phổi và viêm màng não. Tuy nhiên nếu dùng kháng sinh tiêm tĩnh mạch trong khi sinh nguy cơ này có thể được giảm xuống.
Những triệu chứng này bao gồm:
- Ối vỡ sớm trước 37 tuần
- Ối vỡ sớm trước 18 giờ hoặc lâu hơn trước khi sinh
- Sốt trong khi chuyển dạ
- Nhiễm trùng đường tiểu do Liên cầu nhóm B trong thời kỳ mang thai
- Tiền sử sinh trước đây bé bị nhiễm Liên cầu nhóm B
Xét nghiệm công thức máu toàn bộ
Một trong những xét nghiệm đầu tiên bạn cần khi mang thai là công thức máu hoặc CBC hoàn chỉnh, nó giúp đo lường nhiều yếu tố trong máu của bạn, chẳng hạn như số lượng tế bào bạch cầu và hồng cầu mà bạn có.
Khi bạn mang thai, có ba chỉ số quan trọng mà bác sỹ sẽ quan tâm và tìm kiếm trong kết quả CBC của bạn là: hemoglobin, hematacrit và số lượng tiểu cầu của bạn.
Huyết sắc tố là một protein trong máu cung cấp oxy cho các tế bào của bạn và hematacrit là thước đo của các tế bào hồng cầu trong cơ thể. Nếu một trong hai chỉ số này thấp, nó có thế chỉ ra bạn đang thiếu máu và dựa vào đó bác sỹ sẽ đề ra một quá trình điều trị để giải quyết tình trạng này.
Các tiểu cầu trong cơ thể bạn là những chất giúp cầm máu. Điều quan trọng là số lượng tiểu cầu phải ở trong phạm vi bình thường vì một người phụ nữ trung bình mất 0,5 lít máu khi mang thai, chỉ số về tiểu cầu giúp bác sỹ xác định lượng máu bị mất này nằm trong giới hạn cho phép và không bị mất nhiều hơn. Nếu số lượng của bạn bất thường, bác sỹ sẽ tiến hành các xét nghiệm sâu hơn để tìm ra vấn đề và quản lý điều trị khi thích hợp.
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
Ngoài kiểm tra thành phần tế bào của máu trong giai đoạn đầu của thai kỳ, các bác sỹ cũng sẽ sàng lọc các mẫu máu cho các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) như HIV/AIDS, giang mai, herpes và viêm gan B và C. Ngoài ra bạn cũng được xét nghiệm kiểm tra bệnh lậu và chlamydia.
Phát hiện ra những căn bệnh này sớm trong thai kỳ là rất quan trọng vì tất cả chúng đều có thể truyền sang thai nhi. Bệnh giang mai và HIV có thể lây nhiễm cho em bé khi còn trong bụng mẹ, trong khi các bệnh khác như chalamydia, lậu, viêm gan B và mụn rộp sinh dục có thể lây nhiễm cho em bé khi sinh, khi di chuyển qua kênh sinh.
STDs có thế gây ra một loạt các biến chứng cho em bé bao gồm lây truyền bệnh, sinh sớm, nhiễm trùng mắt (do lậu và chlamydia) hoặc hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều như sẩy thai hoặc thai chết lưu (do giang mai)
Trong trường hợp nhiếm HIV, có thể dùng thuốc làm giảm nguy cơ truyền bệnh cho em bé từ 25% xuống còn xấp xỉ 7%. Mụn rộp sinh dục, một bệnh nhiễm virus khác, không thể chữa khỏi nhưng các bác sỹ có thể đề nghị cắt bỏ phần C nếu phụ nữ bị bùng phát tại thời điểm sinh nở. Trong trường hợp viêm gan B, nếu virus được phát hiện sớm trong thai kỳ, có ít hơn 10% khả năng bệnh sẽ được truyền sang em bé. Nếu được phát hiện ở giai đoạn sau này của thai kỳ, tốc độ truyền tăng lên khoảng 90%.
Chlamydia, giang mai và lậu có thể được chữa khỏi bằng kháng sinh an toàn cho bé.
Siêu âm thai nhi
Siêu âm khi mang thai có lẽ là điều mà cả cha và mẹ đều mong đợi, bởi vì nó cho họ cái nhìn đầu tiên về đứa con bé bỏng của mình.
Trong quá trình siêu âm, một chất có dạng thạch được bôi trơn lên vùng bụng của người phụ nữ và một “cây đũa” siêu âm được di chuyển trên bề mặt da. Sóng âm tần số cao được truyền vào tử cung và được dội ngược lại để mang lại hình ảnh của thai nhi.
Ngoài việc siêu âm giúp cho ba và mẹ thấy được hình ảnh cũng như biết được giới tính của con, các bác sỹ còn tiến hành siêu âm thai nhi vì những lý do khác. Xét nghiệm này rất hữu ích để khám phá tuổi thai của em bé, giúp lập kế hoạch chăm sóc trước khi sinh và dự đoán ngày sinh. Nó cũng giúp xác định vị trí của thai nhi và đảm bảo rằng nó nằm đúng vị trí trong tử cung, không phải trong ống dẫn trứng, điều này cho thấy tình trạng nguy hiểm được gọi là thai ngoài tử cung. Hơn nữa, siêu âm thai cũng đảm bảo em bé đang phát triển bình thường, giúp xác định các dấu hiệu bất thường và kiểm tra nhau thai để đảm bảo thai nhi khoả mạnh.
Siêu âm thai thường được tiến hành trong ba tháng đầu và khoảng giữa thai kỳ nhưng chúng có thể được sử dụng nhiều hơn nếu cần thiết vì chúng hoàn toàn an toàn.
Có thể bạn thích: